Hóa chất melanine, thường dùng trộn phân bón hóa học và chế tao chất plastics, khi pha vào sửa bột Trung Quốc, hầu làm tăng protein, đang làm chết nhiều trẻ em . Vì thế bổ sung bài hóa chất trước :
Vài trường hợp thành công thay đổi ở ngành công nghệ hóa chất xanh, có lẽ Việt Nam nên chú ý hơn chăng ?
G S Tôn Thất Trình
Chúng tôi đã đề cập đến tinh thần boong ke - bunker mentality, mảnh liệt tự vệ, chống đổi thay ở ngành công nghê quan trọng Âu Mỹ này. Nếu bạn không muốn sử dụng một hóa chất nào cả, bạn sống theo lề lối sinh họat thế kỷ 1400 , chiếu theo lời của William Carroll, nguyên chủ tịch Hội Hóa Học Hoa Kỳ - American Chemical Society, nay là Phó chủ tịch Occidental Chemical Corp. Dù có nhiều tiên tiến, tỉ như ở ngành thuốc tẩy sạch – detergents, nguồn gốc dầu dừa và các polymers plastic làm bằng bắp ( ngô ) hay đậu nành ( đổ tương ), thế giới công nghệ vẫn phụ thuộc vào các hợp chất nguy hiểm, không mấy thay đổi, kể từ Thế chiến Thứ hai.
Tiền đề của hóa học xanh là ngăn ngừa các vấn đề môi sinh tốt hơn là làm sạch chúng sau đó. Có nghĩa là biết rỏ nguy hiểm một hóa chất, trước khi nó được chế tạo hay sử dụng đại trà và họa kiểu những hợp chất an tòan hơn, thay thế những hợp chất nguy hiểm. Thế nhưng Hàn Lâm Viện quốc Gia Hoa Kỳ bá cáo là tài trợ cho khảo cứu và phát triễn ở 50 hảng hóa học đầu sổ Mỹ, đã giảm bớt từ năm 2000. Sai lầm trong việc xác định tính chất nguy hiểm của một hóa chất, trước khi nó được sản xuất đại trà, đã gây ra nhiều khủng hỏang lớn tệ hại cho môi sinh nhất, tỉ như vụ asbestos gây ra bệnh phổi chết người, DDT, polychlorinated biphenyls tích lũy trong dây chuyền thực phẩm và chlorofluorocarbon ăn hết ozone. Ngay cả những hóa chất mới cũng gây ra vấn đề. Chẳng hạn, các chất làm chậm bốc cháy – brominated flame retardants cũng mau lẹ tích lũy trên con người và đời sống hoang dã; và cũng đã làm tổn hại đến hệ thống sinh sản, nảo bộ động vật la bô. Đáng tiếc là chúng ta thường không tìm thấy những ảnh hưởng của thật sự độc hại của một hóa chất, mãi đến khi nó đã được thương mãi hóa và vài nhà khoa học can đảm, đâu đó, hình dung ra là thiên nhiên cho chúng ta biết vấn để xảy ra ở đâu, hay khám phá tính chất độc hại trong la bô, theo lời Terry Collins, giáo sư hóa học, chỉ huy Viện Khoa Học Xanh tại Đại học Carnegie Mellon University. Chiếu theo Đạo luật Kiểm sóat các chất độc hại ban hành ở Hoa Kỳ năm 1976, cơ quan EPA có thể cấm hay hạn chế bất cứ chất nào “ nếu như nó tỏ ra là là nguy hiểm bất thường tổn hại sức khỏr hay môi sinh”. Thế nhưng hóa chất công nghệ cuối cùng bị cấm theo luật là asbestos năm 1989, và một tòa án đã đảo ngược quyết định.EPA thường mất hàng chục năm phân tích đe dọa của các chất hóa học cá nhân. Phải cần 20 năm trời duyệt xét dioxins, những chất gây ung thư tạo ra ởcác nhà máy hóa học, các nhà máy chế tạo giấy, cũng như các nhà máy sử dụng vài hóa chất chlorine. Vì thế cho nên ngành hóa học xanh vẫn tiếp tục họat động ở biên tế mà thôi.
Tiền đề của hóa học xanh là ngăn ngừa các vấn đề môi sinh tốt hơn là làm sạch chúng sau đó. Có nghĩa là biết rỏ nguy hiểm một hóa chất, trước khi nó được chế tạo hay sử dụng đại trà và họa kiểu những hợp chất an tòan hơn, thay thế những hợp chất nguy hiểm. Thế nhưng Hàn Lâm Viện quốc Gia Hoa Kỳ bá cáo là tài trợ cho khảo cứu và phát triễn ở 50 hảng hóa học đầu sổ Mỹ, đã giảm bớt từ năm 2000. Sai lầm trong việc xác định tính chất nguy hiểm của một hóa chất, trước khi nó được sản xuất đại trà, đã gây ra nhiều khủng hỏang lớn tệ hại cho môi sinh nhất, tỉ như vụ asbestos gây ra bệnh phổi chết người, DDT, polychlorinated biphenyls tích lũy trong dây chuyền thực phẩm và chlorofluorocarbon ăn hết ozone. Ngay cả những hóa chất mới cũng gây ra vấn đề. Chẳng hạn, các chất làm chậm bốc cháy – brominated flame retardants cũng mau lẹ tích lũy trên con người và đời sống hoang dã; và cũng đã làm tổn hại đến hệ thống sinh sản, nảo bộ động vật la bô. Đáng tiếc là chúng ta thường không tìm thấy những ảnh hưởng của thật sự độc hại của một hóa chất, mãi đến khi nó đã được thương mãi hóa và vài nhà khoa học can đảm, đâu đó, hình dung ra là thiên nhiên cho chúng ta biết vấn để xảy ra ở đâu, hay khám phá tính chất độc hại trong la bô, theo lời Terry Collins, giáo sư hóa học, chỉ huy Viện Khoa Học Xanh tại Đại học Carnegie Mellon University. Chiếu theo Đạo luật Kiểm sóat các chất độc hại ban hành ở Hoa Kỳ năm 1976, cơ quan EPA có thể cấm hay hạn chế bất cứ chất nào “ nếu như nó tỏ ra là là nguy hiểm bất thường tổn hại sức khỏr hay môi sinh”. Thế nhưng hóa chất công nghệ cuối cùng bị cấm theo luật là asbestos năm 1989, và một tòa án đã đảo ngược quyết định.EPA thường mất hàng chục năm phân tích đe dọa của các chất hóa học cá nhân. Phải cần 20 năm trời duyệt xét dioxins, những chất gây ung thư tạo ra ởcác nhà máy hóa học, các nhà máy chế tạo giấy, cũng như các nhà máy sử dụng vài hóa chất chlorine. Vì thế cho nên ngành hóa học xanh vẫn tiếp tục họat động ở biên tế mà thôi.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp thay đổi thành công, có lẽ nên nhắc qua, như sau đây:
A - 10 hảng Hoa Kỳ trong số 62 hảng đọat giải hóa học xanh quốc gia ( Hoa Kỳ ), thiết lập từ năm 1996, của Cơ quan Bảo Vệ Môi truờng – Environmental Protection Agency Hoa Kỳ. ( muốn biết thêm , xin mở trang web latimes.com/chemistry )
1- Những Sản phẩm Rừng Cọlumbia: mọi gỗ dán và ván ghép từng mảnh nhỏ rừng gỗ cứng ( lá rộng ) – hard wood plywood and particleboard . sử dụng làm kệ tủ phòng bếp, đóng panô và công dụng khác, đều sạch - không chứa formaldehyde.
2- Cargill Inc: chế tạo bọt nổi poly urethane dùng làm nệm gối bàn ghế, trải giường bằng cách dung nguồn tái sinh sinh học tỉ như dầu thực vật, thay cho các sản phẩm dầu lữa
3- SC Johnson và Sons: tạo ra một hệ thống: danh sách xanh – greenlist , đo lường sác xuất ảnh hưởng sinh môi các thành phần dùng chế tạo.Chẳng hạn , Saran Wrap đã được tái công thức hầu lọai bỏ polyvinylidene chloride.
4- BASF Corp.: Phát triễn một sơn lót -paint primer xe hơi có ít hơn phân nữa một hợp chất bốc hơi dùng ở sơn lót qui ước . Sơn lót mới cũng không chứa diisocyanates, gây ra suyễn.
5- Metabolix Inc .: sản xuất các plastics thiên nhiên từ các vi sinh vật đã được phát triễn theo một tiến trình công nghệ sinh học mới.
6- AgraQuest Inc.: Phát triễn một thuốc trừ nấm sinh học –biofungicide sinh học cho cây ăn trái ( quả ) và rau đậu sử dụng một dòng vi khuẩn thiên nhiện Thuốc này không tạo nên những chất bả nguy hiểm , an tòan cho công nhân và nước uống ngầm.
7- Shaw Industries Ịnc. : Làm ra gạch thảm – carpet tiles, bằng các vật liệu ít độc hại hơn và tái sinh dễ dàng
8- Dow AgroSciences LLC. : Phát triễn Sentricon, giết chết mối bằng bẩy bắt - bait, thay vì phải xịt thuốc trên đất quanh gia cư và các cấu tạo xây cất.
9- Archer Daniels Midland Co. : sáng chế ra một vật liệu cho sơn latex từ dầu bắp ( ngô ) và cây rum ( carthame – safflower) thay các hợp chất tạo mù sương -smog căn bản dầu lữa .
10 – Pfizer Ịnc. : cải thiện chế tạo thuốc trừ trầm kha – antidepressant Zoloft, tăng đôi năng xuất, giảm nguyên liệu thô, lọai bỏ hàng triệu cân Anh vật liệu nguy hiểm, dùng ít năng lượng và nước hơn .
B- Hóa học xanh không được giảng dạy ở các trường đại học Hoa Kỳ
Như đã trình bày ở bài trước ,làm xanh ngành hóa học là một thay đổi chậm rì, không phải là một cuộc cách mạng. Đa số hóa học gia Hoa Kỳ thiếu hẳn huấn luyện căn bản hiểu biết hiểm nguy môi sinh, theo lời giáo sư hóa học Paul Anastas, viện đại học Yale, được xem như là cha đẻ của phong trào hóa học xanh Hóa học xanh không phải là một lý thuyết. Ngành này luôn luôn được các công ty chứng minh, mãi mãi không ngưng . Bị các luật lệ điều hành thúc đẩy, đòi hỏi của giới tiêu thụ, một triết lý doanh nghiệp thân thiện môi sinh và nổi lo sợ bị kiện cáo đòi bồi thường, các công ty , hổn hợp công ty lớn nhỏ, các tiệm bán lẽ , các nhà chế tạo đã đào thải vài hóa chất, lấy sản phảm ra khỏi kệ tiệm và họa kiểu những sản phẩm khác . Các tên tiệm rất thân thuộc ở Mỹ : Wal-Mart, một hảng của đại công ty tiêu khiễn Walt Disney Co., Ikea, Home Depot, Nalgene, Kaiser Permanente, Baxter HealthCare, Gerber Chlorox và Origins.
Thế nhưng , ngay cả những công ty như Avalon Organics, cũng học hỏi là chế tạo một thuốc gội đầu shampoo bay một gel vòi tắm hoa sen không chứa những chất độc hại, không phải là chuyện dễ dàng. Các hóa chất tổng bợp như phthalates thêm hương thơm, parabens giết các mầm bệnh , acid sulfuric và các hóa chất dầu lữa tạo ra sủi bọt dày đăc. Các chất này từ lâu, đã đượx xem là những thành phần thiết yếu ở ngành phấn sáp – cosmetics và sản phẩm tắm rữa . Nhưng chúng đã được liên kết với ung thư, lệch lạc hormones và nhiều đe dọa khác cho dân gian và môi sinh .
C- Trải bày sớm sủa
Ô nhiễm hóa học khởi đầu từ dạ con . Ngay cả trước khi em bé thở, thân thể em bé chứa đựng hóa chất mẹ em truyền sang. Thử nghiệm dây rốn cho thấy thân thể em bé mới sinh , chứa gần 300 hợp chất , trong số này phải kể đến thủy ngân từ cá, các chất làm bốc cháy chậm từ các bụi bặm gia cư, các thuốc diệt trừ dịch ( sâu , bệnh , cỏ dại )- pesticides từ các sân vườa sau nhà, hydrocarbons từ các nhiên liệu hóa thạch . Hầu như mọi điều chúng ta mua sắm, thở , ăn hay uống , đều có những dấu vết các chất độc hại . Danh xưng các tên hóa chất rất dễ lẫn lộn , bảng liệt kê làm mù mờ trí óc: Bisphenol A ở các chai sửa trẻ em bú, cũng như ở các hộp thực phẩm. Phthalates trong đồ chơi vinyl . Các chất làm chậm bốc cháy polybrominated ở nệm gối bàn ghế. Formaldehyde ở kệ tủ phòng bếp . Radon ở ở mặt quầy thạch cương –granit. Chì ở môi son . 1,4 Dioxane ở shampoo. Các hợp chất hửu cơ ở thuốc xịt tóc.
Mỗi ngày, lại có thêm độ nữa tá hóa chất mới cọng vào con số 83 000 hóa chất đã bán ở thị trường Hoa Kỳ. Riêng Hoa Kỳ, mỗi ngày đã sản xuiất hay nhập khẩu chừng 42 tỉ cân Anh hóa chất. Dù cho bang Ca Li không có nhà máy lớn chế tạo hóa chất, Ca Li vẫn là bang tiêu thụ nhiều hóa chất nhất Hoa Kỳ: Khỏang 644 triệu cân Anh bán ra mỗi ngày ở đây, theo một báo cáo của Đại học Ca Li về hóa chất xanh, xuất bản tháng giêng năm 2008.
Nhiều hóa chất tỏ ra ít độc hại, thế nhưng các dữ liệu căn bản y tế và an tòan thiếu sót hẳn cho 80% hóa chất. Vài chất, tỉ như khí chlorine mà một số lượng nhỏ xíu, đã có thể chết người rồi. Các chất khác có thể tăng thêm hiểm nguy ung thư hay các bệnh khác. Những thí nghiệm trên động vật cho thấy là vài hóa chất hủy bỏ hệ thống miễn nhiễm , ngăn trở bộ nảo phát triễn, làm tiêu hao testosterone. Làm tế bào đột biến , làm tắt- mở các genes hay làm thay đổi các bộ phận sinh sản.
Kể từ thập niên 1960, khi thuốc trừ sâu DDT gần như làm diệt tuyệt đại bàng đầu sói – bald eagle. Chánh sách công cộng đã cứu xét nhữing hiểm nguy trên căn bản hóa học : cấn dùng một vài hóa chất , hạn chế dùng vài hóa chất khác và làm sạch lộn xộn để lại phía sau.
Trong khi đó, gần như phân nữa sông ngòi Hoa Kỳ, đã được xếp vào hạng bị hư hại vì ô nhiễm, không khí đa số đô thị bị phủ đầy bồ hóng và mù sương, và đạo luật tốn hàng tỉ đô la để làm sạch danh sách Siêu Ngân khoản - Superfund về các vị trí phể thải hiểm nguy mỗi ngày mỗi gia tăng. .Hóa chất đã di chuyễn từ cực này đến cực khác qua các đại dương và gió thổi, biến các động vật và con người khắp thế giới thành những chuột la bô thiếu không ngoan .
Các nhà khoa học và các nhà điều hành, liên tục cố tâm hình dung xem thử các hóa chất đủ lọai có đe dọa không và ở mức độ nào, nhưng họ ít khi đi đến một giải pháp dứt khoát. Ngay cả khi một hóa chất chứng minh là nguy hiểm đã bị cấm, cần hàng chục năm, có thể là cả mấy trăm năm, hóa chất mới tiêu tan. Đôi khi, chất thay thế cũng nguy hiểm không kém.
Vị trí phế thải nguy hiễm ở bang Ca Li vẫn tiếp tục gia tăng và chúng đầy kẻ hở, theo lời Maurice Gorsen, giám đốc Cục Kiểm sóat Các Chất Độc hại bang Ca Li. Theo ông, chúng ta cần một chuyễn hướng hóa học đồ sộ. Chúng ta cần chuyễ trở lại từ đầu, đến phần họa kiểu , những gì đưa tới sản phẩm chúng ta sử dụng, thay vì những gì xuất phát cuối cùng .
D - Một công thức đơn giản
La bô bên trong trụ sở tổ hợp công ty Shaklee, thị trấn Pleasanton bang Ca Li, không gì khác lạ các la bô khác. Nhưng thiếu nhiều hóa chất: Chlorine, formaldehyde, glycol ethers , các chất hòa tan . Mặc áo trắng la bô, nhà khoa học chánh Arshad Malik khởi đầu bằng một cốc bê se - beaker đầy nước. Ông trộn một chất làm đặc căn bản là rau đậu , rồi đổ vào đó một pha trộn dầu dừa và đường trích chiết từ bắp ( ngô ). Cuối cùng ông thêm một giọt chất bảo quản. Malik đang chứng minh một công thức đơn giản, chế tạo một chất làm sạch gia thất sản phẩm chính một lọat chất “ Get Clean “ của hảng . Không còn chứa các hóa chất dầu lữa và formaldehyde nữa . Tuy các chất này rẽ tiền và hửu hiệu , chúng phát ra những hơi bốc độc hại.
Khi Shaklee bắt đầu tìm kiếm một chất họat tính bề mặt - surfactant, thành phần làm hòa tan chất dơ bẩn và mỡ màng, không một công ty nào tỏ vẽ chú trọng sáng chế một hóa chất từ rau đậu . Mãi cho đến lúc Shaklee gọi sang Đức và nói chuyện với các nhà hóa học hảng Cognis , một nhà chế tạo các chất đặc thù . Kết quả : một chất pha trộn dầu dừa và đương có thể phân hóa sinh học được. Joseph Koester giám đốc thương mãi cho Cognis ở Bắc Mỹ , nói rằng hảng ông ta tạo ra ra chất họat tính bề mặt dầu dừa và đường bằng cách hội nhập một ý niệm đơn giản : “sử dụng ít hóa học hơn” .
Một vài sản phẩm hóa học xanh đang cố gắng lĩnh chiếm một phần thị trường từ các nhãn hiệu chánh lớn , bằng cách cống hiến vượt khỏi các thành phần thân thiện môi sinh . Các chất làm sạch phòng bếp và phòng tắm của hảng Method , tọa lạc tại thành hhố San Francisco, giá 10% đắt hơn các chất cỗ truyền , được làm thơm bằng ỏai hương - lavender và các dầu tinh khiết khác và chứa đựng trong những hộp đẹp mắt và hào nhóang . Nhà hóa học công nghệ Adam Lowry, tốt nghiệp đại học Stanford và đồng thiết lập viên hảng Method nói: nếu cần trở thành xấu xí làm xanh, thì sẽ không bao giờ lọt được vào dòng chánh hóa học cả thảy . Chúng tôi trình bày cho giới tiêu thụ là mua sắm xanh , không những tốt cho sức khỏe , mà còn dễ thích thú hơn và gần như không tổn phí gì thêm.
Mức bán hảng Methods , một trong những hảng tư nhân lớn mạnh mau lẹ nhất năm 2006, đạt doanh vụ 77 triệu đô la Mỹ một năm . Hảng Avalon Organics cũng tăng cao mức bán : năm ngóai hảng Hain Celestal được biết nhiều về các thực phảm hửu cơ đã mua Avalon Organics với gíá 120 triệu đô la . Lowry nói thêm: chúng tôi xây dựng hóa học xanh từ lúc ban đầu. Đây là lõi trung tâm triết lý doanh vụ chúng tôi . Công ty nào không làm như thể, sẽ thành khủng long , tuyệt tích .
Còn Johns Manville đã học một bài học chua cay. Hảng phá sản vì một giai đọan một chất chết người và độc hại đắt tiền nhất lịch sử: asbestos . Hảng chế tạo vật liệu xây dựng này , nay là tài sản một chủ nhân mới, muốn rằng vật cách ly bằng sợi gương - fiberglass mới phải an tòan sinh môi, càng nhiều càng hay . Thế cho nên hảng quay về hỏi đại công ty Rohm and Haas , một công ty hóa học doanh vụ 9 tỉ đô la một năm , sáng chế một chất keo dính mới không có formaldehyde là chất làm dính tốt nhất cho sợi gương , nhưng lại là một chất gây ra ung thư. Johns Manville , nay là nhà chế tạo duy nhất cống hiến một dòng sản phẩm làm vật cách ly, hòan tòan không chứa formaldehyde và cũng là một hảng khỏi bị xếp vào hạng tiêu chuẩn liên bang làm ô nhiễm môi sinh . Chất keo dính này đắt tiền hơn. Nhưng Mike :Lawrence, phó chủ tịch cho Manville, và là tổng quản lý hệ thống vật cách ly nói rằng tiến trình chế tạo sẽ khít khao, hầu làm bớt phí tổn.Tuy nhiên các sản phẩm không chứa formaldehyde cũng chỉ mới chiếm 20 % thị trường vật cách ly.
Cục công chánh bang Ca Li Caltrans cũng đã phải tìm cho ra một sơn mới sơn 800 cầu thép, không những làm bớt ô nhiễm mà còn phải chống thời tiết nữa . Thách thức lớn nhất cho hảng Rohm anh Hass là ý thức sơn căn bản nước không bền bỉ được . Bary Marks, phụ tá kỷ sư thử nghiệm hóa chất nói rằng sơn ít phát thải mới, đã được dùng sơn cầu Ca Li từ 2 năm nay; diện tích là 86 triệu bộ vuông . Sơn mới cũng chống rĩ như sơn cũ, và có thêm một ích lợi: nó giữ các màu sắc cầu bóng lóang hơn. Giá mỗi ga lông tương đương giá cũ , nhưng bang Ca li tiết kiệm khỏi phải làm sach và phá hủy . Công nhân cũng thích lọai sơn mới ,vì các sơn chứa nước ít độc hại hơn nhiều .
( Irvine , Ca li ngày 28 tháng 9 năm 2008 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét