Nhân khởi sự công nghiệp xây cất thành phố “ mới “ khang trang, khu phố tân trang đô thị cho 50 triệu thị dân Việt Nam ( hiện nay khỏang 25 triệu ), thử lạm bàn về :
Tiến triễn hai công nghiệp xây cất căn bản sắt thép và nhôm ở Việt Nam :
GS Tôn thất Trình
Phát triễn đô thị mới là khuynh huớng cần thiết cho mọi xã hội đang vươn lên theo đà giảm bớt dân nông thôn ( dự trù nông thôn chỉ còn 40-50 % dân , thay vì 70- 75% hiện nay, nghĩa là phải tìm nơi ăn chốn ở cho 50 triệu dân đô thị mới, cũ . Công nghệ hóa và dich vụ hóa xứ sở, nhất là ở các nước Á Châu ngày nay , sau giai đọan tự túc thực phẩm ( mà ở Việt Nam đã phải cần qúa lâu , trên 20 năm từ 1975 đến 1995 mới thực hiện, sau khi nội chiến chấm dứt ), phát triễn nông nghiệp xuất khẩu : gạo , rồi đến cà phê , cao su , thủy sản , hột điều , tiêu, trà… , chưa thành công bao nhiêu về các thực phẩm khác như khoai mì chẳng hạn, trái cây rau -đậu và chỉ mới khởi sư ngành hoa cắt cành , Thái Lan đã làm từ lâu .
Còn giai đọan công nghệ hóa xứ sở cũng chỉ mới triễn khai vài năm gần đây, tập trung trên các xuất khẩu vải vóc , dày dép , đồ gỗ ( mộc ) , gía trị phụ thấp , cường độ nhân công cao, đẳng cấp hàng hóa thấp , mà lại tốn nhiều vật liệu nhập khẩu , như 70 – 80% nguyên liệu ở các ngành dệt , dày dép , đồ gỗ chẳng hạn . Ngành du lịch cũng đã tân tiến hóa phần nào , mới đây qua mặt Phi Luật Tân , nhưng cũng còn kém Trung Quốc , Thái Lan v.v… Ngòai vấn đề cận đại hóa hạ tầng cơ sở giao thông ( đường xá , cầu cống , xe lữa, cảng biển, cảng sông , phi trường ,điện nước , viễn thông , y tế ( nhà thương) , học đường, các khía cạnh cải thiện xã hội khác v.v…., vấn đề đô thi hóa, trong đó mọi điều cải thiện đời sống văn minh mới của thị dân ngày nay, từ đường xá kiểu mới ở các khu phố thị trấn , chí đến các chung cư , chung hô , công đô , biệt thự – vi la, gia cư riêng, cơ sở phòng ốc , dinh thự hành chánh , thương xá khách sạn , quán ăn sang trọng, các khu tiêu khiển giải trí , viện bảo tàng, hí trường ca kịch nhạc, vận động trường thể thao , thể duc… đều phải được đặt ra và qui họach hóa cẩn thận ,theo chiều hướng tân thời trên thế giới . Bài giới thiệu đô thị kiến trúc thế kỷ 21 Dubai và bài tháp dinh cơ lá xanh - green blade , kiểu kiến trúc cận đại của Jean Nouvel , vừa đọat giải kiến trúc nổi tiếng thế giới Pritzker 2008 . ( Nước ta chỉ biết đến giải La Mã Pháp , cố kiến trúc sư Ngô Viết Thụ người họa kiểu dinh Đôc Lập( dinh Thống Nhất ? ), thay thế dinh Tòan Quyền Norodom cũ ) . Thế nhưng lựa chọn mô hình” Phú Mỹ Hưng “ , phía Nam Sài Gòn ( đang dự kiến những mô hình tương tự ở Hà Nội , Hải Phòng , Đà Nẳng ? ), có hay không những dinh cơ cao tầng ( 45 tầng ? ) kiểu tụ hội “ Ngôi Sao “ đặc thù cho Việt Nam ở Sài Gòn ,khác hẳn kiểu nhà nữa Tàu , nữa Việt , mô phỏng kiến trúc Hòa Thân nhà Thanh ở Nghệ An, tuy có thể là một tiến bộ vượt bực so với các ổ chuột thối tha , phố xá dơ bẩn, kẹt xe , không khí ô nhiễm .v.v…của một thành phố 8 triệu người , chỉ giải quyết một hai khía cạnh vấn đề . Nhất là khi hai công nghệ vật liệu xây cất căn bản ngày nay, còn thua kém các nước đang mở mang Đông Nam Á , không nói đến các nước đã mở mang Đông Á (Nhật , Nam Hàn , Đài Loan )
Còn giai đọan công nghệ hóa xứ sở cũng chỉ mới triễn khai vài năm gần đây, tập trung trên các xuất khẩu vải vóc , dày dép , đồ gỗ ( mộc ) , gía trị phụ thấp , cường độ nhân công cao, đẳng cấp hàng hóa thấp , mà lại tốn nhiều vật liệu nhập khẩu , như 70 – 80% nguyên liệu ở các ngành dệt , dày dép , đồ gỗ chẳng hạn . Ngành du lịch cũng đã tân tiến hóa phần nào , mới đây qua mặt Phi Luật Tân , nhưng cũng còn kém Trung Quốc , Thái Lan v.v… Ngòai vấn đề cận đại hóa hạ tầng cơ sở giao thông ( đường xá , cầu cống , xe lữa, cảng biển, cảng sông , phi trường ,điện nước , viễn thông , y tế ( nhà thương) , học đường, các khía cạnh cải thiện xã hội khác v.v…., vấn đề đô thi hóa, trong đó mọi điều cải thiện đời sống văn minh mới của thị dân ngày nay, từ đường xá kiểu mới ở các khu phố thị trấn , chí đến các chung cư , chung hô , công đô , biệt thự – vi la, gia cư riêng, cơ sở phòng ốc , dinh thự hành chánh , thương xá khách sạn , quán ăn sang trọng, các khu tiêu khiển giải trí , viện bảo tàng, hí trường ca kịch nhạc, vận động trường thể thao , thể duc… đều phải được đặt ra và qui họach hóa cẩn thận ,theo chiều hướng tân thời trên thế giới . Bài giới thiệu đô thị kiến trúc thế kỷ 21 Dubai và bài tháp dinh cơ lá xanh - green blade , kiểu kiến trúc cận đại của Jean Nouvel , vừa đọat giải kiến trúc nổi tiếng thế giới Pritzker 2008 . ( Nước ta chỉ biết đến giải La Mã Pháp , cố kiến trúc sư Ngô Viết Thụ người họa kiểu dinh Đôc Lập( dinh Thống Nhất ? ), thay thế dinh Tòan Quyền Norodom cũ ) . Thế nhưng lựa chọn mô hình” Phú Mỹ Hưng “ , phía Nam Sài Gòn ( đang dự kiến những mô hình tương tự ở Hà Nội , Hải Phòng , Đà Nẳng ? ), có hay không những dinh cơ cao tầng ( 45 tầng ? ) kiểu tụ hội “ Ngôi Sao “ đặc thù cho Việt Nam ở Sài Gòn ,khác hẳn kiểu nhà nữa Tàu , nữa Việt , mô phỏng kiến trúc Hòa Thân nhà Thanh ở Nghệ An, tuy có thể là một tiến bộ vượt bực so với các ổ chuột thối tha , phố xá dơ bẩn, kẹt xe , không khí ô nhiễm .v.v…của một thành phố 8 triệu người , chỉ giải quyết một hai khía cạnh vấn đề . Nhất là khi hai công nghệ vật liệu xây cất căn bản ngày nay, còn thua kém các nước đang mở mang Đông Nam Á , không nói đến các nước đã mở mang Đông Á (
Việt Nam sản xuất gang , sắt thép thấp kém từ lâu, so với các nước Đồng Nam Á
Ngòai cát sạn , đá khối , cẩm thạch , xi măng , gương ( ba nhà máy cở nhỏ dự trù là nhà máy dùng cát Phú Vang hay Phong Điền – Thừa Thiên., nhà máy Ba Đồn - Quảng Bình và nhà máy Cát Bi - Hải Phòng) , hai vật liệu thiết yếu cho xây cất là sắt thép và nhom , cần nhập khẩu hay sản xuất trong nước .
Tính đến năm 2001 công nghiệp luyện kim nước nhà không tiến triễn bao nhiêu cả . Năm 2000 , Việt Nam sản xuất được 1,6 triệu tấn thép cán .So với năm 1990, sản lượng thép đã tăng 165 lần, nhưng cũng chỉ đáp ứng 2/3 nhu cầu thép ở thị trừờng Việt Nam thời gian này, một thị trường này vẫn rất nhỏ hẹp , vì mức phát triễn kinh tế thấp kém , suốt cuốithế kỷ 20. Xí nghiệp liên hợp sản xuất gang thép Thái Nguyên , phân bố gần mỏ sắt Trại Cau, sản xuất hàng năm 200 000 tấn gang và 150 000 tấn thép . Nhà máy thép VIKIMCO Thủ Đức điện luyện cán thép , công xuất 20 000 tấn /nặm. Năm 1996 mới hòan thành nhà máy thép lớn VINAKYOEI ở Phú Mỹ, sông Thị Vãi ,Bà Rịa – VũngTàu ,trang thiết cận đại , sản xuất thép xây dựng trên cơ sở phôi thép nhập ngọai , công xuất thiết kế là 240 000 tấn /năm. Nhà máy thép Vật Cách Hải Phòng sản xuất 200 000 tấn / năm . Nhà máy liên hợp gang thép lớn sẽ khởi công năm 1997 , dự trù hoàn thành năm 2000 công xuất 2 triệu tấn /năm , khai thác quặng mỏ sắt Thạch Khê có trử lượng lớn ( 570 triệu tấn ) , hàm lượng sắt trong quặng cao trên 60% , nhưng đến 2007 vẫn chưa khởi công. Ngòai ra, còn có một số lò điện luyện các thép nhỏ công xuất dưới 20 000 tấn ở Sài Gòn , Hà Nội, Đà Nẳng , Hải Phòng
Ngành sản xuất sắt thép của Việt Nam đứng hàng thứ sáu, hạng chót các nước Đông Nam Á Châu - Thái Bình Dương đang mở mang , tuy rằng mỏ quặng sắt nước nhà phong phú ( Thạch Khê -Hà Tỉnh, dự trữ ước luợng mới là 4 tỉ tấn, magnetit Nà Rủa, Nà Lũng – Cao Bằng, Tòng Bá - Hà Giang 200 triệu tấn, cao hơn Trại Cau -Thái Nguyên …. )
Năm 2006 , 6 nước Asean ( Indonêxia, Malaysia, Phi Luật Tân , Singapore , Thái Lan và Việt Nam) tiêu thụ 38 triệu tấn thép , ít hơn năm 2005,vì Thái Lan giảm bớt tiêu thụ . Nhưng năm 2007, đã gia tăng lại đến 40 triệu tấn một kỷ lục từ trước đến nay. Mức tiêu thụ ở Inđônexia tăng lên 18% năm 2007 so với năm 2006 và mức xuất khẩu thép tăng 6.2 % . Mã lai Á cũng tăng mức tiêu thụ thêm 5.4 % so với năm 2006 và hy vọng sẽ tăng khỏang 7 % năm 2008 . Năm 2007, Malaysia vẫn tiếp tục xuất khẩu . Phi Luật Tân tăng 5 % năm 2007 .Singapore 15% năm 2007 và hy vọng tăng 10% năm 2008 . Chỉ Thái Lan là giảm bớt 6 %. Tiêu thụ thép ở Việt Nam chỉ đạt 1.9 triệu tấn vào các năm 2000 – 2005 , thua kém xa các nước Á châu . Mức tiêu thụ thép cuộn – hot roll steel ở Nhật năm 2005 là trên 101 triệu tấn , Nam Hàn trên 48 triệu tấn . Thái Lan cũng tiêu thụ 9.5 triệu tấn gấp ba bốn lần Việt Nam năm 2005, cả sản xuất trong nước lẫn nhập khẩu .. Nhưng nhờ tiến triễn kinh tế mạnh hơn, hai năm gần đây, nên đã gia tăng đến 42% năm 2007 so với 2006 . Hy vọng sẽ tăng thêm 15% năm 2008 . Chúng ta đã biết sắt thép là nguyên liệu căn bản cho làm đường xá , cầu cống , nhà máy điện , các vật dụng gia thất, chế tạo và xây cất. Sản xuất thép nội địa tăng 2.1 % mỗi năm, nhưng vẫn còn phải nhâp khẩu, 40 % hầu thỏa mãn nhu.cầu gia tăng , đặc biệt là bán sản phẩm thanh thép nhỏ - billets .
Nhà máy sắt thép Thái Nguyên TISCO–Thái Nguyên Iron and Steel Corporation, cách Hà Nội 70 Km , tuy đã được thiết lập từ năm 1959, chỉ mới sản xuất được 120 000 tấn gang một năm, theo kỷ thuật cỗ điển cỗ lỗ xỉ lò cao – blast furnaces . Ngành sắt thép ít tiến triễn, vì thị trường còn quá lo âu về nông nghiệp nên nhỏ hẹp,nguồn tài chánh thiếu hụt , hạ tầng cơ sở chưa có , nhân viên quản trị điều khiển khiếm khuyết , thiếu kỷ sư ngành sắt thép , nhân công , cán sự chuyên nghiệp sắt thép chưa đào tạo . Năm 1994, Tổ hợp Thép Việt Nam- Việt Nam Steel Corporation VSC được thành lập , để thúc đẩy sản xuất sắt thép . Nhưng mãi đến năm 2007, mới mở cửa đổi mới thật sự, thay đổi chánh sách trong ngành. Kế họạch 2007- 2005 qui tụ 4 công ty quốc doanh và hợp doanh là VSC, TISCO, VINAMSTEEL một hợp doanh giữa Việt Nam - Úc và VINAKYOEI hợp doanh giữa Việt Nam – Nhật . Dự án đề xướng sản xuất thép hòan tất – finished steel dự kiến đạt 6.3- 6.5 triệu tấn năm 2010 , 11 – 12 triệu tấn năm 2015 và 19- 22 triệu tấn năm 2025 , kể cả 11- 13 triệu tấn thép dẹp – flat steel và 0.2 triệu tấn thép đặc biệt cho bộ Quốc phòng . Việt Nam hy vọng sẽ xuất cảng 0.5 triệu tấn thép năm 2025 , nếu vượt chỉ tiêu sản xuất 24- 25 triệu tấn . Về gang – cast iron , dự trù sản xuất 5.5 triệu tấn năm 2010, so với mức 1.9 triệu năm 2005 và 10- 12 triệu tấn năm 2015. Mức sản xuất sắt thép thỏi – ingot iron steel dự trù 3.5 0- 4.5 triệu tấn năm 2010 và 6 – 8 triệu tấn năm 2015.
6 nhà máy lớn dự trù thiết kế từ 2007 đến 2015 ? Hòan tất được bao nhiêu đây và trễ hạn bao lâu?
Liên hợp Sắt Thép Hà Tĩnh- Steel Combinat dung lượng dự trù là 4.5 triệu tấn , sẽ họat động năm 2011
Phức Tạp Dung Quất Complex thực hiện hai hay ba giai đọan , dung lượng 5 triệu tấn một năm
Posco Hàn quốc- South Korea Posco sản xuất cuộn thép nóng và lạnh , và 3 triệu tấn / năm thép mạ kẽm – galvanized steel
ESSA , công ty thép bang Gujurat Ấn Độ, cọng tác với một công ty địa phương làm nhà máy cuộn thép phiến - plate roll steel mill . ESSA là một công ty tranh dành với tổ hợp Công Ty Tata Steel ,cũng của Ấn Độ
Nhà Máy liên Hợp Thái Nguyên gang ( lò cao ) và thép
Liên hợp Thép Lào Cai - Lao Cai Steel Combinate.
Cùng những xưởng máy nhỏ khác, ở Lào Cai, Tuyên Quang, Cao Bằng , Hà Giang , Yên Bái và Bắc Cạn. Năm 2010 – 2015 sẽ khởi đầu xây dựng các lò thép điện- Steel Mill Electric Furnace ,kích thước lớn hơn các lò thép điện đã kể trên và các thép đặc biệt dùng chế tạo động cơ và quốc phòng. Ngòai ra , năm 2007 các hảng sắt thép lớn trên thế giới, ngòai Posco Hàn ( Nam ) Quốc , cũng muốn đầu tư liên doanh với VSC như BaoSteel Trung Quốc , India Tata Steel Ấn Độ , Evraz Nga .vv…. Theo Kuwabata, nhà kinh tế học chuyên nghiệp về thép của Nhật ( tháng 9/2007 ) các lò cao- blast furnace của TISCO, cũng như các lò cao luyên thép của Trung Quốc ở Thiểm Tây thiếu hửu hiệu , giá trị sản phẩm kém , tỉ lệ dùng than cốc – coke cao . Các lò Ong cốc – beehive coke oven , có thể thay thế bằng lò đốt mini blast hay các lò cơ khí hóa , nhưng lại cần kỷ sư chuyên nghiệp giỏi xử lý, nhà máy mới hửu hiệu. Chưa kể các luật lệ khắc khe bảo vệ môi sinh , phải được điều hòa và tuân thủ đàng hòang, tỉ như đo lường các ô nhiễm không khí phải được thực thi và báo cáo , phải tuân thủ các phương pháp làm sạch nước thải nhà máy cũng như tái sử dụng các khí B và C , thiết bị các máy tiết kiệm năng lượng hệ thống dập tắt cốc khô – coke dry quenching system … Những công trình này đòi hỏi một đầu tư khó tìm , 10 – 12 tỉ đô la Mỹ vào các năm 2007 - 2025 , 8 tỉ vào thời gian 2007- 2015.
Việt Nam sẽ sử dụng các mỏ quặng sắt trong nước. Tỉ như mỏ Qui Xá ở Yên Bái và mỏ Thạch khê ở Hà Tĩnh là hai mỏ quặng sắt lớn nhất nước . Dự trữ lên đến 328 – 540 triệu tấn quặng tỉ lệ sắt là 65% , theo các hảng Krupp và Lonrho Pacific Group , có thể khai thác 11 triệu tấn quặng một năm trong vòng 25 – 30 năm , sản xuất 3.5 triệu tấn sắt một nặm. Các mỏ quặng sắt khác đáng kể là Tuyên Quang , Hà Giang , Nghệ An và Thanh Hóa . Hai mỏ Qui Xá và Thạch Khê có thể dùng khí dầu thiên nhiên thuộc tỉnh Thái Bình mà dự trữ ước lượng là 115 tỉ mét khối khí thiên nhiên, thuộc vùng trũng đồng bằng cửa Sông Hồng - Hà Nôi, Việt Nam đang cố đào giếng mỏ khai thác, thay cho mỏ khí Tiền Hải cạn dần . Nhà máy Thái Nguyên có thể tăng dung lượng dùng quặng mỏ nước nhà, từ 250 000 tấn / năm lên đến 2 triệu tấn / năm . Nhà máy Hà Tỉnh dùng quặng Thạch Khê theo 3 giai đọan , mỗi giai đọan 1.5 triệu tấn /năm. Còn Vũng Tàu – Bà Rịa, Phú Mỹ, dự trù sản xuất 1 triệu tấn gang / năm ( quặng nào ? ), . Nhà máy Phú Mỹ là nhà máy cuộn EAF tân tiến nhất Việt Nam , sản xuất 500 000 tấn một năm và 700 000 tấn cuộn thép lạnh – cold roll steel năm 2009, nghĩa là1/3 nhu cầu hiện tại nước nhà về lọai thép này và cũng dự trù sẽ tăng đến 1,5 triệu tấn, năm 2012 , và sản xuất 3 triệu tấn cuộn thép nóng – hot roll steel, cũng vào năm 2012 .
Trử lượng bauxít Việt Nam , khai thác được lấy nhom ,đứng hàng thứ ba thế giới ,chỉ sau Ghi nê và Úc, nhưng chưa có một nhà máy nào cả. Nay điện , thị trường , chuyên chở, tài chánh , ngọai tệ đầu tư v. v…đã khá đầy đủ để thực hiện công nghệ cơ bản này .
Nhom là vật liệu cần thiết cho kỷ nghệ xe hơi, gói , bọc hàng hóa, xây cất ( nhom nhẹ 1/3 sắt thép ) và mới đây cho ngành điện tử ..Xin nhắc lại là trên thế giới có 3 cách sản xuất vật liệu nhom-aluminium ( số nhiều là alumina ):
· sản phẩm sơ khai – primary product , phân giải điện – electrolyse bauxit, cứ 4 tấn bauxite thì cho 2 tấn alumina và làm ra được 1 tấn nhom sơ khai
· sản phẩm trung gian – intermediate products là các cuộn kim lọai – metal foils , tỉ như lá nhom – foils ,nhom đúc ép- extrusion , đúc khuôn – castings, dây nhom ….
· Sản phẩm hòan tất – finished products cho người tiêu thụ
Tổng số kim lọai nhom đủ lọai trên thế giới hiện nay, vào khỏang 28 triệu tấn/năm. Năm 2004 , nước sản xuất nhiều nhom nhất là Trung Quốc ( 6.5 triệu tấn ) , thứ nhì là Nga (3.6 ) , thứ ba là Canada ( 2.64 ). Thứ đến là Hoa Kỳ (2.5 ), Úc ( 1.88 ) Brasil ( 1,45 ) và Na Uy – Norvege , Norway ( 1.28 ) . Tuy nhiên tính theo mỗi đầu người, mức tiêu thụ kim lọai nhom chỉ là 1 2.7 Kgrs ở Trung Quốc, trong khi mức tiêu thụ ở Hoa Kỳ là 35 Kgrs mỗi đầu người
Trung Quốc không có bauxit tốt như Việt Nam , nên phải nhập khẩu bauxit tốt từ Úc và Ấn Độ. Hảng quốc doanh nhom lớn nhất ở Trung Quốc là Chalco . Những nhà máy cở nhỏ sản xuất nhom hàng năm dưới 50 000 tấn, thường không hửu hiệu ; cho nên Trung Quốc đã phải đóng cửa nhiều nhà máy nhỏ này . Thái Lan cũng không sản xuất nhom sơ khai , tuy điện Thái Lan rẽ và dồi dào hơn Việt Nam , hạ tầng cơ sở cũng tốt hơn, nhưng Thái Lan không có quặng bauxite tốt, khai thác được . Vì vậy Thái Lan chỉ sản xuất sản phẩm trung gian và sản phẩm hòan tất
Nhà máy dự trù vào thập niên 1990 , khai thác bauxit Lâm Đồng với hảng Alcoa Pháp đã bi bải bỏ hòan tòan, vì dự trù dùng điện khí dầu , đưa tới bằng đường ống dẫn– pipes không thực hiện đươc. Tháng 5/2007, hảng quốc doanh Vinacomin – Việt Nam National Coal and Mineral Industries dự trù liên doanh đầu tư 100 triệu đô la Mỹ với công ty Nga United Co Rusal làm nhà máy lọc nhom - alumina refinery , dùng bauxite Lâm Đồng và Đắc Nông, sản xuất 100 000 tấn nhom , Vinacomin cũng dư trù xây cất 2 nhà máy nhom khác, một ở Bình Thuận – Di Linh ( ? ) công xuất 300 000 tấn , trị giá 750 triêu đô la và một nhà máy khác ở Quảng Ninh cũng công xuất 300 000 tấn . Hình như Vinacomin cho biết vào tháng 3/ 2008, sẽ xây cất nhà máy nhom Đắc Nông làm chung với Chalco – Trung Quốc . Chalco 40% cổ phần, đầu tư 300 triệu đô la và Vinacomin 60% . Tổng số đầu tư lên đến 1.1 tỉ đô la , sản xuất 1.9 triệu tấn nhom / năm , sẽ tăng sau đó đến 4 triệu tấn . Chalco còn dự tính đầu tư 1.2 tỉ đô la, làm đường xe lữa lên vùng Tây Nguyên này và một cảng biển ở phía Trung và Nam tỉnh Bình Thuận, hổ trợ công nghệ nhom Đắc Nông. Còn Rusal – Nga dự trù đầu tư 1 tỉ đô la sản xuất cả 3 lọai nhom kể trên, cũng với bauxit Lâm Đồng( Bảo Lộc , Tân Rai ) – Đắc Nông.
(Ca Li cuối tháng 3/2008 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét