Cập nhật thêm về “lịch sử văn hóa Trung
Quốc” theo cách nhìn của sử gia Hoa kỳ
ngày nay, kể từ khi nhà Thanh sụp đổ đến năm 2005:
I - Dẫn
nhập
Hiểu
biết về Trung Quốc ở Hoa Kỳ sau Thế Chiến Thứ Hai đã tiến triễn mạnh , nhờ nhiều môn học về Trung Quốc đã được giảng dạy ở các
viện , trường Hoa Kỳ, nhiều người dân Hoa kỳ đã sinh sống hay thăm viếng Trung Quốc và nhiều sinh viên đã
lựa chọn học ngôn ngữ Tàu. Thành quả là
dân Mỹ đã hiểu biết Trung Quốc từ những
nguồn trực tiếp và có tầm nhìn Trung Quốc từ bên trong. Cho nên tầm nhìn Hoa Kỳ trở thành khách quan và cân bằng hơn. Không
còn khuôn sáo là dân Tàu không chút nào tôn trọng đời sống , không chút nào giữ phẩm cách cho cá nhân, và Trung
Quốc luôn luôn lạc hậu về khoa học, ngôn
ngữ Tàu không hề có ngữ pháp , không có
từ ( ngữ ) cho cái này cái kia, gia đình
Tàu luôn luôn thuận hòa, lời nói Tàu là vàng ngọc v.v…Thế nhưng
hiểu biết thật sự về Trung Quốc không những phải bỏ đi mọi khuôn sáo cũ và phải khách quan và cân bằng. Hiểu biết căn bản
lịch sử và văn hóa Tàu là căn bản, vì tựu trung Trung Quốc là một quốc gia lịch sử và văn hóa. Thật sự
Trung Quốc không phải là một quốc gia
xưa cũ lâu đời nhất thế giới, mà là một quốc gia có lịch sử ghi chép dài
dẳng, ghi đầy đủ, dân Tàu luôn
luôn nhìn lại. Rất ít khía cạnh Trung
Quốc có thể tách rời khỏi lịch sử Tàu. Trên
hệ tư tưởng, Trung Quốc đã làm một cái nhảy lộn vòng hoàn toàn vào năm 1949. Thế nhưng cơ cấu chánh trị ở
tỉnh ( đúng hơn tỉnh Tàu là một quốc gia
như Việt Nam , Nhật , Triều Tiên - Nam Bắc Cao Ly , Thái Lan , Miến điện… và ở quận - phủ ( đúng hơn nên xem là tỉnh ở
Việt Nam ) đã xưa cũ 2000 năm rồi. Chẳng hạn, khi một dân Tàu nào nói đến tình thân hửu , họ luôn luôn kể lời khuyên bảo của Khổng Tử- Confucius thuộc
thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên - B.C.
Dân Tàu luôn luôn nhìn lui về lịch
sử , không vì lẽ là họ lạc hậu hay bảo thủ . Họ làm như vậy để có chứng cớ cụ thể và kinh nghiệm quá khứ .
Không khác gì mấy hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, luôn luôn nhấn
mạnh đến tiền lệ - precedents hầu
trình bày rỏ tại sao vài quyết định đã
được thiết lập . Chi tiết đời sống ở thiên niên kỷ - millennium trước Công nguyên, đàm thoại của thế kỷ thứ 6
trước Công Nguyên và thư từ thế kỷ thứ
nhất sau Công nguyên v.v…đã được bảo tồn và hàng ngàn, hàng vạn từ điển địa danh - gazetteers địa phương về các điều kiện địa phương ,đã được các phủ quận
đăng tải, từ nhiều thế kỷ. Trung bình một gia đình Tàu có gia phả
ghi chép trở lui ít nhất đã 800 năm qua, ngoài những ghi chép cỗ
truyền có lẽ đã hơn ngàn năm qua . Vì thế cho nên không có
một khía cạnh nào của Trung Quốc mà lại có thể thực sự đánh giá đúng,
ngoài ngữ cảnh lịch sử lâu dài của Trung Quốc. Cũng cần thiết như
lịch sử là nghiên cứu văn hóa Tàu . Vì rằng, Trung Quốc đã in sách nhiều thế kỷ trước Gutenberg in Thánh
kinh, vì
họa phong cảnh cũng đã trổi dậy
dưới hình thức một nghệ thuật điêu luyện hàng trăm năm trước Âu Châu ,
rất nhiều dân Tây Phương có ý niệm là văn hóa Tàu đã xưa cổ
và cao hơn hẳn đa số các văn hóa
khác và nhiều dân Tàu đương nhiên công nhận điều này. Thật ra văn hóa Trung
Quốc yếu kém trên nhiều thành phần văn
hóa , tỉ như giai
điệu hài hòa - harmony ở âm nhạc và
văn hóa Tàu cũng không cỗ xưa bao nhiêu cả. Điều có thể nói là văn hóa Tàu
trưởng thành mau lẹ, các cơ chế chánh trị và quan niệm, tổ chức xã hội, thái độ và thực thi tôn
giáo đạt
nhiều cao đỉnh từ 2000 năm nay (
theo Wing - Tsit Chan, Phó Giáo sư về Tư
Tưởng Tàu , Viện đại học Columbia, Hoa Kỳ, năm 2005 ). Sách hai giáo sư sử học W. Walton Scott Morton viện đại học Seton Hall University , bang New Jersey
và Charlton M. Lewis, viện Đai học New
School University, bang New York Trung Quốc : Lịch sử và Văn hóa Trung Quốc- China : Its History and Culture , tái
bản lần thứ 4 năm 2005, tuy viết chia
ra 18 chương, chỉ được trình bày ở đây
từ chương 12 đến chương thứ 18, sau đời nhà Thanh- Qing Dynasty(
1644-1911 ) vua Tàu nguồn gốc Mãn
Châu - Manzhou mất ngôi báu .
Để tiết l kiệm thì giờ độc giả và vì rối
loạn, biến chuyễn trong thời gian sau
nhà Thanh sụp đổ, ở Việt Nam và ở Trung
Quốc , khiến cho cả hai nước khó lòng giữ tính cách khách quan, cân bằng cần
thiết , khi luận cứ sử hay văn hóa .
I-1) Đất
nước Trung Quốc vào năm 2005 .
Trung Quốc rộng 3, 705,000 dặm Anh vuông - square miles( 9,596, 000 km2 ) ,
gần bằng diện tích toàn thể Hoa Kỳ. Diện tích cả hai nước đều nhỏ hơn Nga và Canada . Quảng Châu- Guangzhou
( Can ton ) , thủ phủ tỉnh Quảng Đông
-Guangdong( Kwangtung ) ở vòng đai
nhiệt đới; trong khi đó cách 2300 dặm
Anh ( hơn 3700 km ) đến tận phía Bắc Mãn Châu , lại nằm vào 13 độ vĩ tuyến độ 13
từ Vòng Bắc Cực - Artic Circle , có nhiệt
độ 40 độ F dưới zêrô ( - 25,6 độ
C) mùa đông .Trung Quốc quá lớn rộng và
khác biệt các miền vùng cũng quá to lớn , khiến
trong thời gian lịch sữ , Trung
Quốc dễ dàng phân chia vĩnh viễn thành
những quốc gia khác nhau, như Âu Châu đã
phân chia sau khi Đế quốc La Mã suy tàn.
Điều gì đã ngăn ngừa phân tán
Trung Quốc là một hệ thống thư
lại ổn định , rất uy vũ, là người bảo vệ một bản gốc chung và một nền văn hóa chung cao giá. Trung Quốc có biên cương sát ngay mọi quốc gia chánh ở Á Châu, ngoại trừ Tây
Á ( Trung Đông và Cận Đông ). Dù cho có sự kiện này, suốt lịch sử mình,
Trung Quốc tương đối cô lập nhờ các rào cản địa lý. Thái bình Dương rộng mênh mông phía Đông, những hẻm núi không qua nổi
phía biên giới với Myanmar ( Miến Điện- Burma ) và Cao nguyên Tây Tạng - Tibet cằn cỗi
không ở được phía Nam và phía Tây và
lảnh thổ ít người sinh sống, khô hạn
Mông Cỗ và Trung Á- Central Asia phía Tây Bắc và phía Bắc, giúp Trung Quốc trung bình ít liên lạc hơn với các nền văn minh khác và
để phát triễn lối sống riêng mình một cách cô lập , cách ly tương đối. Tuy
nhiên vẫn xảy ra những liên lạc như với Ấn Độ qua hành lang Tây Bắc, tỉ như các con đường thương mãi thời Phật giáo đang đến Trung Quốc; với thế
giới Ả Rập theo đường biển qua Quảng
Châu; với Đông Nam Á bằng thương mãi đường biển thường xuyên; với Tây Phương nhỏ giọt xuyên qua Trung Á và sau đó thác lũ
bằng các đường biển thế giới. Khuynh
hướng các nhà học giả hiện thời là
nhấn mạnh đến các giao liên với
ngoại quốc , đăc biệt vào thời tiền sử hay các thời kỳ có sử đầu tiên,
nhưng các sự kiện chủ yếu, đã được công
nhận lâu ngày và cũng còn đúng sự
thật là Trung Quốc đã phát triễn văn hóa riêng mình từ thuở ban đầu
theo phương cách Tàu; rất ít ảnh hưởng
ngoại quốc và đó chính là nhờ những thừa
tố địa lý.
I-2 ) Lảnh thổ
Sông chính và Vạn lý trường thành trung quô |
Có 5 sông chánh: sông Sungari
ở Bắc Mãn Châu , chỉ lưu thông được 6 tháng một năm, sông Liêu - Liao
ở Nam Mãn Châu, sông Hoàng hà - Yellow River ở Bắc Trung Quốc, sông Dương
tử ở miền Trung và sông Tây Giang -
West River , chảy qua Quảng Châu- Canton. Sông Hoàng Hà dài 2700 dặm Anh ( trên 4300 km
), phát nguyên từ cao nguyên Tây Tạng
chảy về Đông qua các hẻm núi - gorges , hướng về Bắc rồi quay đầu
về Nam , làm một vòng thòng lọng lớn
quanh Sa Mạc Ordos , và mau lẹ một lần
nữa về hướng Đông. Sau điểm này, Hoàng Hà thay đổi dòng chảy nhiều lần ở hạ
nguồn tại miền Bắc và phía Nam bán đảo Sơn Đông - Shangdong, kéo theo nhiều tai ương tàn phá . Nay thì Hoàng Hà chảy về các núi non phía Bắc Sơn Đông đổ ra một vịnh tên là Bố Hải - Bo Hai . Hoàng Hà đã
có tên là “ Trung Quốc Buồn Thảm - China ‘s Sorrow : vì trong lịch sử nó có nhiều cơn lụt tang tóc,
đau thương . Đất đai miền Bắc Tàu, tên gọi là loess, sông mang theo ở thể
lơ lững, trầm tích lớn lao đến nổi mức
bờ sông cao hơn đất đai quanh
sông rất nhiều. Khi bờ sông hay đê
vỡ nước lũ tàn ra xa, gây nhiều thảm
khốc . Phần lớn dòng chảy sông Hoàng Hà không lưu thông được, ngoại trừ bằng các
tàu bè nhỏ địa phương. Ngược lại sông Dương Tử, sông lớn nhất Trung Quốc,
dài 3200 dặm Anh ( trên 5000 Km ), đứng
hàng thứ 6 trên thế giới, lưu thông được
khoảng một ngàn dặm Anh ( 1600 km ) từ biển đến Hán Khẩu- Hankou
cho các tàu lớn chạy hơi nước suốt năm.
Tàu viễn duyên trọng tải 10 000 tấn, có thể cặp bến Hán Khẩu mùa hạ khi con nước cao và các tàu nhỏ hơn có thể chạy xa hơn, 600 dặm
Anh ( trên 960 Km ) phía trên Hán Khẩu. Trung Quốc đã làm xong đập Núi Hẻm
Tam Điệp-Three Gorges Dam phía trên Yichang- Nghị Tràng (? ), tạo ra
một hồ lớn giúp các tàu lớn tiến thêm lên phía thượng nguồn đến thành phố
Trùng Khánh- ChongQing.
Đập núi hẻm tam điệp |
Các dãy hay cụm núi hình dạng và
chiều hướng có phần mơ hồ, nhưng dãy núi quan trọng nhất là Khâm Lĩnh ( ? ) - Qinling vươn dài phía đông từ hệ thống lớn Côn
Lôn- Kun Lun Bắc Tây Tạng. Dãy Khâm
Lĩnh chia đôi Nam- Bắc Trung Quốc, sản
xuất ra vô số khác biệt giữa hai miền
Nam và miền Bắc , thành những đặc điểm xã hội và chánh trị riêng rẽ của lịch sử Trung Quốc . Miền Bắc
khô hạn, lạnh lẽo, gió sa mạc thổi mùa
đông . Miền Nam có khí hậu ẩm ướt của gió mùa Đông Nam mùa hè. Nông dân đồng bằng miền
Bắc sản xuất kê - millet , cao lương -gao liang ( hay mễ cốc
cao lớn - tall grain một loại kê ) và lúa mì - wheat. Nông dân thung lũng đồi núi miền Nam trồng lúa gạo, trà ( chè ), dâu nuôi tằm và tre trúc . Mùa trồng trọt miền Bắc kéo dài 4 đến 6 tháng, chỉ trồng một mùa, tuy vài nơi
có thể làm hai mùa vụ. Miền Nam
có thể trồng trọt từ 9 tháng đến suốt
năm , nên có thể sản xuất hai, có khi ba
mùa vụ một năm. Nông dân miền Bắc có
khuynh hướng ở lại nhà ; trong khi rất
nhiều dân miền Nam là ngư phủ hay buôn bán và nhiều người đã rời xứ sở
ra đi viễn dương. Khi ai đó gặp một người Tàu ở New
York , London , Brussels , hay Kua Lumpur , nhiều cơ hội đó
là dân Tàu hay gia đình Tàu quê
quán miền Nam Trung Quốc.
I-3) Dân Tàu
Xã hội Tàu trước đây thường chủ
yếu là dân nông thôn hơn là dân thành
thị và đến năm 2004 có lẽ 75 % dân chúng vẫn còn sinh sống ở đồng quê, tại làng xã hay thị
trấn nhỏ ( hình như năm2009 , con số này đã trụt xuống ở khoảng 40% ). Chánh phủ
Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc -People’s Republic of China, viết tắt là PRC hiện tại đã dựa vào sự kiện này phân tán công nghệ, cố gắng hòa lẫn công nghệ với làng xã nông thôn. Một chương
trình rộng lớn trồng lại rừng - afforestation đã được thực hiện những năm
gần đây để chống trả vấn đề xói mòn đất đai quan trọng. Vấn đề mất rừng đã hiện
diện từ nhiều thế kỷ qua, đặc biệt ở miền Bắc vì cần gỗ để xây cất, nấu nướng
và sưởi ấm mà không trồng lại cây mộc.
Ngay cả tại miềnNam, thảo mộc
phong phú hơn, nhiều sườn dốc đã bị xói
lỡ nặng nề, vì rễ cây mùa màng bị đào
bới lên hết làm củi đốt .
Thật
khó tính cho đúng dân số Trung Quốc, dù rằng Trung Quốc đã có một hệ thống thư
lại phức tạp từ lâu rồi. Vì các con số dân cư tính ra có mục đích đánh thuế, cho
nên có nhiều dụ dỗ khai gian. Đôi khi con
trai dưới 1 tuổi và con gái dưới 5 tuổi
không khai. Khác biệt chánh xảy ra ở những vùng xa xôi như Tây Tạng và
Ngoại Mông ,khi nhập khi không vào thống
kê chánh thức. Tuy nhiên kiểm tra- census ở Trung Quốc qua nhiều thế kỷ đã tỏ ra chính xác hơn tại đa số các quốc gia. Các tộc dân theo
truyền thống được công nhận gồm 5 nhóm : Hán - Tàu , Hồi - Hui hay Đạo
Hồi - Muslims, Mông - Meng - Mongolians, Man - Mãn Manchus, Tạng - Zeng -Tibetians. Tộc
dân Hán hay Tàu chính cống có lẽ chiếm
94 % tổng số. Chánh phủ PRC đã thiết lập
một chương trình kiểm soát sanh đẻ ,
khuyến khích cưới xin chậm hơn ( thiếu
nữ ở tuổi 24 , thanh niên ở tuổi 21 lấy nhau làm vợ chồng được xem là tối hảo
) và cung cấp linh kiện, thuốc ngừa thai; nhắm mục tiêu thực tiễn là mỗi gia đình thành thị chỉ có một
con, mỗi gia đình nông thôn có hai con.
Mặt khác, tăng mẳng đẻ - fertility
ở các tộc dân thiểu số lại được chánh
phủ tán thành. Sau đây là bảng dân số
Trung Quốc, theo các ước lượng cận đại đáng tin cậy nhất:
Năm
|
Tổng số ( triệu người )
|
Sau Công Nguyên -A.D. 1
|
57
|
1712
|
120
|
1900
|
440
|
1926
|
485
|
1953
|
593
( kiểm tra của PRC )
|
1975
|
gần
800 ( ước lượng )
|
Giữa 1979
|
gần
960 ( kiểm tra của PRC )
|
2003
|
1290
(1.29 tỉ)
|
Dân Tàu thuộc giống nòi loại Mông Cỗ , một nhóm gồm luôn cả Triều Tiên ( Cao Ly , Đại Hàn ) , Nhật , Mông Cỗ, Eskimos, và vài cư dân gốc địa phương Hoa Kỳ - native Americans . Loại này có đặc điểm là da chỉ hơi vàng vàng, mặt tương đối dẹp , xương gò má cao, mắt màu hạnh nhân thâm sậm, và tóc đen. Trong loại này có rất nhiều biến thiên giữa dân Tàu miền Bắc và dân Tàu miền
Ẩm thực Tàu ( ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật , ở nhà Tây - Pháp
…, theo cách ngôn Việt Nam )đã cao giá
từ thời xa xưa và khác biệt theo vùng
cũng rất rỏ rệt. Tục ngữ Tàu nhấn mạnh đến mùi vị ngọt các món ăn miền Nam, thích muối mặn ở miền Bắc, mùi vị chua hay như
dấm ở miền Đông, và nồng cay ở miền Tây.
Mùi vị cay nồng miềnTây Trung Quốc
đã lan tràn ở New York và nhiều thị trấn khác: thực đơn các tiệm ăn Tứ Xuyên in mực đỏ tên
đĩa thật cay và in mực đen các món không cay , giúp thực khách không
quen ăn cay lựa món ăn khỏi cháy lưỡi. “Đại Khách Sạn” ở Đài Bắc ( Đài Loan ) năm 1959- 60 còn dọn
đủ mỗi bửa ăn thực đơn đặc sắc của 21 -
22 tỉnh Trung Quốc .
Tuy nhiên khác biệt chánh các miền -vùng là biến thiên phát
âm tiếng nói, ngôn ngữ địa phương -
dialects. Chữ viết giống nhau, mọi học giả đều đọc được, nhưng cách phát âm
tiếng nói khác hẳn nhau, đến nổi tiếng nói
hai dân địa phương, chẳng hạn Bắc Bình
và Quảng Châu không hiểu gì nhau hết ! Chính địa lý
đã phần lớn đóng vai trò làm trổi dậy tiếng nói địa phương. Tiếng
nói chánh thức và của triều đình cũ ở
Bắc Bình , trong quá khứ tên là Quan Thoại - Mandarin , nay là quốc ngữ - national language, đã được
sử dụng suốt khắp đồng bằng lớn miền
Bắc, nơi giao thông tương đối có phần tiện lợi hơn. Quan Thoại cũng được sử dụng ở Tây Nam . Nhưng vì địa thế núi non hiểm trở miền Nam Trung Quốc
đã sinh ra nhiều tiếng nói địa
phương. Lưu thông xuống hạ nguồn ra biển,
cũng dễ dàng hơn là qua các dãy núi cao
sừng sửng, đến các làng mạc lạ lùng thung
lũng kế tiếp, chỉ cách nhau vài dặm Anh. Làm nẩy sinh nhiều ngôn ngữ khác nhau theo những hướng ngôn ngữ học khác biệt
và theo những tỉ xuất biến đổi
tại các cộng đồng cô lập. Riêng
tỉnh Phúc Kiến - Fujian ( Fukien ) đã
đếm được 108 ngôn ngữ địa phương. Giáo dục cận đại lan tràn ở PRC và ở Đài Loan
đã đưa tới việc sử dụng gần như phổ cập, tiếng nói ngôn ngữ quốc gia- quốc ngữ ,
trên đa số dân chúng Tàu ở cả hai khu vực. Việc này, may mắn thay, có thể bảo đảm một di
sản chung cho mọi dân Tàu trong tương lai . Đính kèm bản đồ Trung Quốc năm 2005, trước khi Trung Quốc ghi hình lưỡi bò ở Biễn
Đông, chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam.
Sau đây là tên các tỉnh
và các đô thị Trung Quốc( theo Pinyin,
Wade- Giles và Hán Việt ), gần như từ Bắc xuống Nam có đề cập ở sách Morton và Lewis :
Tỉnh
|
Đô thị
|
||||
Pinyin
|
Wade- Giles
|
Hán
Việt
|
Pinyin
|
Wade-Giles
|
Hán Việt
|
Heilongjiang
|
Heilungchiang
|
Hắc
Long Giang
|
Harbin
|
Harpin
|
Cáp
Nhĩ Tân
|
Jilin
|
Kirin
|
Cát
Lâm
|
Jinlin
|
Kirin
|
Cát
Lâm
|
Liaoning
|
Liaoning
|
Liêu
Ninh
|
Changchun
|
Ch’angch’un
|
Tràng
Xuân
|
Hebei
|
Hopei,
Hopeh
|
Hà
Bắc
|
Shenyang
|
Shenyang
Mukden
|
Thẩm Dương
|
Shandong
|
Shantung
|
Sơn Đông
|
Shanxi
|
Shanxi
|
Sơn
Tây
|
Anshan
|
Anshan
|
An
Sơn
|
Shaanxi
|
Shensi
|
Thiểm
Tây
|
Tangshan
|
T’angshan
|
Đường
Sơn
|
Gansu
|
Kansu
|
Cam
Túc
|
Luda
|
Dalien,Dairen
|
Lữ
Đại,Đại Liên
|
Qinghai
|
Ch’inghai
|
Thanh
Hải
|
Henan
|
Honan
|
Hà
Nam
|
Beijing
|
Peking,
Peiping
|
Bắc
Kinh
|
Anhui
|
Anhwei
|
An
Huy
|
Tiangjin
|
Tientsin
|
Thiên
Tân
|
Jiangsu
|
Kiangsu
|
Giang
Tô
|
Taiyuan
|
T’aiyuan
|
Thái
Nguyên
|
Sichuan
|
Szech’uan
|
Tứ
Xuyên
|
Jinan
|
Tsinan
|
Tế
Nam
|
Hubei
|
Hupei,
Hupeh
|
Hồ
Bắc
|
Qingdao
|
Tsingtao
|
Thanh
Đảo
|
Zhejiang
|
Chekiang
|
Chiết-
Triết Giang
|
Lanzhou
|
Lanchou
|
Lan
Châu
|
Guizhou
|
Kweichou-
chow
|
Qúy
Châu
|
Kaifeng
|
K’ai
feng
|
Khai
Phong
|
Hunan
|
Hunan
|
Hồ
Nam
|
Sian
|
Hsian,Ch’angan
|
Tây
An
|
Jiangxi
|
Kiangsi
|
Giang
Tây
|
Luoyang
|
Loyang
|
Lạc
Dương
|
Fujian
|
Fukien
|
Phúc
Kiến
|
Nanjing
|
Nanking
|
Nam
Kinh
|
Yunnan
|
Yunnan
|
Vân
Nam
|
Shanghai
|
Shanghai
|
Thượng
Hải
|
Guangxi
|
Kwangxi
Zhuang
|
Quảng
Tây-Tráng
|
Hangzhou
|
Hangchow
|
Hàng
Châu
|
nay Guangxi
|
Zuang
zhizhiqu
|
Tự
trị khu
|
Guangdong
|
Kwangtung
|
Quảng
Đông
|
Wu
han
|
Wu
hanHankou
|
Vũ
Hán Hán khẩu
|
Chendu
|
Ch’engtu
|
Thành Đô
|
Chongqing
|
Chungking
|
Trùng Khánh
|
|||
Changsha
|
Ch’angsha
|
Tràng Sa
|
|||
Nanchang
|
Nanch’ang
|
Nam Xương
|
|||
Fuzhou
|
Foochow
|
Phúc Châu
|
|||
Kunming
|
K’unming
|
Côn Minh
|
|||
Xiamen
|
Amoy,
Hsiamen
|
Hạ
Môn
|
|||
Guangzhou
|
Canton
|
Quảng
Châu
|
|||
Xianggang
|
Hongkong
|
Hồng
Kông
|
|||
Aumen
|
Macao
|
Áo
môn
|
II-Ảnh hưởng Tây Phương vào thế kỷ
thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20
Phần lớn lịch sử Trung Quốc chia
ra một cách tự nhiên thành các thời đại triều đình - dynasties . Nhưng
các sử gia cận đại nhìn rỏ hơn vào những thừa tố khác: thay đổi xã hội, các đe dọa ngoại xâm, một
phần khởi xướng qua một triều đình, góp
phần vào sự sụp đổ triều đại và làm ra hình dạng chánh trị của triều đình kế tiếp. Như vậy
đánh dấu phân chia lịch sử ở những
điểm các thừa tố mới, bắt đầu ảnh hưởng đến tình thế các sự cố và nơi
lúc chúng không còn đáng kể nữa. Không một điều nào có cơ may trùng điệp
với khởi sự hay chấm dứt một thời đại
cả. Chẳng hạn, vì sử gia xét thấy một
thay đổi quá quan trọng để xem đó là một buổi giao thời từ chủ nghĩa trung cỗ - medievalism
đến thời cận đại; vụ này xảy ra không
phải ở giữa hai thời đại Đường - Tang và Tống - Song mà vào lúc khởi loạn An Lộc Sơn - An
Lushan, năm 755 sau Công Nguyên, khoảng 150 năm, trước khi nhà Đường chấm
dứt. Tuy nhiên cần thông suốt tên và niên kỷ
của các thời đại, vì chúng đã được dùng làm thành những mốc quy chiếu
cho mọi lịch sử, văn hóa cũng như chánh trị Trung Quốc. Chúng ta thường
biết lịch sử chánh trị các triều vua Trung Quốc, những chỉ biết
lẽ tẽ hơn vài đặc điểm văn hóa Trung
Quốc . Sách kể trên của hai giáo sư Hoa Kỳ về sử Trung Quốc thường dệt chung
văn hóa Trung Quốc vào những triều đại khác nhau, nhưng đôi khi lại tập
trung vào một hay nhiều lảnh vực văn hóa. Tỉ như nói về Thi ( Thơ ) thời nhà Đường, Phật giáo vào thời Lục Quốc- Six Dynasties , Kỷ
thuật vào thời nhà Tống, Truyện -
novel vào thời nhà Thanh, v.v… và
một giải thích sâu đậm , tóm tắt
trong vài trang tinh thần hội họa
phong cảnh - landscape Trung Quốc .
- Dân Tàu bước vào thời
cận đại : thời Ngũ Đại ( Quí ) : Five dynasties 907
-960 ở miền Bắc Trung Quốc là Hậu
Lương, Hậu Đường,Hậu Hán , Hậu Tấn, Hậu Chu và thời Thập Quốc- Ten kingdoms
907- 970 ở miền Nam Trung Quốc là
Ngô, Tiền Thục (Shu ), Ngô, Việt( Yue ), Sở , Mân , Nam Hán, Nam Binh,
Hậu Thục, Nam Đường, Bắc Hán; nhà
Tống- Song dynasty 960 -1126; nhà Kim - Jin dynasty ( Jurchen ) 1126- 1234 ở miền Bắc và nhà Nam Tống - Southern Song dynasty 1127- 1279 ở miền Nam.
