Tiếp theo các thuốc gê nê ric dễ làm, ( một vài lọai thuốc kháng sinh, tỉ như amoxylin rẽ tiền, nhập khẩu từ Úc Châu, Việt Nam có thế chế tạo tương lai trong nước rẽ tiền hơn, khi ngành công nghệ hóa học nước nhà tiến triễn khá hơn, cập nhật hơn)
Có nên nhân nhựợng mức an tòan các thuốc sinh học công nghệ kỷ thuật sinh học không ?
Tôn thất Trình
Mức phức tạp của những thuốc tây mới này có nghĩa là bắt chước , sao chép chúng rất nguy hiểm đó .
Một máy bay đồ chơi – toy plane, chỉ gồm vài bộ phận . Máy bay phản lực chở hành khách Boeing 747 có đến vài triệu bộ phận. Không rỏ công nghệ ráp máy bay phản lực, hảng Nhật Misubisshi vừa dự định làm ở Việt Nam, gồm bao nhiêu bộ phận, sản xuất được trong nước ( ? ) . Các máy bay đồ chơi nhỏ bé, kiểu mẩu đơn giản, trong khi máy bay 747 to lớn là lọai máy bay hiệu năng cao , bay trên 500 dặm Anh một giờ- mph , chứa hàng ngàn hệ thống thành phần họat động cùng nhau. Máy bay đồ chơi tốn chừng vài đô la Mỹ , vì rất dễ chế tạo . Máy bay 747 tốn khỏang 225 triệu đô la Mỹ, vì tính chất phức tạp , thử nghiệm cao lớn , và khẩn thiết cần bảo đảm an tòan
So sánh vừa kể đáng nêu lên trong trí óc , vì bàn cải nóng hổi thêm về các theo đuổi- follow on làm gê nê ríc thuốc sinh học – biologics. Thuốc sinh học ngày nay là thuốc tây y khoa tân tiến nhất , những thuốc protein công nghệ sinh học thử nghiệm hòan tòan . Cung cấp chửa trị mục tiêu cho các nạn nhân bị ung thư hay nhiều bệnh tật khác. Các thuốc theo đuổi sinh học ( hay gê nê ric sinh học ) là những dịch bản thứ hai hay kế tiếp, nhưng chúng không phải giống y hệt các thuốc sinh học nguyên thủy đâu !
Dân Hoa Kỳ xài mua chúng, phản chiếu tầm quan trọng của những thuốc tây này trong kho võ khí chống bệnh tật ngành y khoa .. Thuốc sinh học là một khu vực mạnh tiến ở thì trường y khoa Hoa Kỳ. Dân Mỹ xài hơn 30 tỉ đô la mỗi năm mua các thuốc tây . Thật vậy , 5 loại thuốc đừng đầu sổ chi phí “Săn sóc Y khoa – Medicare” ( một chương trình an sinh xã hội Hoa Kỳ ) tại các phòng mạch bác sĩ , là thuốc sinh học . Đến năm 2010 , mức tiêu thụ thuốc sinh học khắp thế giới sẽ tăng lên đến 10 tỉ đô la , và thuốc sinh học chiếm gần phân nữa tổng số thuốc mới được chấp thuận cho dùng . Thế cho nên không lấy gì làm ngạc nhiên, khi nhiều nhà làm chính sách đã tụ điểm cố giảm bớt phí tổn liên quan đến chế tạo các thuốc này .
Luật lệ quốc hội Hoa Kỳ còn chưa ngã ngũ cho phép bán các thuốc theo đuổi sinh học , mà khỏi cần thử nghiệm rộng rải ; căn bản phỏng theo kiểu mẩu sử dụng để chấp thuận các dạng thuốc gê nê ríc cổ truyền cần phải có toa bác sĩ .
Tuy nhiên đa số các thuốc chúng ta quen thuộc ở Hoa Kỳ, những viên thuốc chúng ta mua ở tiệm thuốc tây , đều là những thuốc “ phân tử nhỏ bé – small molecules “, những hợp chất hóa học đơn giản . Chúng có thể chế tạo ra dễ dàng và sao chép y hệt . Chẳng hạn thuốc kháng co giật anti-convulsant valproic acid , chỉ chứa 26 nguyên tử mà thôi . Giống y hệt dịch bản thuốc chánh nhãn hiệu, những gê nê ríc này có thể “cỏng trên lưng,trên cổ- piggy back “ thử nghiêm thuốc công ty chánh nhãn hiệu . Điều này hợp lý . Những thuốc phân tử nhỏ bé này , điển hình chứa tổng số từ 20 đến 100 nguyên tử, có thể sao chép hòan tòan . Thế cho nên khỏi cần thử nghiệm độc lập về an tòan, sản xuất ít tổn phí hơn và rẽ tiền hơn, giúp cho bệnh nhân có nhiều lợi lộc y khoa . Các thuốc sinh học phức tạp hơn nhiều. Thuốc chánh nhãn hiệu Herceptin , một thuốc sinh học dùng rộng rải chửa trị ung thư , có khỏang 25 000 nguyên tử tổng cọng . Những thuốc sinh học to bự chứa đến hàng triệu nguyên tử.
Thuốc sinh học không phải là phối hợp các chất hóa học trong bình thót cổ thí nghiệm .Chúng làm bằng những dạng sống tỉ như tế bào , mốc meo, hay vi khuẩn. Cũng như con người, những dạng sống này trưng bày da dạng chuyễn hóa và thành phần , biến thành phẩm cuối cùng thành một sản phẩm độc đáo, một pha trộn hổn tạp không thể nào sao chép y hệt, chính xác được . Thế cho nên, các dạng sinh học theo đuổi một thuốc chỉ có thể tương tự thuốc nguyên thủy , không giống y hệt được đâu ! .
Vì tính cách phức tạp của thuốc sinh học, phải có luật lệ điều hành nhiều hơn . So sánh với các thuốc hóa học thông thường có nhiều dịch bản gê nê ríc , tỉ như thuốc penicillin, chỉ cần làm 50-60 thử nghiệm chế tạo an tòan và phẩm giá , các thuiốc sinh học tối thiểu cần ít nhất thử nghiệm 4 lần nhiều hơn .
Đúng là thách thức lớn cho ai làm chánh sách , cốt cung cấp đầy đủ khích lệ cho sáng kiến , trong khi vẫn bảo đảm được là bất cứ một dạng thuốc sinh học theo đuổi nào tung ra thị trường, cũng phải thật an tòan .
Điểm theo chốt nằm vào cái gọi là “ dữ kiện đặc hửu – data exclusivity “ ,một cơ chế pháp lý giúp cho một công ty giữ bí mật dữ liệu liên hệ đến phát triễn thuốc . Dữ liệu đặc hửu thường kéo dài nhiều năm và thúc đẩy sáng kiến bằng cách bảo vệ những phát minh mới . Đây là lề lối của các thuốc phân tử nhỏ hiện thời và cũng nên được sử dùng cho thuốc sinh học nữa . Đặc hửu dữ liệu mạnh mẽ thật là quan trọng cho thuốc sinh học , thường tốn thêm 50 % tổn phí để phát triễn, so với các thuốc y khoa phân tử nhỏ .
Tuy nhiên , tình trạng khoa học hiện hửu ở Hoa Kỳ làm cho việc bảo đảm an tòan thuốc gê nê ríc -theo đuổi sinh học rất khó khăn. Hiện nay , kỷ thuật hình dung, làm đồ bản cấu tạo hóa học chắc chắn , cùng chức năng của một thuốc sinh học cở bự đối với một dịch bản khác, cũng chưa có được . Làm duyệt xét mức an tòan không chính xác . Những dạng thuốc theo đuổi có thể cảm ứng những phản ứng trái ngược , tai hại .
Cách đây vài năm, một thuốc sinh học đã được thử nghiệm hòan tòan , sáng tạo ở Hoa Kỳ, được cấp môn bài chế tạo cộng tác ở ngoại quốc, ở Âu Châu. Nhưng dịch bản mới làm con bệnh đau khổ vì “ngưng phát triễn – aplasia các tế bào đỏ thuần khiết “ , nên thân thể không còn làm ra được hồng huyết cầu nữa . Điều này khiến vài bệnh nhân chết và tai hại vĩnh viễn. Mãi đến hôm nay , sau 8 năm nghiên cứu ,vẫn chưa ai biết rỏ nguyên nhân những phản ứng này.
Ngay cả, nếu cố gắng công ty cộng tác có thể đem lại kết quả cho các phản ứng tai hại không đóan trước đượ c đi nữa , bất cứ một sản phẩm thuốc theo đuổi nàò không thực hiện thử nghiệm hòan toàn, cần lo ngại, thắc mắc . Nhận định thực tế này , Hiệp Hội Âu Châu đã phát triễn một hệ thống định giá, buộc các thuốc theo đuổi phải có thử nghiệm lâm sàng , trước khi chấp thuận cho dùng.
Các nhà làm chánh sách Hoa Kỳ nên lưu tâm nghư thế . Buộc phải có dữ liệu lâm sàng và thử nghiệm thích đáng , hầu bảo đảm mức an tòan của bất cứ thuốc sinh học theo đuổi nào , muốn sử dụng chửa trị bệnh nhân ở Mỹ . Dữ liệu đặc thù phù hợp phải được đặt ra tại chỗ , hầu khuyến khích sáng chế .
Nếu các thuốc hóa học là máy bay đồ chơi , thuốc sinh học sẽ là máy bay 747 , mủi nhọn của ngành y khoa . Vì mức phức tạp của thuốc , mọi dạng theo đuổi sinh học cần có tiêu chuẩn an tòan cao hơn . Như chúng ta đã biết rỏ ở ngành hàng không, an tòan có nghĩa là không có sự cố , không có tai nạn !.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét