Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2010

Hà Tây - Hà Đông

Thử lạm bàn hiểu rõ hơn về phát triển những quận, huyện, thị trấn vệ tinh, ngoại ô đồng bằng sông Hồng phía tây và phía nam thủ đô Hà Nội thuộc :
Tỉnh cũ Hà Tây
G S Tôn thất Trình



                                                
( Nhìn tấm địa đồ Tổ Quốc cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 )
                                                            … Biết bao lúc mới công vờn vẽ, 
                                                                 Sao đến bây giờ rách tả tơi ! …  
                                                            
                                                                    (  Tự tổng kết đời mình  )
                                                             … Trời sinh ra bác Tản Đà
                                                                  Quê hương thời có, cửa nhà thời không .
                                                                  Nữa đời Nam, Bắc, Tây, Đông,
                                                                  Bạn bè xum họp, vợ chồng biệt ly.
                                                                  Túi thơ  đeo khắp ba kỳ,
                                                                   Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng…
                                                                      Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ( 1889 - 1939 )
                           (Tản là núi Tản Viên-Đà là sông Đà. Tản Đà sinh ở  ven sông Đà, huyện Bất Bại và gần núi Tản Viên huyện Ba Vì, tỉnh Sơn Tây cũ)  
           
              Tháng 8 năm 2008 , tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc  và 4 xã huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình được sáp nhập vào thủ đô Hà Nội, tăng diện tích thành phố thủ đô lên gấp ba 3 344. 7 km2 , tăng dân số thủ đô lên 6 232 940 người. Năm 2009. dân số Hà Nội là 6.5 triệu người. Vùng thủ đô Hà Nội - Hà Noi Capital Region  gồm Hà Nội hiện nay  và 6 tỉnh bao quanh dự trù có một diện tích là 13 436 km2 , dân số 15 triệu người vào năm 2020 . Hai thị xã tỉnh Hà Tây cũ là Sơn Tây và Hà Đông trở thành quận- urban districts : Sơn Tây thành quận 15 thành phố (vẫn còn thị xã Sơn Tây ?) , và quận Hà Đông ( phía đông sông Hồng ) là quận  17.  Mười hai  huyện- rural districts của tỉnh Hà Tây cũ  vẫn giữ nguyên tên. Hà Tây hình thành  sáp nhập  hai tỉnh cũ  là Hà Đông và Sơn Tây ( Núi non phía Tây ).
 Tỉnh Hà Đông thành lập năm 1988  với tên đầu tiên là Cầu Đơ. Năm 1904,  mới đổi tên thành Hà Đông. Sơn Tây  là một Tứ Trấn của Bắc Hà. Trấn Sơn Tây còn có tên  là Trấn Đoài. Năm 1831, vua Minh Mạng  gọi là tỉnh Sơn Tây. Năm 1963 Hà Đông và Sơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây.  Cuối năm 1975, nhập thêm Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1992, Hà Sơn Bình  tách ra thành hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình. Tỉnh Hà Tây cũ có hai thị xã ( gồm 24 phường ),  thị trấn và 12 huyện  là Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, Quốc Oai , Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín, Mỹ Đức, Ứng Hòa và Phú Xuyên. Hà Tây có 3 của ngỏ vào Hà Nội theo các quốc lộ 1A, 6 và 32. Dân số Hà Tây năm 1999 là 2 386 800 người, lúc đó đứng hàng thứ năm cả nước, sau  thành phố Sài Gòn ( Hồ Chí Minh ), Hà Nội, Thanh Hóa và Nghệ An. Nếu tính theo tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên khoảng 57 - 60 000 một năm thì tỉnh Hà Tây  đã đến 3000 000 người năm 2009, nghĩa là gần phân nữa dân số toàn  thủ đô Hà Nội ngày nay. Người Kinh chiếm đại đa số 98.73 %. Các tộc dân ít người phần lớn sống ở  các hyên phía tây tỉnh. Đông nhất là tộc dân Mường, ngoài ra là các tộc dân Dao, Thái, Tày .
         
            Vị trí lảnh thổ
           
Hà Tây có tọa độ địa lý từ 20o 31’ đến 21o 17’  vĩ độ Bắc và 105o 17’ đến 106o kinh độ Đông, tiếp giáp với 6 tỉnh và thành phố là Hà Nội ở phía Đông Bắc, Hưng Yên ở phía Đông, Hà Nam ở phía Nam, Hòa Bình ở phía Tây, Phú Thọ ở phía Tây Bắc và Vĩnh Phúc ở phía Bắc. Hà Tây là nơi chuyễn tiếp từ vùng Đồng bằng sông Hồng với vùng núi phía Bắc và Tây Bắc  giàu có tài nguyên thiên nhiên chưa phát triển, cận đại hóa đúng mức. Hà Tây vừa là lá chắn vừa là vành đai  sinh thái, lá phổi xanh ở phía tây và phía Nam của Hà Nội .

             Địa hình
                                                                         …Em ở Thành Sơn chạy  giặc về
                                                                             Tôi  từ chinh chiến cũng ra đi
                                                                             Cách biệt bao ngày quê Bất Bại
                                                                              Chiều Xanh không thấy bóng Ba Vì…      `                                                                        ( Quang Dũng  1918- 1988 )
           
           Diện tích  tỉnh Hà Tây  là 2201.8 km2 , 2/3 là đồng bằng, đồi  núi chiếm 1/3 lảnh thổ doc theo phía tây tỉnh nhà.
            Đồng bằng Hà Tây là một thành phần đồng bằng  châu thổ sông Hồng, nằm ở phía hửu ngạn sông Hồng và dọc theo sông Đáy, chảy trên địa bàn tỉnh. Địa hình thấp dần  từ tây bắc  xuống Đông Nam, theo hướng dòng chảy tự nhiên của  hai sông kể trên. Đồng bằng Hà Tây không bằng phẳng, có những điểm khác  nhau theo từng khu vưc.  Nhắc lại châu thổ sông Hồng  diện tích  14 685 km2 , chỉ rộng 1/3 diện tích đồng bằng sông Cửu Long 39 567 km2. Đồng bằng sông Hồng dễ bị lụt lội nên từ đời nhà Lý  ( 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi - 1226 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi ) đã xây để  trị lụt. Từ lúc xây đê, sông Hồng đổ phù sa  ra các cửa biển thay vì trên đất liền. Hai bên bờ sông Hồng và các sông nhánh thường có các sống đất do nước lũ bồi đắp  có khi cao đến 15 m , rộng vài trăm mét, dốc đứng về phía lòng sông và thoải dần về phía các bải bồi, các sống đất ngăn châu thổ ra thành những ô trũng khó thoát nước. Khi mưa to  đất đai lầy sâu, lau sậy mọc rậm rạp. Thời chống Pháp đầu tiên, đây là những căn cứ địa  phong trào Cần Vương, theo chiếu vua Hàm Nghi, sau khi thất thủ kinh đô Huế, ngày  15- 7 - 1885, chạy ra Quảng Trị kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu.

                Vùng đồi núi Hà Tây bao gồm phần lớn huyện Ba Vì, thị xã Sơn Tây và rìa phía tây các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Liên kết với nhau thành một dải chạy theo  hướng tây bắc - đông nam, án ngữ  toàn bộ ranh giới phía tây tỉnh.  Có thể chia vùng đồi núi Hà Tây ra làm 4 khu vực:  núi  Ba Vì, còn  gọi là núi Tản Viên  cao  1287m, đồi cao Ba Vì, đồng bằng đồi gò và khu vực  núi đá vôi  Chương Mỹ - Mỹ Đức .  Núi Ba Vì là thí dụ điển hình của các đồi sót lại, khi sông Hồng còn nằm dưới biển.  Ngoài đỉnh Tản Viên, núi vùng Trung Du  Hà Tây này ( tiếp giáp Thượng du và châu thổ sông Hồng )  thường chỉ cao  vài trăm mét. Đồi thường thấp hơn, cao 70- 120m. Còn gò thì thấp hơn nữa.
         Địa hình cácxtơ Hà Tây chỉ chiếm một diện tích nhỏ, khoảng 60 km2 thuộc các huyện Chương Mỹ và Mỹ Đức. Nhưng khu vực vúi đá vôi này lại rất nổi tiếng  về du lịch và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng. Địa hình cácxtơ  ở Hà Tây chia  thành hai dải. Một từ Miếu Môn  đến Chợ Bến, hai  là dải đá vôi Hương Sơn. Địa hình cácxtơ Hương Sơn  kéo dài từ Đục Khê đến  chùa Thiên Trù, động Hương Tích với  các chỏm núi dạng tháp, dạng nón điển hình cho cácxtơ nhiệt đới, có nhiều hang động kỳ thú. Nổi tiếng nhất là động Hương Tích, cửa hang rộng 33.6m, trong hang phát triển các dạng  măng đá - stalagmite, mành đá, vú đá- thạch nhủ- stalactite, chuông đá đẹp như “ Đụn Gạo ,“ Cây Vàng “. Hang chùa Giải Oan  rộng 9.2m  dài 7m, cao 7m, trong hang có “ giếng Tiên “  sâu 1.2 m . Ngoài ra còn có  hang Thiên Sơn, hang Nước.
         Các đỉnh  núi đá vôi cao độ không lớn. Đỉnh cao nhất là núi Thiên Trù, cao 378m. Trong khu vực  địa hình cácxtơ  lại phát triển các cánh đồng và thung lũng cacxtơ. Đáng kể là  các cánh đồng Vĩnh Lăng, Đục Khê, Hồi Xá, thường  lầy lội, rất khó qua lại.
        
            Khí hậu
     
          Hà Tây mang đặc tính khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh . Chịu sự chi phối  của chế độ bức xạ mặt trời nối chí tuyến và chịu tác động mạnh mẽ  của hoàn lưu gió mùa. Hà Tây nằm ở sườn đông của phần nam dãy Hoàng Liên Sơn, nên khí hậu  chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc . Phân hóa ra 2 mùa : mùa nóng trùng mùa mưa : còn mùa lạnh khô hanh vào đầu mùa  và mưa phùn ẩm ướt  cuối mùa . Vì địa hình tương đói đồng nhất,  chỉ có núi Ba Vì  nằm ở phía tây bắc  và dãy núi đá nằm ở phía tây, nên ít sự phân hóa theo không gian. Chỉ có ở vùng núi mới có phân hóa rỏ rệt theo đai cao.          
          Mùa đông gió thổi theo các hướng chính là bắc, đông bắc và tây bắc, vận tốc tương đối lớn. Mùa hạ  gió lại thổi, chủ yếu theo các  hướng đông nam và nam. Lảnh thổ tỉnh có nhiệt độ cao, trừ núi Ba Vì, nhiệt độ trung bình năm hơn 23o C. Tổng nhiệt trong năm là  8400 -8500 o C, vượt tiêu chuẩn nhiệt của vùng nhiệt đới. Lượng mưa dao động từ 1500- 2000 mm/năm , thuộc loại mưa vừa. Số ngày mưa trong năm là  90- 150 ngày. Ẩm độ  tương đối trung bình năm khá cao, khoảng 83-85%. Bên cạnh những đặc điểm chung, thời tiết Hà Tây ũng thường xuất hiện những hiện tượng thời tiết đặc biệt như  gió khô nóng, sương muối, giông và mưa đá …  , ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống con người.

                        Thủy văn
                                                          … Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
                                                               Lên núi Sài Sơn  ngó lúa vàng
                                                                Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
                                                               Sáo diều  khuya khoắt thổi đêm trăng
                                                                        ( Đôi mắt người Sơn Tây )
                                                                       Quang Dũng ( 1918- 1988 )                
Hà Tây có mạng lưới sông ngòi khá dày dặc. Hai sông lớn chảy qua tỉnh là sông Đà ở phía tây bắc và sông Hồng  ở phía đông . Nhắc lại sông Hồng là sông lớn  nhất ở miền Bắc Việt Nam , bắt nguồn ở Vân Nam, chảy qua nước ta đầu tiên ở Lào Cai  theo hướng tây bắc - đông nam, qua thủ đô Hà Nội, rồi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt. Theo Thái công Tụng ( Vietnamologica số 6, năm 2005 ), sông Hồng dài tổng cọng là 1160km , phần chảy trên đất Việt Nam  dài 556 km. Sông Hồng chỉ có ½ lưu  vực với   68%   tổng lưu lượng nằm trên lảnh thổ Việt Nam (sông Cửu Long  còn ít hơn nữa, chỉ có 5 %  tổng lượng dòng chảy nằm trong lảnh thổ Việt Nam ). Sông Đáy và các sông nội địa khác là sông Tích, sông Con, sông Nhuệ phân bố đều trên lảnh thổ với mật độ khá cao 60km/km2 . Sông Đáy cũng là một chi lưu bên phải của sông Hồng, bắt nguồn từ đập Phùng ở huyện Đan Phượng- Hà Tây qua thị xã Phủ Lí-Hà Nam, ra cửa Đáy ở phía nam tỉnh Ninh Bình. Sông Nhuệ, chi lưu của sông Hồng, chỉ dài 74km, chảy qua thị xã Hà Đông, tỉnh lỵ trước năm 2008 của tỉnh Hà Tây.  Sông Nam Địnhsông Phủ Lí nối sông Đáy và sông Hồng.
Nước ngầm ở vùng đồng bằng tương đối dồi dào và nông cạn. Ở vùng đồi núi, giếng đào sâu 10m  trở lên là đã có nhiều nước, kể cả vào mùa khô. Hà Tây có nhiều hồ đầm tự nhiên và hệ thống sông, kênh để thoát và tưới nước.

Đất đai

Hà Tây có 4 loại đất chính là đất phù sa trong đê, đất phù sa ngoài đê, đất bạc màu và đất đồi núi.
Đất phù sa trong đê,  hình thành từ  phù sa  của hai  hệ thống sông lớn của tỉnh là sông Hồng ( gồm luôn  cả sông Đà , sông Đáy và sông Nhuệ và sông Tích. Loại đất này chiếm diện tích lớn 132 945 ha , bằng 62 % diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, độ phì nhiêu cao có lịch sử canh tác lúa nước từ lâu đời, khả năng năng xuất cao, hai vụ lúa và một vụ đông, nhiều loài giá trị kinh tế cao. Đất phù sa ngoài đê của sông Hồng, sông Đà, sông Đáy là loại đất trẻ được bồi thường xuyên, chiếm 17 488 ha, độ phì nhiêu cao, được sử dụng triệt để sản xuất nông nghiệp, chủ yếu trồng hòa màu, cây công nghiệp ngắn ngày hay dài ngày ( dâu tằm  ). Tùy  cao, thấp trên mặt biễn: từ 2.5m đến 4m, chia ra nhiều tiểu địa hình tên địa phương là vàn cao, vàn, vàn thấp và dưới 2.5 m là trũng. Trên phương diện thổ nhữỡng  xếp vào hai hạng: hạng phù sa trung tính  Eutric Fluvisols, ít chua, nhiều dưỡng liệu; hạng phù sa chua, acid  Dystric Fluvisols ở các vàn thấp và thường bao quanh đất phù sa trung tính. Đất phù sa ( hay đất xám ) bạc màu Haplic Acrisols phần lớn phát triển trên đất phù sa cỗ vùng bán sơn địa thuộc các huyện Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ. Tổng diện tích  là 18 158 ha. Loại đất này  có hàm lượng hửu cơ  và các dưỡng liệu thấp, nên năng xuất cây trồng thường thấp. Dải đồng chiêm trũng phía Nam sông Hồng, kéo dài từ Sơn Tây đến Ninh Bình, Nam Định là nhóm đất glây Dystric gleysols, thời gian ngập úng thường trên 6 tháng, phản ứng rất chua ở tầng đất mặt, khả năng hấp thu thấp và nghèo dưỡng liệu. Đất đồi núi tập trung ở khu vưc đồi gò, có độ dốc khác nhau, thuộc dạng địa hình  bào mòn, chia cắt. Thường là đất  feralit vàng và đỏ vàng Ferralic Acrisols, phản ứng chua acid, tầng đất mỏng, phải chú trọng đến công tác chống  xói mòn - erosion. Tổng diện tích là 19 650 ha, 12 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh.

Tài nguyên thiên nhiên

Khoáng sản
Tuy  địa chất Hà Tây đa dạng và phức tạp, vì ở vị trí chuyễn tiếp đới uốn nếp Ninh Bình  và đới Rif  vùng trũng Hà Nội, nhưng khoáng sản  Hà Tây nhìn chung  nghèo , không có mỏ lớn.  Chỉ có than bùn  là khá phong phú, phân bố thành một dải dài  từ Mỹ Đức đến Xuân Mai, chiều dày 0.1- 0.3 m , trử lượng chừng  27 triệu m3 , khai thác dễ dàng. Than bùn đã được nghiên cứu chế biến thành phân vi sinh ở Thượng Lâm ( Mỹ Đức ) bón cho một số loại cây trồng  có tác dụng cải tạo đất, tăng năng xuất.
Khoáng sản kim loại có đồng tìm thấy ở Đá Chông và Cư Yên ( Ba Vì ) ; sắt có  một số mỏ nhỏ ở Xuân Sơn  và hai điểm quặng  ở Kim Chung và Trung Thượng, trữ lượng ít ỏi, dự đoán khoảng  3 000 tấn. Hà Tây cũng đã phát hiện  được 6 điểm vàng gốc  và hàng chục điểm vàng sa khoáng, theo một dải từ Bộc Lưa đến Ba Vì. Khoáng sản phi kim loại có mỏ piryt Ba Trại  ( Ba Vì ), mỏ phosphorit ở Hương Tích  và một số điểm trong các hang động  cácxtơ. Cao lanh-sét  có  2 điểm ở Xuân Mai và Ba Vì, chất lượng trung bình, nhưng có thể  khai thác làm công nghiệp sành sứ địa phương. Sét  ở nhiều nơi trong tỉnh có chất lượng tốt có thể làm gạch ngói, phụ gia xi măng hoặc đồ gốm.  Mỏ asbestos làm fibro -xi măng là mỏ Quýt và mỏ Khu Môn, khu vực núi Ba Vì. Đặc biệt Hà Tây là tỉnh có nhiều đá vôi quan trọng, nhất là ở  khu vực đá vôi Mỹ Đức, dài 35 km, rộng 1km, có dạng khối màu xám hơi đen, trữ lượng khoảng 100 triệu tấn. Ngoài đá vôi và đá để ốp lát ( ở Chương Mỹ ), tỉnh còn có nhiều cát, sỏi, đá ong làm vật liệu xây dựng .

Tài nguyên rừng
 Rừng Hà Tây  tập trung ở vùng đồi gò và khu vực núi Ba Vì, gồm gần 2000 ha  rừng tự nhiên và  7800 ha rừng trồng. Rừng Hà Tây  có nhiều loài  chim, thú và nhiều cây gỗ quý, đặc biệt tập trung  ở vườn quốc gia Ba Vì.

Danh lam thắng cảnh,mỹ thuật, nhân vật tỉnh    
Thắng cảnh Hương Sơn, Hã Tây là một danh lam, một di tích lịch sử, nơi có lễ hội nổi tiếng cả nước. Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức, còn gọi là chùa Hương Tích . Theo kinh Phật, Hương Sơn là một ngọn núi  phía Bắc Tuyết Sơn  trong dãy Hi Mã Lạp Sơn ( Ấn Độ ), nơi tương truyền đức Phật đến ngồi tu hành khổ hạnh. Theo sách Hương Sơn thiên trù thiền phủ, chùa Hương Tích được xây dựng từ đời Lê Chính Hòa (  1680- 1705 ) do một  vị hòa thượng tìm ra địa điểm. Khu danh thắng Hương Sơn cách Hà Nội 60 km về phía tây nam. Du khách  tới Hương Sơn có thể đi bằng xe hơi, xe máy, xe đạp  từ Hà Nội qua thị xã Hà Đông tới Vân Đình và vào Bến Đục để hưởng thi vị giang sơn cẩm tú.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
 Kìa non non, nước nước, mây mây ,
«  Đệ Nhất động »   hỏi rằng đây có phải ?...
           ( Chu Mạnh Trinh )
Từ Bến Đục có thể đi tới Hương Sơn bằng đường thủy. Chiếu theo Hoàng Điệp (  tổng hợp Văn hóa Việt Nam  1989 - 1995 ), thuyền lướt đi giữa dòng suối Yến trong vắt như pha lê, nhìn rỏ từng đàn cá bơi lội tung tăng  và các lớp rong , sinh vật phù du. Hai  bên bờ  là cảnh núi non  ẩn hiện trong làn sương mỏng, phong cảnh ảo mộng  như vào động tiên huyền  thoại. Đây là núi Ngũ Nhạc ( năm hòn núi ), nọ là cầu Hội , hang « Sơn Thủy hửu tình », núi Đụn, núi Voi Phục, dãy núi Thuyền Rồng, núi Con Phượng, trên núi khắc bốn chữ Kỳ Sơn Thủy Tú. Hàng loạt tên núi, người xưa gọi theo hình dáng : núi Ông Sư, núi Bà Vãi  núi Mâm Xôi, núi Trống, núi Chiêng …  Trước khi vào chùa Chính , theo truyền thuyết, triết lý dân gian và phong tục, khách đến phải thắp hương trình với  «  Sơn Thần ».  Rồi đến đền Trình, khách lại phải xuống thuyền, len lõi theo dòng suối quanh co giữa hai dãy núi để tới hang Bà. Trước hang hiện ra  một vùng non nước giống bức tranh thủy mạc, sắc vàng xanh chen lẫn  nhau của lá cây, cỏ non và rau sắng. Rau sắng  tên khoa học là Meliantha suavis, thuộc họ thực vật Rau Sắng Opiliaceae, một loại rau ăn rất ngọt, có nhiều ở vùng Hương Sơn ,Tản Đà ghi trong câu thơ :
Muốn ăn  rau  sắng chùa Hương ,
Tiền đò ngại tốn , con đường ngại xa.
Minh đi ta ở lại nhà,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.
Từ giả Hang Bà, du khách đang mơ màng trước cảnh vật, thì bổng nhiên phảng phất mùi hương hoa. Khách lên bờ, chùa Thiên Trù ( bếp Nhà trời ) hiện ra trước mắt. Chùa Thiên Trù, còn được gọi là  Chùa Ngoài  hay chùa Trò,  đã xây dựng từ  thế kỷ thứ 18.  Chùa Thiên Trù  có tháp Thiên  Thủy  ( một mõm đá  mọc ngược như hình cây tháp ) và Viên Công bảo tháp chạm khắc tinh vi. Bên phải chùa Thiên Trù là động Tiên Sơn nổi tiếng  với 5 pho tượng tạc bằng đá và nhũ đá trên vách động, khi gõ vào có âm vang như tiếng khánh, tiếng chuông. Quanh chùa Thiên Trù, bốn bề núi cao sừng sững và hàng trăm ngọn tháp xây từ các  triều đai xưa cũ, đã đổ nát theo thời gian. Nay có nhiều khách sạn khang trang  đón mời du khách, có hồ bán nguyệt xây công phu  trồng sen thơm ngát.  Tiếp tục hành trình sẽ vào chùa trong ( động Hương Tích ). Khách có thể thưỏng lãm những cảnh đẹp am, động  như Chu Mạnh Trinh mô tả :
      …  Này suối Giải Oan , này chùa Cửa Võng ,
Này am Phật Tich , này động Tuyết Quynh ( Kinh ),
Nhác trông lên ai khéo hoạ hình ,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt,
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt ,
Gập nghềnh mấy lối uốn thang mây…    
 Trong động Hương Tích có  rất nhiều nhủ đá hình thù đẹp đẽ như  núi cây Gạo , cây Vàng, Buồng Tằm, Nong Kén, núi Cô , núi Cậu( đàn bà hiếm con xoa đầu “ cầu tự “ , mong Đức Phật ban cho một “ cậu “ con ) . Ngoài ra động còn có các tượng vua Cha, Hoàng Hậu, Phật Quan Âm, Kim Đồng, Ngọc Nữ…. Đặc biệt là tòa Cửu Long, là những nhũ đá lớn long lanh hình chín con rồng, từ trên chầu xuống.
Hương Sơn còn có nhiều đền, chùa, hang động hấp dẫn khác như Long Vân , Tuyết Sơn, Hình Bồng … . Nhất là hang Ông Bầy ( Sũng Sâm ) cách chùa Long Vân 2km, tìm thấy năm 1975.  Hang này là nơi cư trú của người cỗ xưa, cách đây hàng chục ngàn năm. Tới Hương Sơn, ngoài cảnh đẹp tuyệt vời, ra về khách còn  có một thứ đặc sản nổi tiếng khác, ngoài rau sắng làm quà cho người thân yêu. Đó là những trái mơ - apricot vùng núi đá vôi hương vị kỳ lạ,dày cùi, nhỏ hột,trái chín vị ngọt chua chua, không chát. Mơ Nứa:  màu da hơi trắng, trái tròn, nhiều nước; Mơ Đào hơi giống trái đào lông, đào tiên trái to, đầu nhọn ; Mơ Mép Giải chấm đỏ  trái không to; Mơ Bồ Hóng trái chấm đen, để nấu, không ngon nên ít ai trồng. Thập niên 1990 ( ? ) miền Bắc còn  có Mơ Song Thọ, trái to gần trứng gà con so, nhưng không ngon bằng mơ Hương Tích.

 Di tích điêu khắc, đình làng , chùa…



 Hà Tây có mật độ di tích  đứng thứ hai cả nước, chỉ sau  Hà Nội, sau khi chưa mở rộng  thủ đô năm 2008.  Năm 1999, bộ Văn Hóa đã xếp hạng  326 di tích tỉnh. Nổi tiếng là nghệ thuật điêu khắc ở  đình làng như  ở  đình Tây Đằng, đình  Chu Quyến ( Ba Vì) . Theo Thái Bá Vân, ( 1889 ),  điêu khắc đình làng thế kỷ thứ 16 và 17 là  là nghệ thuật dân dã biểu hiện tích cực cho tâm hồn Việt Nam, độc đáo với nghệ thuật tạo hình; cái không khí nghiêm trang, học thức của thẩm mỹ cỗ điển đã nhường bước  cho niềm vui sự sống . Những hình tượng tôn giáo xa xăm  đã nhường cho cảnh đi cày, bế con, bổ củi, chọi gà, đánh vật, bơi thuyền, tình ái, say rượu. Hình khối  ở nghệ thuật đình làng không còn lặng lẽ trong đường viền tĩnh  tại các tượng Phật giáo cỗ điển  mà chuyễn động, xô đẩy đi tìm không gian  ở nhiều chiều  với nhịp điệu lan tràn.  Đình Tây  Đằng nằm quá  về phía tây thị xã Sơn Tây khoảng 10 km,  xây dựng  vào cuối thế kỷ thứ 16 , niên đại  1576 . Đình gồm 5 gian 4 mái hàng hiên bao quanh , nhịp hàng lang có 48  chiếc cột to nhỏ, phân bố  theo tải trọng cột gánh chịu. Đình Tây Đằng thờ thần  Tản Viên-Sơn Tinh.  Đình Chu Quyến cũng có 48 cột, 8 hàng, nhưng có  nhiều nét khác biệt. Đáng chú ý là vẻ vạm vỡ, khỏe khắn. 
Điêu khắc gỗ  thời kỳ mỹ thuật Tây Sơn, tuy ngắn ngủi, nhưng thành công lớn là ở chùaTây Phương- Hà Tây. Mười mấy  pho tượng các vị tổ đạo Phật ở chùa Tây Phương  thật là tuyệt tác. Nó tổng kết được mọi ưu điểm nghề nghiệp, óc quan sát và kỷ thuật nhà nghề về tạc gỗ ở nhiều thế kỷ trước, lột tả được tâm lý và cá tính  từng nhân vật  thật chân thực, sâu sắc.  Chùa Tây Phương xây dựng  trên núi Câu Lậu, xã Thạch Xã, huyện Thạch Thất, cách Hà Nội 37 km  về hướng tây. Cao Biền  năm  865- 873  đã xây ngôi chùa Tây Phương nguyên thủy, nhưng  chùa xây dựng lại hoàn toàn mới năm 1794,  nên niên đại tính vào thời điểm này.

  Danh nhân
Về danh nhân Hà Tây, ngoài các vị đã kể trên, có lẽ nên nhắc đến ba vị khác nữa . Thứ nhất là  Phan huy Chú  ( 1782- 1840 ),tự là Lâm Khanh,  hiệu Mai Phong, con trai thứ ba Phan Huy Ích , thân mẩu là bà Ngô Thị Thục, em gái Ngô Thì Nhậm. Phan huy Chú học giỏi nổi tiếng  cả vùng Quốc Oai, Sơn Tây cũ. Học giỏi, nhưng hai lần đi thi chỉ đổ Tú tài. Tuy không đứng  trong hàng khoa bảng, thực học, thực tài của  Phan huy Chú vẫn nức tiếng xa gần. Năm 1821, vua Minh Mạng cho triệu Phan Huy Chú vào  giữ chức Hàn Lâm Biên Tu. Năm1828, thăng làm Phủ Thừa - Án sát (  Phó tĩnh trưởng )  Thừa Thiên.  Năm 1832, chán cuộc đời làm quan, ông mượn cớ đau yếu, xin về nghỉ và dạy học ở Thanh Mai, nay là xã Vạn Thắng, huyên Ba Vì; rồi mất tại đây. Sự nghiệp trước tác  lớn nhất của Phan huy Chú là bộ Lịch triều hiến chuơng  loại chí. Một bộ sách  gồm 10 chí, ghi chép 10 bộ môn được phân loại, khảo cứu một cách hệ thống theo trình tự như sau :
- Dư dịa chí: nghiên cứu sự thay đổi  về bờ cõi đất đai qua các đời, sự khác nhau  về phong thổ các địa phương .
Nhân vật chí:  nói về tiểu truyện các vua chúa, những người có công lao xây dựng  các triều đại, những tướng lĩnh  có danh tiếng, những trí thức có đức nghiệp.     
- Quan chức chí - Lễ nghi chí - Khoa mục chí -  Quốc dụng chí- Hình luật chí -   Binh chế chí -Văn tịch chí - Bang giao chí.
 Đây là một bộ  lịch sử văn hiến đồ sộ, một  bách khoa thư của đất nước. Theo nhà nghiên cứu lịch sử  Việt Nam của Liên Sô GP  Muraseva ( 1989 ?  ), Lịch triều hiến chương loại chí là một bộ sách xứng đáng  được gọi là một bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống Việt Nam, không có công trình nào sánh nổi về bề rộng của phạm vi  các vấn đề trong khoa lịch sử sử học Việt Nam, thời đại các triều vua (trước đời vua Tự Đức ).           `                           
Thứ đến là họa sĩ Nguyễn gia Trí  ( 1908-1993) quê  ở Hà Đông, Hà Tây. Ông là người dẫn đầu  thời kỳ cực thịnh của tranh sơn mài, vào những năm  1938- 44; đến nay vẫn còn nguyên giá trị.



Tranh sơn mài Họa sĩ Nguyễn Gia Trí

Sau đó là họa sỉ Nguyễn tiến Chung  ( 1914- 1976 ), sinh  ở làng Ước Lễ, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Yêu mến thiên nhiên Việt Nam kỳ diệu và yêu mền nghệ thuật dân gian truyền thống, ông tự xây dựng  cho mình  một phong cách  nghệ thuật khá rõ nét, nhất quán ở mọi chất liệu, những tranh lụa cở lớn.



Phần II lạm bàn phát triển Hà Tây


1- Nông Nghiệp : Hòan chỉnh chương trình  lúa lai, cố gắng duy trì diện tích lúa gạo cao năng khỏi đô thị hóa, cũng cố vòng đai trắng - sửa dê , sửa bò - sửa trâu và vòng đai  xanh (rau đậu, trái cây , hoa kiểng v…v ) cho thủ đô Hà Nội nới rộng ,

Tuy có nhiều cố gắng chuyễn đổi cơ cấu kinh tế -xã hội để thoát ra  khỏi tình trạng thuần nông, nông nghiệp Hà Tây đến năm 2000 vẫn còn chiếm địa vị quan trọng trong cơ cấu kinh tế tỉnh. Dù có xu hướng giảm dần, năm 1991 nông lâm ngư nghiệp Hà Tây  chiếm  51.50%  GDP ( công nghiệp và xây dựng 25.18% ;  dịch vụ 23.32% ). Năm 1998 chỉ còn  43.03% ( công nghiệp và xây dựng 28.53% : dịch vụ 28.36% ).
Nông nghiệp năm 1998 cũng sử dụng 65.56 %  lực lượng lao động xã hội tỉnh. Hà Tây có diện tích tự nhiên lớn nhất vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Nhưng vì dân số đông  nên bình quân đất nông nghiệp trên đầu người vỏn vẹn chỉ  đạt 527 m2 . Năm 1998, đất nông nghiệp chiếm 118 800 ha hay 54.3 % , trong tổng quỹ đất tỉnh là 218 000 ha. Hà Tây đã  nổ lực tăng diện tích canh tác, bằng cách tăng  thêm vụ - mùa, tăng hệ số sử dụng đất: năm 1999, 12, 8%  đất trồng 3 vụ, 76.9% trồng  2 vụ  và chỉ có 10.4 % diện tích  cây hàng niên trồng 1 vụ. Đồng thời cố gắng trồng cây công nghiệp  lâu năm ( đa niên )  và cây ăn trái ( ăn quả ) theo  hướng  nông lâm ( có thể cả ngư ) nghiệp kết hợp, xen kẻ cây trồng hàng niên và đa niên….
Lúa vẫn là cây lương thực chủ yếu, đứng hàng đầu trên nền nông nghiệp tỉnh. Năm 1999, diện tích lúa là 167 700 ha, chiếm  82.6 % về diện tích  và 87% về sản lượng  (  877 000 tấn lúa - thóc ). Lúa trồng được ở cả 12 huyện và  các xã ngoại vi  thị xã Hà Đông, Sơn Tây.  Năng xuất cao nhất là ở 4 huyện ven sông Hồng: Đan Phượng, Phúc Thọ, Thường Tín, Phú Xuyên. Diện tích lúa không tăng ở Hà Tây từ nhiều năm nay: năm 1990 đã trồng 157 600 ha và các năm 1991 đến năm 1998 thay đổi từ thấp nhất 163 600 ha ( 1991) đến cao nhất 168 2 00 ha ( 1995 ). Nhưng sản lượng 437 300 tấn lúa năm  1990, tăng lên đến 876 600 năm  1999, vì năng xuất tăng nhiều từ  2.63  t/ha năm 1990  lên đến 5.2.3 t/ ha năm 1999. Đặc biệt  từ năm 1991, khi nông dân mua lúa giống lai  - hybrid rice Trung Quốc đem về trồng ở các tỉnh biên giới miền Bắc và Bộ Nông Nghiệp Việt Nam phát động chương trình trồng lúa lai ở các tỉnh miền Bắc, năm 1992, với sự giúp đở  tài  chánh và hổ trợ kỷ thuật ( tuyễn các chuyên viên Trung Quốc chuyên về lúa lai Trung Quốc v.v…)  của  Lương Nông Quốc Tế  FAO các năm 1992 - 93. Từ 11 000 ha năm1992, diện tích lúa lai năm 2005 đã lên đến 600 000 ha, phần lớn ở các tỉnh miền Bắc. ( năm 2004, Trung Quốc đã trồng 29.42 triệu ha lúa lai, 92% tổng số trên 32 triệu ha đất trồng lúa gạo ). Năng xuất trung bình lúa lai thường cao hơn các loại lúa cao năng loại Thần Nông - IR cũ khoảng 15 - 20 %, nghĩa là 1.5- 2. 5 t/ha một vụ .  
Việt Nam  nhắm mục tiêu  tăng diện tích lúa lai năm 2010  lên trên 5.2 triệu ha ở nước nhà , 70% tổng số diện tích trồng lúa đã là 7.5 triệu ha năm 2008 . E khó lòng  đạt nổi mục tiêu đề xướng ra, dù cho  cuối năm  2008, sau  một cơn lạnh kéo dài làm thiệt hại nặng vụ lúa Đông Xuân miền Bắc, nông dân đã được Bộ Nông Nghiệp  tăng thêm trợ cấp để  trồng lúa lai thay thế lúa cỗ điển, cỗ truyền.  Một  nghiên cứu cuối tháng 7 năm 2008, ở 4 tỉnh trồng nhiều lúa lai nhất là  Hà Tây, Hà Nam , Nam Định và Thái Bình cho thấy một viễn cảnh đáng lo ngại. Những  dòng tổ hợp lai mới kháng sâu bệnh, cao phẩm, cao năng hơn, phóng thích ở Việt Nam  thay thế những  dòng tổ hợp lai cũ nhập từ Trung Quốc ( Sán Ưu  - Shan you 63 , Nhị Ưu- Jin you 63… phẩm chất gạo kém cõi )  bằng những  tổ hợp lai mới như Nhị Ưu  ( Jin you) 838, Bác Ưu ( Boyou ) 63, Trang Nông ( Sài Gòn )15…nguồn gốc Trung Quốc,  HR 641, TH3- 3, Pac 807, BTE1… nguồn gốc Việt Nam của Viện Nghiên cứu Lúa Lai An Khánh ( ? ), Hà Nội, thành lập năm 1994, thuộc chỉ đạo của Viện  Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, có cở sở thí nghiệm, nhân- sản xuất đại trà giống ở Ba Vì, Hải Phòng, Thái Bình … ), nông dân lại ít biết đến, khi khảo sát dò hỏi họ. Thật tế, ít nhất là ¾ tổ hợp lai trồng ở Việt Nam,  nông dân mua ( lậu ? ) từ Trung Quốc, dù các nhà khoa học và nông dân cho biết là các giống nhập từ Trung Quốc rất dễ nhiễm bệnh, nhiễm  các dòng  bệnh đạo ôn - cháy lá ( blast disease) hay cháy bìa lá - bạc lá (  bacterial leaf blight ) chẳng hạn. Nông dân cũng còn cho biết là đã dùng thêm nhiều phân bón hóa học và các thuốc trừ sâu rầy lúa, khi họ chuyễn qua chương trình lúa lai. Đặc biệt là  rầy nâu -  brown plant hopper  và rầy  xanh lưng trắng-  white back greenhopper, càng ngày càng lan rộng với tăng gia trồng lúa lai.  Hai loại sâu rầy này ít phá hại lúa ở miền Bắc trước đó, nay trở thành  một nạn sâu rầy lớn,  như  đã xảy ra miền Nam Việt Nam vào các thập niên 1950- 60 - 70.  Chúng cũng phá hại tương tự lúa lai trồng ở các tỉnh Trung Quốc. Nông dân Đồng Bằng Sông Hồng  còn cho biết là mua được dễ dàng tiện lợi, phân bón hóa học và các thuốc trừ sâu bệnh, nhập từ Trung Quốc.           Như vậy, “ thành công “ của chuơng trình lúa lai Việt Nam ở miền Bắc, vô tình lại có thành quả  tạo ra một thị trường lớn cho hai ngành công nghệ  sản xuất hột giống lúa lai và công nghệ thuốc sát trùng- diệt trừ sâu bọ của Trung Quốc !
      Điều này cho thấy chương trình lúa lai Việt Nam còn khiếm khuyết, chưa hoàn chỉnh, trên phương diện  tuyễn chọn các giống lúa lai kháng sâu bệnh hơn,  khuyến nông chưa đủ phổ biến các giống mới cao năng cao phẩm sâu rộng hơn ( tương tự chương trình chính xác Hệ thống Hội Nhập  Thâm canh Lúa - Integrated System Rice intensification , SRI, chẳng hạn, vừa bớt dùng bừa bải thuốc sát trùng và phân bón hóa học, vừa giúp nông dân tăng lợi tức ), chưa tổ chức hửu hiệu hơn khâu sản xuất và phân bố lúa giống lai mới ( dù đã tiến bộ nhiều ở các trung tâm khảo cứu, đưa năng  xuất hột giống lúa lai F1 từ  302kg/ha năm 1992 lên 2300 kg/ha năm 2000, không thua kém gì Trung Quốc cả ). Cũng như cần duyệt xét lại hai công nghệ: hóa sinh chế tạo thuốc sát trùng trị sâu bệnh, hóa học chế tạo các loại phân lân, phân đạm, phân hổn hợp… nước nhà, đủ sức canh tranh, khỏi nhập lậu hay mua chánh thức, từ Trung Quốc.
  
Đô thị hóa bừa bải và các khu công nghệ tiêu phí quỷ đất nông nghiệp
  Hai khía cạnh  nguy cơ khác cho ngành lúa gạo nước nhà,  cũng như ở Hà Tây là nạn đô thị hóa bừa bải và nạn chiếm ngự đất- ruộng thiết lập, mở mang các khu công nghệ hay dịch vụ, giao thông, tiêu khiển lớn, nhỏ. Theo tiên đoán, dân số Việt Nam sẽ lên đến 130 triệu người 40 năm tới, năm 2050. Như vậy cần phải tăng gia sản xuất lúa gạo, để dân gian  trong tương lai đủ gạo ăn và để tiếp tục xuất khẩu. Tình trạng Việt Nam khốn khổ thiếu gạo  phải ăn bo bo, lúa miến - sorgho thay thế 15 năm trời, sau năm 1975,  vẫn chưa phai mờ trong trí nhớ nhiều người Việt, trong hay ngoài nước. Bằng mọi cách, phải cố hết sức gìn giữ, duy trì,  cải thiện đất đai nông nghiệp ruộng lúa nước, nhất là các đất đai  thâm canh, làm được nhiều vụ, năng xuất  cao.  Như đã nói trên, ở tỉnh Hà Tây là các ruộng lúa nước thâm canh nhất thuộc 4 huyện quanh  sông Hồng. Đừng phỏng theo lề lối Bắc - Nam Hàn,  đã hy sinh chuyễn hóa đất nông nghiệp  cho đô thị hóa, công nghiệp hóa, dịch vụ hóa xứ sở họ.  Cũng không nên bắt chước Phi Luật Tân, đã thực thi một chiến lược tương tự Nam - Bắc Hàn, mà thành quả là biến Phi Luật Tân, từ một nước xuất khẩu gạo trở thành một nước nhập khẩu gạo lớn ngày nay. Việt Nam dự trù tăng thêm  40- 50 000 ha  thiết lập các khu công nghệ mới, để  đạt 60 000- 80 000 ha diện tích khu công nghệ  vào các năm 2010 - 2015 và 120 000 ha vào năm 2020 . Năm 2009, Việt Nam đã  có 250 khu công nghệ diện tích là 63 170 ha, trong số này đã có 162 khu công nghệ  hoạt động, diện tích là 38 000 ha, chứa 3500 dự án  đầu tư tổng cọng  46. 9 tỉ đô la Mỹ,  phân nữa là  đầu tư ngoại quốc. Tranh chấp về tiền bồi hoàn ruộng đất chưa giải quyết dứt khoát ( tiền bồi thường chiếm 80% tổng ngân khoản đầu tư hạ tầng cơ sở ), cũng như  chưa dứt khoát về  toàn diện vị trí toàn khu công nghệ: thủ tục điều hòa tiền thuê đất; thiếu thốn hạ tầng cơ sở, tắt nghẽn giao thông, huấn nghệ công nhân- chuyên môn còn yếu kém.  Điển hình  ở Hà Tây là Khu công Nghệ Nam Hàn, đáng lý phải khánh thành năm 2009, đến nay vẫn chưa hoạt động, sau 3 năm cho phép xây dựng. Đô thị hóa tỉnh Hà Tây cũ cũng hổn  loạn không kém, nhất là tại  vùng đồi núi Ba Vì, cỗ thành (Sơn Tây ? ) và vùng Mỹ Đức Chùa Hương,  nơi có các hồ nhân tạo, sân gôn ( golf )  36 lỗ trước nhất cả nước thì phải ( ? ).
Sáp nhập tỉnh Hà Tây vào thủ đô Hà Nội năm 2008, âu cũng là một  cơ may mắn cho tỉnh nhà trong công cuộc đô thị hóa tỉnh. Hà Nội đang trình Quốc hội duyệt y, có thể  tháng 7 năm 2010, dự án  “ Hà Nội Lớn- Greater Hà Nội “,  biến Hà Nội thành một thành phố “độc đáo- original” thế giới, diện tích trên 13 000 km2 ( nay diện tích là 3 349 km2  và trước năm 2008 chỉ có 920 .97 km2 ). Dân số trước năm 2008 là 3.4 triệu nay là  6.5 triệu, dự trù  tăng đến 10 triệu dân năm 2030. Trong đó, 6 triệu sẽ sinh sống ở những vùng đô thị mới, 3 500 000 ở thành phố cũ và 500 000 ở làng xã  hiện hửu. Dự án do một nhóm  3 hảng cố vấn  góp phần thiết kế là Perkins EastMan - Hoa Kỳ, và hai hảng Hàn  Quốc ( Nam Hàn ) là Posco E&C và Jina PPJ, cùng  Viện  Kiến Trúc Kế Hoạch Đô thị và Nông thôn Việt Nam. Ở dự án mới, Hà Tây may mắn nằm trong  Hành Lang Xanh - Green Corridor , chiếm 60 %  diện tích, nhưng  dự liệu cố  duy trì 40%  cho khu vực Bảo tồn- Conservation  và 20 %  cho khu vực Phát triển, mà căn  bản cũng là Bảo tồn.              
   Cũng cố vành đai trắng ( sửa ) và vành đai xanh ( rau đậu , cây trái,  hoa kiễng ? ) Hà Nội Lớn .  
Chăn nuôi tỉnh Hà Tây năm 2000 chỉ mới chiếm khoảng 29% giá trị sản xuất nông nghiệp, còn khiêm tốn so với khả năng tỉnh, tuy rằng tỉ lệ  này đã cao hơn mức trung bình cả nước. Vì vùng Đồng Bằng sông Hồng  thuộc Hà Tây có nhiều ưu thế  trên phương diện đất trồng cỏ, đất trồng hoa màu cho gia súc và khả năng chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hà Tây nay thuộc thủ đô Hà Nội là bộ phận phía tây và phía nam  vành đai  rau, trái cây ( quả ), thịt. sửa, có giao thông tiện lợi với vùng  thủ đô cũ.
Đàn heo ( lợn ) Hà Tây luôn luôn tăng song song với  tăng sản lượng lúa và hoa màu. Năm 1999, Hà Tây đã có trên 830 000  con heo ( lợn ). Thịt xuất chuồng tăng, nhưng còn khả năng tăng thêm nữa, nếu  tân tiến thêm  tuyễn chọn lai giống di truyền   thích nghi đũ máu  các giống heo thịt mới thế giới, ngon, nhiều nạc, ít mỡ  và cải thiện, cận đại thêm phương pháp nuôi heo. Các huyện tăng nhiều thịt heo là Phú Xuyên, Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thường Tín.
Chăn nuôi gia cầm đứng hàng đầu  mức tăng trưởng giá trị chăn nuôi Hà Tây.  Gia cầm  giết thịt  đã trên 7000 tấn năm 2000. Hoài Đức và Thường Tín là hai huyện có mức tăng cao nhất, nhưng không nên lơ là vệ sinh chuồng trại và ngừa trị các bệnh  bất ngờ bùng nổ dữ dội, chẳng hạn cúm gà ( cúm chim- avian flu ) phát hiện trước nhất ở Hà Tây ( ? ).
Thịt cá, thủy sản  được phát triển  cuối thập niên 1990, nhằm tận dụng  các hồ lớn chứa nước ( gần 4000 ha ), ao hồ  nhỏ ( 6000 ha ), ruộng một vụ ( 1000ha ). Hà Tây còn có 5 con sông, tổng chiều dài  là 408 km, có thể  bắt chước An Giang - Châu Đốc …, làm những nhà làng nuôi cá, dưới là lồng cá bè trên là những nhà mát mẽ, khách sạn, quán ăn… khang trang ? Sản lượng thủy sản 8000 tấn  năm 2000, có thể  tăng thêm nhiều, vì đã có nhiều hộ  kinh doanh cá lồng ( 16000 lồng năm 1999 ) ra đời.
 Thịt gia súc lớn  có phần giảm thiểu. Đàn trâu có khuynh hướng giảm dần. Năm  1999, cả tỉnh chỉ  còn  36 200 con trâu. Tăng trưởng đàn bò cũng thất thường. Năm 1999  có 89 4000 con.    
 May thay từ năm 200, Việt Nam đã phát động chương trình phát triển sửa và các sản phẩm nguyên liệu sửa, như sửa chua yogourt ở 33 tỉnh nước nhà. Năm  2000, Việt Nam chỉ có đàn bò sửa gồm  35 000 con. Năm 2006 đã lên đến 113 000 con, Sản xuất sửa nội địa từ 12 000 tấn năm 1990, tăng lên 51.400 tấn năm 2000, và 215 900 tấn năm 2006.  Vành đai  phía tây và phía Nam “Hà nội Lớn “ , thuộc tinh Hà Tây cũ  có đàn bò sửa lớn nhất các tỉnh miền Bắc, chiếm 28 % tống số, trong khi vành đai phía bắc Hà Nội chỉ chiếm 24 % , Sơn La 23 % , Tuyên Quang 8% , Vĩnh Phúc  4% , Bắc Ninh 3 % .  Mức sản xuất các sản phẩm sửa  năm 1980 chỉ mới đạt 41 700 tấn  ( 34.6 % mức tiêu thụ ) , 60 700 tấn năm 1990  ( 18.2 % mức tiêu thụ ) , 215 900 tấn năm 2006 (  35,5 % mức tiêu thụ. Mức tiêu thụ sản phẩm sửa ở Việt Nam đã đạt 9 kg mỗi đầu người, nhưng con số này còn thấp kém so với nhiều nước Á Châu. Việt Nam  năm 2005 đã phải nhập khẩu trên 500 triệu đô la Mỹ sản phẩm sửa từ Hoa Kỳ, Úc Châu, Hàn Quốc ( Nam Hàn ) và Hà ( Hòa ) Lan . Chứng tỏ còn cần nhiều nổ lực mới, chấn hưng ngành sửa. Một số trở ngại  chánh phát triển  sản  phẩm sửa  trong nước đã được nói sơ qua ở bài lạm bàn phát triển tỉnh Thái Nguyên.  Hà Tây có nhiều ưu điểm để tăng gia sản xuất sản phảm sửa nội địa hơn cả, nhờ gần thị trường Hà Nội nhu cầu lớn, đã có đàn bò sửa lớn nhất các tỉnh miền Bắc, nông dân đã có nhiều kinh nghiệm làm khế ước mua bán sửa ( trước 2008,  với hảng Nesltlé nay với công ty thực phẩm Anco food company ), đã có giống lai Holstein - Friesan  cao năng  3300- 3500 kg sửa/ một con /một năm ( hay cao năng hơn nữa ) , thay vì chỉ có 2100 kg/con/ năm  vào năm 1990. Nhất là đã  phổ biến loại cỏ VA06, một loại cỏ Việt Nam lai giống giữa giống cỏ   “Đuôi sói  - wolf tail “ nhập từ Nam Mỹ  La tinh với giống “cỏ Voi  - elephant grass” trong nước, nhiều chất dinh dưỡng, nhiều amino acids nuôi bò sửa.  Cỏ lai VA06 là một loại hòa bản không bảo hòa ánh sáng C4, ở điều kiện lý tưởng cho năng xuất  400-500 tấn / ha một năm, có khả năng nuôi tốt  40- 50 con bò sửa, và đã  được trồng trên 800 ha VA06 ở huyện Mỹ Đức ( ? ).   Tiểu nông Hà Tây còn có thể thay Mộc Châu - Lai Châu nuôi trâu sửa ( murrah Ấn Độ ? ) hay nuôi dê sửa  cao năng Úc Châu, Ai Cập, vài đảo Anh Quốc (?), bổ sung sửa bò .
Vành đai Xanh Hà Tây cần nhiều chuyễn hướng, biến chuyễn kịp thời với thay đổi thị hiếu  ăn uống mới của Thủ đô, theo kiểu tây phương Pháp, Ý, Bồ Đào Nha?. Trên phương diện hoa màu lương thực,  ngoài các loại rau đậu  đặc sản như rau sắng chùa Hương, các loại cà  ( cà láng , cà tím… ) vùng Ba Vì , hay quen thuộc miền Bắc,  gấc,  dưa chuột, các loai bầu bí ( mướp hương, bí đỏ, bí đao,  bầu, mướp rừng, …),  rau đay ( bố ) đậu bắp, các loài họ gừng riềng, tiểu đậu khấu , sa nhân ),rau má, cần ta, rau húng, rau dền, bố ngọt ( rau ngót ) họ cúc , họ thập tự (cúc tần ô, cải bẹ xanh,  cải ngọt , cải làn), hành ta , kiệu , hẹ , kim châm ( nụ hoa huệ ngày ), hoa thiên lý , kinh giới , năng , (mã thầy), củ ấu,  cẩu kỷ- cẩu khởi ( địa cốt ), chiếc bằng ( lộc Vừng ), củ đậu ( Pachyryzus oryzae ) v.v…   sao không thấy những làng rau hoa chuyên canh đậu cô ve , đậu hòa lan - petit pois , đậu rồng , đậu trắng, đậu rằn , đậu đỏ …nhiều giống cao năng đã tuyễn chọn ở Nam Mỹ, ở Úc ; rau muống đất khô( tuyễn chọn ở Đài Loan ),  măng tây,  su le, xà lách xon -(cresson ),  các loại cải bắp ( bắp sú ), cải hoa ( choufleur, cauliflower ), cải  hoa nụ ( broccoli),  cải đắng , cải bắc thảo  v.v… mà dân Hà Đông - Hà Tây và nguyên quán Nghệ Tĩnh  đã trồng nhiều ở vùng Đà Lạt - Lang Bian ( Lâm viên ), Tây Nguyên , theo các bậc thang, dọc thung lũng, vách đồi núi từ năm 1940  ? Tưởng cũng nên biết là  Hà Hội ngay cả ở mặt đường buôn bán 36 phố phường cũ Hà Nội ngày nay, còn rất ít thế hệ  thứ ba sinh trưởng tại đây chiếm giữ, vì  họ già nua, lùi về ở đàng sau các phố hay đã di tản và đã được thay thế bằng  cửa hàng các thế hệ trẽ hơn, từ các tỉnh trung du, châu thổ sông Hồng,Thanh Nghệ Tỉnh đổ về đây, sau 1954 ?.
Ngoài việc khảo cứu tăng cường các đặc sản nội địa cỗ truyền, có lẽ vành đai xanh nên cố gắng thêm nữa khuếch trương mạnh mẽ  các rau đậu bán nhiệt đới cao năng , cao phẩm ,nhắm xuất khẩu vì thế giới mỗi ngày mỗi thích tiêu thụ hơn, hay  khuếch trương nhiều loại rau đậu giống cao năng, cao phẩm  mới, cũ của khí hậu ôn đới nhưng chịu đựng nhiệt độ cao tốt hơn , vào vụ đông xuân cũng một phần nhắm vào xuất khẩu sang các nước ôn đới mùa đông quá lạnh lẽo. Như đã kể trên, thị trường Hà Nội có thể chuyễn hướng thị hiếu vào việc tiêu thụ thêm rau đậu, hoa màu, lương thực Tây Phuơng hơn (đặc biệt theo khuynh hướng Pháp hay khuynh hướng Nga Sô Viết cũ ? ). Vì vậy, có lẽ  thay vì trồng  mía làm đường, nên  xoay qua  trồng mía  ép nước xi rô ( thật tế năm 1999 Hà Tây chỉ còn trồng 400 ha mía, năng xuất kém cõi ); trồng củ dền ( củ cải làm đường Âu Mỹ )làm rau ngọt hay ép lấy nước đường, trồng bắp ngọt làm xi rô, bắp còn non hơn dùng để nưóng  chiên xào; khoai tây ( đã trồng khá nhiều vụ đông xuân khắp các huyện Hà Tây ): khoai lang( năm 1999, Hà Tây trồng được gần 3000 ha khoai lang , đặc biệt  ở Ba Vì và Phú Xuyên ) tuyễn  loại có đặc tính  xắt lát, xắt khoanh chiên ráng  như khoai tây, tuyễn chọn các loại đậu, một phần làm làm giá, thay vì chỉ  mới có giá đậu xanh, đậu nành ( đổ tương ), các giống đậu phụng ( lạc) hột to ít dầu  nhóm Virginia v.v…             
 Vành đai xanh Hà Tây, ngoài các  loại cỗ truyền như chuối, bưởi, dứa, mít, ổi …  còn có thể là  những làng vườn cây ăn trái ( ăn quả ) bán ôn đới chuyên canh. Hà Tây đã nổi tiếng trồng hồng Thạch Thất ( hồng tên khoa học là Diospyros kaki Linn., họ thị hay mun Ebenaceae ) trái hình tim, khi chín màu đỏ thẩm, thịt ( ruột ) rắn giòn ( trong khi thịt hồng Lâm Đồng thường dẽo ), ít hột ( hạt ), nhiều hột lép, trái bổ ra  vài ngày sau vẫn không chảy nước, không rụng tai , ăn ngọt mát. Cây hồng Thạch Thất sai trái, có khi đến  3000 - 4000 trái, không mấy thua kém cây hồng Nhân Hậu - Hà Nam,  cây hồng Hạ Trì- Phú Thọ. Trái hồng Thạch Thất khỏi cần ngâm vôi hay nước tro cho khỏi chát như hồng Lạng Sơn , một loại trái đỏ tươi như son, nhưng khá nhỏ. Muốn xuất khẩu thì phải tuyên chọn sau khi lai các giống địa phương với các giống ngoại quốc hay du nhập các giống hồng cao năng cao phẩm ngoại quốc đã biết, tỉ như giống Nhật  Fuyu( Fuyugaki ) , Hanafuyu,  Eureka , Hachiya ( hai giống  sau này ăn chát, phải ngâm trái mới hết chát như hồng Lạng Sơn vậy đó. Thứ hai là  mơ - apricot ( văn chương hay gọi là” mai “ ) tên khoa học là Prunus armenica L. ( Prunus mume S. & Z. ) như đã nói ở trên về các loài mơ Hương Tích - Chùa Huơng.  Mơ  vỏ vàng Hương Tích tuy có mùi thơm đặc biệt khi trái chín, nhưng trái nhỏ hơn mơ Vân Nam ,trái xanh đậm hình tim, vết tím ở cuống trái , mơ Đông Mỹ một biến dạng của  mơ Vân Nam. Có lẽ cần du nhập các giống mơ ngoại quốc  đã  tuyễn chọn, phổ biến ở Ca Li - Hoa Kỳ , ít yêu cầu lạnh như Early Gold , Newsatle , Nugget,  Perfection (Goldbeck ), Southern Giant, hay giống mới Snowball vỏ trắng, ửng hồng, thịt màu trắng.  Loài cây ôn đới và bán ôn đới thứ ba cho Hà Tây là  mận- plum  ( có lẽ nên gọi là mận tây để khỏi lầm với mận ta  là một loại roi, đào ta,  lý… họ Sim Myrtaceae  không phải họ hoa Hồng- Rosaceae ) tên la tinh là Prunus salicina Lindle.  Mận tây trồng được ở cao độ  900 - 1000 m so với mặt biển. Giống nổi tiếng nhất là  Mận Tam Hoa , nhập nội đầu tiên năm 1964 ở  Quảnh Ninh, trái khá to, vỏ tím xanh , ruột ( thịt ) tím đậm.  Mận Tả Vân vỏ tím ( mận đường ), ruột vàng ngọt, thích hợp cho đóng hộp, trái mềm dễ bầm dập, khó chuyễn vận đi xa. Nên thử nghiệm thêm những giống trái to, vỏ  đen chuyên chở đi xa được như các giống Ca Li, Hoa Kỳ : Friar, BlackBamber, Elephant Heart  trái to, vỏ lấm tấm tím, thịt đỏ như máu ( mận huyết ), Mariposa trái tròn, da xanh, thịt nâu đà.  Nên thí nghiệm ngay những giống lai mơ - mân ( Pluot , Plucot…) mới phổ biến những năm gần đây ở Ca Li, thịt pha lẫn hương vị mận tây và mơ - mai, trái to, vỏ khá dày, dễ chuyên chở đi xa, yêu cầu lạnh tương đối ít. Cũng không nên quên phát triển  các giống cây bơ - avocado , avocat , lựa  các giống  chịu lạnh khá như Guatemala, vỏ dày, cứng, màu xanh đậm thường biến thành màu  đỏ khi trái chín, hột nhỏ ,cơm ( thịt )  vàng xanh  hay các nhóm lai Antille x Guatemala , Guatemala x Mexico  đặc biệt  là giống lai Fuerte, trái xanh láng bóng, hình trái lê, khá to,  chịu lạnh khá, nhiều chất béo  ( 18-26% )   hay  giống  lai Haas vỏ tím , thịt ngon. Điểm đáng lưu ý là dưới bóng các hàng cây bơ , mơ mận …, có thể trồng cỏ cho súc vật ăn hay  trồng các hoa kiểng loại thích bóng râm.  Và thử nghiệm mảng cầu tây ( na tây )  Anona cherimola L. , yêu cầu nhiệt độ lạnh còn  ít hơn  cả hồng trái kaki nữa mà lại trồng tốt trên đất pha cát.  Sau cùng là, ngoài các giống dưa hấu mới, dưa gang tây( melon), dưa gang vỏ rỗ ( cantaloupe) đã biết, nên cố gắng lập những  làng vườn  luống dài ( lên vồng che phủ đất bằng bằng plastic … ) dâu tây - strawberries, trồng các giống ở   đã tuyễn vchon tốt ơ Nam bang Ca Li - Hoa Kỳ ,trái to, cũng ít dầm bập khi chuyên chở xa, kháng nhiều bệnh virus cây dâu , cao năng , cao phẩm; các làng vườn giàn dây kẻm  cây mâm xôi, dum ré sum - raspberries , framboises , trái đỏ, tím, đen, vàng. Và tai sao không, các vườn nhà kiếng, vòm kiếng  plastics, trồng thủy sinh hay không , các loại hoa hồng - roses, hoa lan , chậu kiểng bán ôn đới hay ôn đới , cũng  nhắm xuất khẩu vào mùa đông các xứ ôn đới ?

2- Hành lang Xanh- Green Corridor  đô thị hóa- công nghệ hóa vững bền, bảo tồn văn hóa đẹp xưa cũ, vựợt  hẳn  lên trên quan niệm vành đai xanh   
Quan niệm cho Việt Nam phải: vừa  duy trì tinh cách dẫn đạo của nước nhà trên  vài nông phẩm chính yếu thế giới, bảo đảm an ninh lương thực cho dân số gia tăng, nuôi sống họ đầy đủ dinh dưỡng  với nông phẩm sản xuất trong nước ít quốc gia trên thế giới hứing thú làm được;  vừa đồng thời  xây dựng  lảnh vực  công nghệ và kỷ thuật, mau đuổi kip tiến bộ kinh tế các nước tân tiến  Á Châu, đúng theo nguyên tắc phát triển kinh tế và  môi sinh vững bền ngày nay , trong khuôn khổ “ Hà Nội Lớn “,  là  việc thiết lập  hành lang xanh  phía tây lõi thủ đô cũ. Hành lang Xanh này  nằm  vào những  đồng bằng ngập nước - flood plains , hai bên bờ hai sông Đáy và sông Tích, nghĩa là phần lớn tỉnh Hà Tây cũ.  Căn bản Hành lang Xanh khác hẳn  vòng đai xanh .Vành đai xanh rất tĩnh và được kiểm soát chặc chẽ.  Hành lang Xanh mềm dẽo, uyễn chuyễn hơn, vì chấp  nhận cho vài hoạt động xanh xãy ra , nhưng vẫn duy trì nhiều mức độ bảo vệ- protection.   Bảo vệ sẽ gồm từ kiểm soát chặc chẻ đến phát triển căn cứ trên bảo tồn - conservation - based development “ , nghĩa là phù hợp, thích nghi, giúp  cho các làng  nghề tiểu công nghệ hay  chuyên canh thuần nông có chế biến nhiều ít hiện hữu, vẫn tiếp tục hoạt động được. Hành lang Xanh  cũng sẽ hoạt động tương tự thể thức một vành đai  xanh như  ở Hán Thành - Seoul hay Luân Đôn - London , Anh Quốc ; dự trù một biên giới  quanh các  vùng đô thị  hầu kiểm soát tránh phát triển  bừa bải hổn loạn , không kiểm soát như đã xảy ra ở những thành phố , thị xã,  thị trấn một vài tỉnh nước nhà  hiện nay. Điều này còn giúp cho những thị trấn vệ tinh  cơ hội phát triển thích hợp cạnh tranh -  more competitive hơn , phương thức dày đặc- compact way (  nhà tháp , nhà cao tầng … ) hơn ; và cũng giúp giải tỏa bớt dân số trung tâm Hà Nội hiện hửu, hổ trợ  cho ngành giao thông công cọng một thời cơ  làm ra những mối liên kết tốt đẹp  giữa các trung tâm đô thị mới, cũ. Lẽ nhiên  là còn thêm lợi ích có một không gian xanh mở rộng cho các thế hệ tương lai hưởng thụ không khí trong lành. Hy vọng trong những năm tới,vùng đô thị mới thị trấn vệ tinh Hà Tây ( Trục  thị xã Sơn Tây - Xuân Mai … )  sẽ  dựng lên tương tự  những khu  bất động sản , nhà ở, chung cư , thương xá cận đại Hà Nội như  Trung Hoa Nhân Chinh, Thương xá Garden  Mall Mê Trì - Mỹ Linh quậnTừ Liêm , thương xá đang xây cất Yên Sơ  quận Hoàng Mai,  thương xá Ciputra Mall  vùng đô thị mới Ciputra quận Tây Hồ v. v. .
              Vào tháng 3 năm 2010, Hà Tây  đếm được  120 làng nghề tiểu công nghệ,  10% tổng số làng nghề truyền thống tiểu công nghệ Việt Nam.  Số làng tiểu công nghệ Hà Tây đã tăng thêm,  so với năm 1998 chỉ đếm được 88 làng nghề truyền thống . Đây là tiềm năng lao động đặc thù của tỉnh, của nước nhà, một nguồn vốn qúy  cần huy động, bảo tồn , giúp cận đại thêm nếu cần. Đáng kể ra là làng dệt lụa Vạn Phúc, làng thêu Quyết Động , làng dệt may Hòa Xá,  làng Chuông làm quạt tay , làng nhận - nhét ngọc trai  Chương Mỹ, làng đan tre- mây Phú Vinh, làng  sơn mài  Tân Dân, làng khắc tượng gỗ chùa chiềng, lễ hội Sơn Đông, làng rèn Đa sĩ …Một số đã được ngoại quốc giúp đở làm tốt hơn , hợp thị trường xuất khẩu ngoại quốc hơn, và cũng được quốc  gia  nâng đở , hướng dẫn thêm .
 Hạn chế lớn nhất cho phát triển công nghệ,  dịch vụ Hà Tây là lực lượng  lao động tỉnh nói chung , có trình độ văn hóa  và kỷ thuật  vào loại thấp, so với  các tỉnh khác vùng Đồng Bằng Sông Hồng.  Vì thế  đào tạo sâu rộng  kỷ thuật chuyên  nghiệp thật là cần thiết, để nâng cao năng xuất lao động cũng như uy tín sản phẩm công nghiệp , trước yêu cầu của thị trường cận đại. Nổi bật hơn hết về công nghệ địa phương  Hà Tây là các xí nghiệp  sản xuất vật liệu xây dựng  như xí nghiệp xi măng Sài Sơn ( Quốc Oai ) , xi  măng Tiến Sơn (Mỹ Đức ), xí nghiệp gạch Văn Miến ( Mỹ Đức ), xí nghiệp gạch Cẩm Thạch ( Sơn Tây ), xí ngiệp đá Miếu Môn. Ngành thực phẩm, chế biến nông sản cũng khá phát triển  như  công ty liên hợp  thực phẩm Hà Đông và Phú Xuyên  nhà máy giấy,  rượu  (Phúc Thọ ). Hoạt động may mặc đáng kể  là các công ty may thêu Hưng Thịnh ( Hà Đông ), may thêu Sơn Hà ( Hà Đông ) , xí nghiệp dệt ( Sơn Tây ).
Năm 1998, có 11  xí nghiệp liên doanh với nước ngoài  đã hoạt động. Chủ yếu  xi nghiệp có doanh thu khá lớn là công ty thực phẩm 19/5 , công ty que ( đủa ) hàn Việt Đức, công ty máy kéo và máy nông nghiệp.
Mong rằng Hà Tây nhập vào “Hà Nội  Lớn “sẽ cũng cố được về tài chánh cũng như đào tạo kỷ thuật  tốt hơn để cải thiện các xí nghiệp vừa kể, mở mang thêm vào  nhiều ngành công nghệ mới, đặc biệt nhiều ngành  công nghệ tri thức ngày nay ( viễn thông,  điện tử , tin học, công nghê sinh học- biotechnologies v.v… ), các công nghệ thương mãi- ngân hàng, tài chánh, du lịch , tiêu khiển còn đang phôi thai, yếu kém ở  tỉnh nhà, chưa khai thác đúng mức tiềm năng của mình.

Irvine, Nam Ca Li, ngày 29 tháng 5 năm 2010 )         
                      
                   

1 nhận xét:


  1. From: phan_thi_hai@hotmail.com
    To: tonthattrinh@hotmail.com
    Date: Mon, 11 Mar 2013 16:50:13 +0100

    Kính Thầy Cô,
    Hôm chúa nhật vừa qua Em có dịp trình diễn văn nghệ cho Nhóm người xưa Huế. Em có được môt người bạn tên là Hồng Cuc , chồng họ là Tôn Thất,. Chị Cúc có bảo Em là quen biết với Cô vì hình như Cô là bạn của Mẹ chị Hồng Cuc.
    Em có đọc qua bài Áo Lụa Hà Đông của Thầy. Năm 1989 Em về VN lần thứ hai Em có đi dên Hà Đông và có mua 10m lụa màu xanh dương đậm để may một bộ áo dài và quần, Em đi vì tò mò muốn xem tại sao người ta cứ bảo Sư Tử hà đông và cũng vì nghe bài nhạc của Nguyên Sa áo lụa Hà Đông.

    Võ Thị Hai
    Kỹ sư Cao Đẳng Nông Lâm Súc VN (khóa 6)
    Tiến sĩ về thực vật học Pháp
    Nguyên chuyên viên bệnh học thực vật ở Cameroun Phi châu (sau 1975)

    Trả lờiXóa