Vào những giai
đọan cuối cùng ngoại quốc uy hiếp Trung Quốc, nhà Thanh bị một cuộc rối loạn to lớn đe dọa: đó là Loạn
Thái Bình Thiên Quốc - Taiping Rebellion, xảy ra
từ năm 1850 đến năm 1864. Nội loạn này có thể xem là một triệu chứng và nguyên nhân trào Thanh suy tàn. Nông dân
bất mãn trong quá khứ Trung Quốc thường tụ hợp và khuấy động, dưới sự che chở tôn
giáo. Tuyệt vọng tìm lối thoát ở những hy vọng
cứu tinh dân tộc, và các nghi thức tôn giáo hiến dâng điểm tập hợp cho những ai bất mãn ở một quốc gia nguyên khối, không cho phép tổ chức bất cứ một chánh trị nào khác. Tỉ như “giặc Khăn vàng - Yellow Turbans“
thời nhà Hán và Bạch Liên - White
Lotus từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ
thứ 19 của những hội kín chống triều
đình dưới sự che chở của Lão- Đạo
giáo - Daoist và Phật Giáo - Buddhist. Thái Bình Thiên Quốc- Taiping Tianguo khác biệt, vì phong trào bắt nguồn từ các
ý nghĩ Thiên Chúa giáo - Christian , tuy các ý nghĩ này chỉ được chấp thuận một phần nào thôi. Tên Thiên Quốc - Heavenly Kingdom
phản ảnh Thánh kinh Tân Ước - New Testament, dù rằng Cựu Ước- Old Testament trên thực tế chủ yếu ở cơ cấu thành quả. Thái
Bình - Great Peace là một ý niệm hảo
huyền cho một thời gian công bằng và thuần khiết, đã có sẳn từ các thời Hán ( Giặc Huỳnh Cân thời Đông Hán
tự xưng là học đạo Thái Bình, theo Trung
Quốc Sử Cương , xuất bản ở Huế và ở Sài Gòn năm 1958) và thời Đường
rồi.
Thiết lập phong trào là một học giả bất đắc chí Hồng Tú Toàn - Hong XiuQuan ( 1814-
1864 ) quê quán nông thôn vùng Hakka - Hẹ ( ?), Hải Nam , tỉnh Quảng Đông. Năm
1843 sau khi thi hỏng lần thứ tư,
Hồng giải thích những mơ tưởng
của mình theo những nguyên tắc Thiên Chúa Giáo. Ông mơ tưởng là em Chúa Giê Su, để cứu vớt dân Tàu
khỏi cơn hiểm nghèo Qủi Sứ làm ra. Năm 1850, Hồng Tú Toàn cùng một số
bạn đồng học , đồng hương như Dương tú Thanh - Yang Xin Qing , Đông Vương sau này … gặp lúc hai tỉnh Quảng
Đông và Quảng Tây bị đói kém , thừa dịp dấy binh ( có chừng 30 000 người )
ở Kim Điền , tỉnh Quảng Tây , dùng khẩu
hiệu phản Thanh, diệt tham ô tàn bạo , khôi phục lại nhà Minh. Quân lính
đều để tóc dài, tức chống lại Mãn Thanh; nhờ vậy mà thanh thế rất thịnh. Phong
trào còn qui định ruộng đất,vàng bạc là của chung, chánh quyền phân phát, dân cùng nhau cày cấy, cùng ăn cùng mặc, có tiền thì cùng tiêu, người nào trữ 10 lạng
bạc hoặc một lạng vàng thì bị trừng phạt. Đúng là chế độ cộng sản, lần đầu tiên
Hồng Tú Toàn đem áp dụng ở Trung Quốc,
nhưng chưa bao giờ thực hành được
trọn vẹn ( chiếu theo Sử Trung Quốc
Nguyễn Hiến Lê - 1997 ). Ngoài ra, chủ trương
Thái Bình Thiên Quốc còn nghiêm cấm các thói xấu như thói đàn bà bó chân, thói hút thuốc phiện,
uống rượu, đánh bạc, mua bán nô tì, nuôi
nàng hầu; nam nữ bình quyền, cho đàn bà cũng thi cử như đàn ông, đàn bà cũng
lấy một người đổ trạng nguyên v.v…
Nhóm cuối cùng đáng lưu ý
về tương tác giữa Trung Quốc và Tây Phương là các nhà thực vật học -
botanists. Nhà thu thập Anh đầu tiên
là một bác sĩ mỗ xẽ, James
Cuningham, sống ở Trung Quốc từ năm 1698
đến năm 1708. Cây cỏ Trung Quốc , song
song cùng các đồ vật dụng Tàu
khác, trở thành thời trang. Nhà thiên nhiên học Huân tước Sir Joseph
Bank ( 1743 - 1820 ) đem về vườn ông ở
Anh hàng tháng, từ Trung Quốc các hoa hồng - rose, tổ tiên của mọi loại trà
hồng - tea rose cận đại, mẩu đơn cây mộc - tree peony, và cúc. (Cúc Tàu được Hòa Lan đem về nước đầu
tiên, nhưng các dòng cúc này đều chết trọi ). Sau Chiến tranh Nha phiến đầu tiên, nhà thực vật
học Tô Cách Lan Robert Fortune được gửi sang Trung Quốc với mục đích thực
vật học và đem về Anh các loài hoa
hoa xuân - anemones, hoa chuông -
forsythias, đổ quyên - rhododendrons , thông lọng - umbrella pines,
và nhiều loài cây khác, hoa ông lảo -
clematis , cúc đồng tiền - asters,
giả đổ quyên - azaleas. Hoa đậu tía Tàu - Chinese wisteria
trồng ở Chiswick năm 1818, nay còn nở rộ , sau hơn một thế kỷ. Đầu thế kỷ thứ
20, một trong những nhà thám hiểm lớn của thực vật học thế giới là E . H . Wilson , làm một công trình nghiên cứu toàn diện vương quốc thực vật miền Tây Trung
Quốc. Lối đi không phải một chiều. Vì rằng các nhà thực vật học Tây phương không phải chỉ đem cây cỏ ra khỏi Trung Quốc, mà còn đem
hiểu biết huấn luyện một thế hệ học giả thực vật học Trung Quốc, đủ khả năng xây đắp tươi mới một truyền thống ghi chép , minh họa, khảo
nghiệm quá khứ Trung Quốc .
Thủ lảnh các lực lượng phản động là
Từ Hy Thái hậu- Cixi empress dowager ( 1835- 1908 ). Từ Hy nguyên
chỉ là thứ phi, vào cung năm 16 tuổi, nhưng chiếm dần quyền bính, vì là mẹ đẻ
của vua Đồng Trị - Tong Zhi, khi Hàm Phong chết. Từ Hy là
một nhà chính trị cơ mưu , nhiều bản lảnh, thông
minh, nhưng kiêu xa, dâm dật, không điều
gì là không dám làm - vô sở bất vi để đạt mục đích, tính tình thất thường,
lúc rộng lượng, lúc hiền hậu, lúc tàn nhẫn vô cùng. Bà sủng ái hai Thái giám. Hai ông này lợi
dùng danh nghĩa bà mua quan bán tước làm chánh trị Thanh đình thêm hủ bại. Tuy
Từ Hy ít hiểu tính chất ảnh hưởng Tây
phương ở Trung Quốc, nhưng ý thức chánh trị giúp bà thấy rỏ giá trị của Cung Thân Vương, cố gắng
điều hướng khôn ngoan thực thi các điều
ước ngoại quốc và của Lý Hồng Chương, cố tâm chấp nhận nhiều khía cạnh của kỷ
thuật Tây phương.
Từ 1921
đến năm 1925 , có đến cả trăm hội Tân
Văn Học thành lập. Không khí thật tưng bừng.
Họ cổ xúy một thứ văn học mới để truyền bá
thực hiện chủ trương dân chủ mới. Họ mạt sát Khổng học, đả đảo đại gia đình, đề cao cá
nhân, nhất là giải phóng phụ nữ , mạnh hơn
các nhà văn Việt Nam
nữa vào các năm từ 1925 đến 1938. Nổi tiếng nhất, có một bút pháp sắc sảo,
cay độc nhất là Lỗ Tấn ( tên khác là Chu Thụ Nhân ) - Lu Xun, sanh năm 1881ở Chiết ( Triết) Giang, có thời
gian qua Nhật học, tác giả những truyện
như Cuồng Nhân Nhất Ký , Khổng Ất Kỷ, A Q
(Ả Quyên ) Chính Truyện… Trong truyện cuối này, đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng, Lỗ châm biếm xã hội nông thôn Tàu
cuối đời Thanh và đầu thời cách
mạng Tân Hợi. Cách mạng văn hóa - văn học tưởng cũng đã nồng cay lắm rồi. Nhưng
sau khi đảng Cọng Sản Trung Quốc thành lập ngày 30 tháng 6 năm 1921 ở Thượng
Hải, một số người cho rằng nó còn nhạt nhẻo lắm, chê Hồ Thích quá ôn hòa, cần thay luôn nó nữa. Kiện tướng trong nhóm
là Quách Mạt Nhược - Guo Moruo ,
sinh năm 1892 ở Tứ Xuyên, trong một gia đình địa chủ lớn, viết rất nhiều, rất
mau về đủ loại, lời văn không chuốt bằng
Lỗ Tấn, nhưng rất truyền cảm, hùng hồn, cuồng nhiệt .
Đây là một cuộc vừa chạy vừa chiến đấu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Quốc , có lẽ trong cả lịch sử nhân loại nữa, làm cho Tây phương phải thán phục. Từ tháng 10 năm 1934, khi đạo quân Mao bỏ Giang Tây đến tháng 10 năm 1935 mới tới Thiểm Tây, mất một năm vượt được 6000 dặm Anh ( có sách nói 10 000 km , sách khác nói 12 000 km ), băng qua 24 sông lớn, 18 ngọn núi, 7 ngọn luôn luôn phủ tuyết, một cánh đồng cỏ hoang 10 ngày không gặp bóng người. Họ đi qua 12 tỉnh và chiếm đóng 62 thị trấn. Khi đi, 100 000 người , khi tới Thiểm Tây chỉ còn 30 000 ( có sách nói 7000 - 8000 ). Mất mát không những vì những trận đánh nhau với quân địa phương và quân KMT, mà còn vì đào ngũ ( cũng có một số nông dân gia nhập đoàn ) hay cố tình để lại phía sau hầu tổ chức cách mạng ở thị trấn hay làng xã dọc đường. Có cả thảy 15 trận đánh quyết liệt và mỗi ngày đều có giao chiến nhỏ . Điều đáng ngạc nhiên là các chiến sĩ và dân chúng phải rải rác, cách nhau, để khỏi bị phi cơ Tưởng bắn, thả bom: thành thử cả đoàn dài tới 100 km , nhưng tiến trung bình 24 dặm Anh ( 38.6 km một ngày). Họ phải bện cỏ làm dép, có khi phải đi chân không , qua đèo qua suối, qua hai con sông Dương Tử và Đại Độ thác chảy rất mạnh họ phải kết bè ( chết đuối rất nhiều). Thoạt tiên mục đích trường hành là thoát hiểm khỏi bị bắt và con đường lựa chọn nhiều quanh co, bước ngoặt bất ngờ . Nhưng tháng giêng năm 1935, quân Mao ngừng lại và dưỡng sức ở Zunyi, tỉnh Quý Châu - Guizhou và Mao triệu tập hội nghị Đảng. Quan niệm táo bạo của Mao « Bắc tiến để đánh Nhật» được đảng chuẩn y. Mao được bầu làm chủ tịch bộ Chánh trị, trở thành lảnh đạo Cọng sản Tàu. Thêm vào giá trị tuyên truyền khắp Trung Quốc của khẩu hiệu kháng Nhật, di chuyễn về phía Bắc còn thêm ưu điểm là nối kết được với Sô Viết Thiểm Tây và đặt Hồng quân Tàu và lảnh đạo đảng ở một vùng Tây Bắc họ có thể tiếp xúc dễ dàng với Nga Sô Viết - USSR. Nhưng đi bộ đến Thiểm Tây thật gian nan vô vàn. Lực lượng Mao xuôi Nam, rồi về Tây ở Vân Nam, rồi chuyễn lên hướng Bắc. Lảnh tụ Trương Quốc Tạo - Zhang Guotao không đồng ý lên Thiểm Tây, đưa lộ quân cọng sản thứ tư đi về Bắc theo một đường khác. Quân Mao vượt qua sông Kim Sa - Gold Sand River ở các núi xa xăm miền Tây tháng 5 năm 1935, mất 8 ngày đêm mới vượt được qua sông, không còn sợ quân Tưởng đuổi theo sát gót nữa. Nhưng trở ngại thiên nhiên lại thêm kinh khủng. Khi đến sông Đuđu, chỉ có một cầu treo mà ván đã bị lấy đi và phía cuối lại có một đồn bót trấn giữ. 12 cảm tử tình nguyện trang bị gươm và lựu đạn, có súng liên thanh bảo trợ, leo dây chuyền khắc phục toán quân giữ đồn, đóng lại ván trên cầu cho quân Mao qua cầu. Đồng cỏ hoang, bùn lầy hôi thối là trở ngại khó khăn nhất . Đồng hay bị mưa , mưa đá, gió thổi ù ù và lạnh ngắt ban đêm. Muốn tránh khỏi bì chìm ngập trong bùn, phải ngũ đứng lưng dựa nhau, từng cặp một. Mất mát lớn lao, nhưng lực lượng Mao tiến tới qua nhiều dãy núi khác và qua hai dòng quân thù, để an toàn gặp hồng quân lộ 15 ngày 20 tháng 10 năm 1935 . Ở đường khác Mao, lộ quân thứ 4 của Trương Quốc Tạo thiệt hại năng nề , nên bị trách phạt vì chiến lược lỗi lầm này. Đảng đưa ra xử năm 1937 và Trương bị đi « nghiên cứu sửa sai » nên ông bỏ đảng theo KMT.
Cấm thành |
II-a ) Các
niên đại lịch sử Trung Quốc được
sách chia ra tóm tắt như sau:
- Nguồn gốc và
thuở ban đầu lịch sử :
Con người và nhân loại
gần như người đã sinh sống lâu năm ở Trung Quốc. Năm 1923
khám phá ở một hang đá vôi gần Bắc Kinh di vật hài cốt của Người Cổ Bắc Kinh Sinanthropus pekinensis , đi thẳng đứng, biết dùng lữa
và bộ nảo bằng 2/3 con người hiện
nay. Đồng thời cũng khám phá thêm vài
dụng cụ đồ đá và di tích động vật như trâu , nai , cừu , heo rừng, và tây
ngu- rhinoceros . Đó đúng vào thời
ký Giữa Pleistocene, cách đây gần 500 000 năm, một thời kỳ nóng nực ,khô , giữa thời đông giá . Năm 1963 lại khám phá thêm ở Lan -Thiên-
Lantian, gần Tây An, tỉnh Thiểm Tây, một họ người - hominid, có lẽ
còn trước người Bắc Kinh chừng 100 000 năm.
Bộ nảo họ này có phần nhỏ hơn ,
nhưng vẫn lớn hơn vượn người - anthropoic apes nhiều lắm. Tên khoa học
là Sinanthropis lantienensis. Con
người khôn ngoan Homo sapiens
thuộc hậu kỳ thời đồ đá cũ - late paleothic xuất hiện ở hang động
trên tại Chu Khẩu Điểm - Zhoukhoudian khoảng 35000 năm TCN , tương đương với người Cỗ Cro- magnon ( Pháp ). Một số vị trí khác
chứa dụng cụ và xương người thời kỳ đồ
đá cũ , cũng được tìm thấy từ Mãn Châu đến miền Nam Trung Quốc, thời gian kéo
dài xuống tận khoảng 10 000 TCN . Những dụng cụ này cũng được tìm thấy ở phía
Bắc Hồ Baikal - Tây Bá Lợi Á, nên có thể
gọi là văn hóa chung Đồ đá Cũ Trung
Quốc- Tây Bá Lợi Á. Thời kỳ đồ đá mới-neolithic tiếp theo, người Trung
Quốc Thượng Cỗ định cư một nơi, thay vì hái lượm và săn bắn,
nay đã biết nung đồ đất, trau mài đồ đá cho sắc để chặt cây cối ,sinh hoạt nhờ
vào nghề nông và nghề mục súc. Đó là
Trung Quốc thần thoại từ các đời Tam Hoàng ( Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông ) và Ngũ Đế ( Hoàng Đế,
Xuyến Húc , Đế Cốc, Nghiêu - Yao, Thuấn- Shun ) , cho đến đời Hạ -Xia Ân ( Thương- Shang ). Rất khó định
niên đại văn hóa thời Đồ Đá Mới ở miền Bắc Trung Quốc . Đồ gốm -pottery
sớm nhất xác định bằng carbon - 14 ở
Nhật vào khoảng 8000 TCN. So sánh với đồ gốm tìm thấy ở Dương Sào -
Yangshao miền Trung Tây đồng bằng
sông Hoàng Hà và ở Long Sơn - Longshan,
Hà Nam , có lẽ văn hóa Dương Thao và Long Sơn
xuất hiện sau năm 5000 TCN , lúc
các văn hóa Cự thạch - megalithic ở Âu Châu đã thịnh hành. Mới đây khảo
cổ ở lưu vực Tarim , miền Tây Trung Quốc
khám phá hơn 100 xác ướp - mummified
corpses sống cách đây từ 2000 đến 4000 năm. Tất cạ các
xác ướp đều có đặc điểm giống người Cáp
ca - Caucasian. Sau đó, đa số các học giả Trung Quốc định niên
đại lịch sử Trung Quốc bắt đầu từ
năm 2852 TCN và đều cho rằng Tam Hoàng - Three Sovereing cai trị đầu
tiên Trung Quốc Thượng Cổ, tiếp
theo là Ngũ Đế- Five Rulers .
-Thống nhất và Bành trướng
: nhà Tần- Qin dynasty ; 221-
206 TCN và nhà Hán - Han dynasty: 206
TCN - 221 Sau Công Nguyên- SCN
- Ngoại nhân , các Tướng và
Kẻ kỳ cục ; thời Lục Quốc- Six dynasties period: 222- 589 SCN ở
miền Nam là Ngô - Wu (thời Tam Quốc và Tây Tấn), Đông Tấn - Eastern Jin,
Tiền (hay Lưu) Tống - Liu Song, Nam
Tề -Southern Qi, Lương - Liang và Trần - Chen .
- Văn minh Trung Quốc đua
nở: nhà Tùy - Sui dynasty : 589- 618 và nhà Đường - Tang dynasty 618-907
Tranh của Li Cheng đời Tống Chùa trong Núi |
- Gián đọan Mông Cỗ : nhà
Nguyên - Yuan dynasty 1280- 1368
- Phục Hưng và Cũng cố
nền cai trị Tàu : nhà Minh - Ming dynasty 1368-
1644
- Mãn Châu , đế quốc Tàu đạt đỉnh và suy tàn : nhà
Thanh -Qing dynasty 1644 - 1911 .
II-
b- Đối chiếu với vài mốc lịch sử Việt Nam .
Theo Phan huy Lê , Hà văn Tấn, Hoàng Xuân Chinh - 1989, thì sơ kỳ thời đồ đá cũ, phát hiện từ năm 1960 những di tích như rìu tay bằng đá
ở Núi Đọ ( Thanh Hóa ) từ 30 000 năm trước ; di tích 10 chiếc răng người hóa thạch , khai
quật các năm 1964- 1965 ở Thẩm Khuyên
và Thẩm Hai( tỉnh Lạng Sơn ). Những chiếc răng này có nhiều đặc trưng gần giống người vượn Bắc
Kinh Sinanthropus.
Khai quật các năm 1963 1964, các
nhà khảo Cổ Đông Đức tìm ra 4 chiếc răng
hàm ở Hang Hùm nằm trong vùng ngập nước
đập Thác Bà( huyện Lục Yên - Hòang Liên
Sơn ) , hình dáng rất gần răng người Homo
sapiens, , tuy rằng cùng thời với người cỗ Neanderthal , thuộc niên đại
hậu kỳ Pleistocene. Thời kỳ đồ đá
mới, Việt Nam đã có văn hóa Hòa Bình , văn Hóa Bắc Sơn, văn hóa Bàu Tró ( cách
đây 5000
năm, văn hóa Hạ Long và văn hóa Cù
Lao Rùa, thuộc lưu vực sông Đồng Nai.
Theo Tạ chí Đại Trường ( Dòng Việt số 17- năm 2005 ), ngọai trừ sử gia
Nguyễn Phương, các “ sử gia ” quốc gia
dân tộc Việt Nam như Lý Tế Xuyên , Trần
Thế Pháp… Ngô Sĩ Liên , Phan Thanh Giảng…Ngô Thì Sĩ… ghi chép
lịch sử dân Việt Nam là lịch sử
của đám con cháu Thần Nông, đời Hồng Bàng, có vua Hùng, Lạc hầu, Lạc
tướng chống đối với sức đồng hóa của
Trung Quốc ,một người láng giềng mạnh vừa là thù, vừa là thầy ở phương Bắc.
Là thù của họ nên họ đánh đuổi cho “ sơn hà nam đế cư” . Là học trò nên
chấp thuận quan điểm “trung hoa ” - “trung quốc” đem đặt ở đồng bằng sông Nhĩ
Hà ( sông Hồng ), coi các tập thể chung
quanh là “ phiên ”, là “liêu”… để mở rộng
cương giới, vừa tăng thêm nguồn
sinh lực quốc gia, vừa tránh xa ông thầy khó chịu, cứ chực tròng ách nô lệ lên
trên đầu. Biển phía Đông, núi bên Tây
đóng khuôn Việt Nam con đường
phát triễn về Nam .
Thời đại các vua Hùng là thời đại mà trong đó tổ tiên chúng ta đã
xây dựng được một nền văn minh cao,
trước khi văn hóa Hán và người Hán xâm
nhập. Từ khi khởi đầu thời kỳ này, theo
truyền thuyết cách nay đã 4000 năm . Theo các chứng tích khảo cỗ học, định
niên đại bằng than phóng xạ C14 , nó cũng cách
nay 4000 năm , một trùng hợp kỳ thú ! Cư dân thời đó sống chủ
yếu trồng lúa, giống hột tròn, có thể là
nếp chiếm ưu thế. Ngoài lúa,
còn trồng nhiều loại rau , củ và cây ăn trái. Ban đầu con người làm ruộng bằng cuốc đá. Đến giai
đoạn Đông Sơn, lưỡi cày đúc bằng đồng. Trâu bò đượcc dùng làm sức kéo. Lúa được gặt bằng dao đá hay đồng. Bên cạnh nghề nông , nghề săn bắn và đánh cá vẫn tiếp
tục, nhưng ở địa vị thứ yếu .
Thời đế chế Tần, người Việt cỗ của nước Văn Lang- Âu Lạc đã anh dũng và bền bỉ đấu tranh đánh bại cuộc
xâm lược qui mô lớn của đế chế Tần . Nữa sau thế kỷ 3 TCN , nước Âu Lạc - Vua An Dương ( Vương )
kháng chiến chống quân Tần. Nhưng đến
năm 179 TCN , nước Âu Lạc đã bị Triệu Đà
thôn tính và từ đó , trong hơn nghìn năm, đất nước Văn Lang- Âu Lạc và trong
thời gian đầu, cả nước Chăm cỗ, bị các đế chế Trung Hoa đô hộ, với những mưu đồ
đồng hóa rất thâm độc .
Mùa Xuân năm 40 thời Đông Hán
( 43- 226 ) hai Bà Trưng khởi nghĩa,
đóng đô ở Mê Linh ( huyện Yên Lãng , Hà Nội ) ( 40 -43 ). Bà Triệu khởi nghĩa năm 249,
khi Trung Quốc thuộc Ngô ( 226- 280 ). Lý Bí - Lý Nam Đế khởi nghĩa năm 542 và
nước Vạn Xuân thành lập, kéo dài 58 năm
( 554-603 ) thủ đô là Vạn Xuân ( Hà Nội ), lúc đó Trung Quốc thuộc nhà Lương (
5065- 542 ). Mai Thúc Loan - Mai Hắc
Đế khởi nghĩa năm 772 , và Phùng Hưng khởi nghĩa các năm
766- 791, thời thuộc Đường ( 618-
906 ). Họ Khúc( Khúc Thừa Dụ, Khúc Thừa Hạo ) giành quyền tự chủ các năm
905- 930. Dương Đình Nghệ tiếp
tục sự nghiệp của họ Khúc các năm
931-937, lúc đó ở miền Nam Trung Quốc là thời Nam Hán. Ngô
Quyền và chiến thắng sông Bạch Đằng , đại phá quân Nam Hán năm 938, khởi nguyên thời kỳ Việt Nam độc lập , xây dựng quốc gia phong kiến thống nhất.
Nhà Ngô ( 939- 967 ) đóng đô ở
Cổ Loa ( Đông Anh , Hà Nội ). Nhà Đinh ( 968- 980) đặt quốc hiệu là Đại Cồ
Việt, đóng đô ở Hoa Lư (huyện Hoa Lư , Hà Nam Bình). Lê Hoàn lên ngôi năm 980
và thắng quân nhà Tống xâm lăng lần thứ nhất năm 981 , lập nhà Tiền Lê (
980- 1010). Năm 1010 , Lý Công Uẩn lên ngôi nhà Lý (
1010- 1225), đổi quốc hiệu là Đại Việt,
dời đô về Thăng Long ( Hà Nội ) năm 1010, kháng chiến chống quân xâm lược Tống
lần thứ hai ( 1075- 1077 ). Trước tiên,
tướng Lý Thường Kiệt chủ động đưa quân sang đánh các châu Ung - Khâm - Liêm ( Quảng Đông ,
Quảng Tây ) khi nhà Tống đang chuẩn bị
10 vạn quân tác chiến và 20 vạn quân hổ trợ xâm chiếm Đại Việt. Năm 1077, ở trận Như Nguyệt ( Sông
Cầu, Hà Bắc ), 10 vạn quân ta đánh
tan hai cánh quân 20 vạn quân Tống do
Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy . Nhà Trần ( 1226- 1400 ) ba lần thắng quân
Mông Cổ nhà Nguyên( 1280- 1368 ): năm
1258 , quân Việt chiến thắng ở Đông Bộ Đầu; năm 1285 , sau hội nghị Diên Hồng,
quân Trần Quốc Tuấn - Hưng Đạo Đại Vương thắng giặc ở Tây Kết,
Hàm Tử, Chương Dương; năm 1288, thắng quân Mông Cổ xâm lăng lần thứ ba (
1287- 1288 ) ở sông Bạch Đằng .
Nhà Hồ ( 1400- 1407 ) đổi quốc hiệu là Đại Ngu, kinh đô là Tây Đô (
Thanh Hóa) kháng chiến chống quân xâm
lược Minh hai năm 1406-1407, rồi thuộc nhà Minh 20 năm 1407- 1427. Nhưng có nhiều cuộc khởi nghĩa
chống quân xâm lược Minh xảy ra : Trần Ngỗi
( 1407- 1409 ), Trần Quý Khoáng (
1409- 1413 ), Phạm Ngọc ( 1415- 1420 ), Lê Ngã ( 1419- 1420 ) và Lam Sơn
( 1418- 1427 ) . Sau các chiến thắng Tốt Động, Chúc Động ( 1426 ), Chi Lăng,
Xương Giang ( 1427 ). Lê Lợi có Nguyễn Trải phụ giúp, lên ngôi lập ra nhà Lê (
Hậu Lê ), trước thời Lê - Trịnh ( 1428- 1527) , giữ quốc hiệu là Đại Việt, kinh
đô là Đông Kinh ( Hà Nội ). Trên phương diện văn hóa phải kể đến bộ
Đại Việt sử ký của Ngô Sĩ Liên hoàn tất năm 1479, bộ
luật Hồng Đức biên soạn xong năm
1483… Nhà Mạc kéo dài từ năm 1527
đến năm 1592. Từ năm 1553 đến năm 1592
là Nan Bắc triều va cuộc xung đột Lê -
Mạc. Các năm 1570- 1786 là Đàng Trong -
Đàng Ngoài và cuộc phân tranh Trịnh- Nguyễn.
Các năm 1788- 1789 là kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh
và chiến thắng năm 1789 của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ ở Ngọc Hồi và Đống Đa.
Triều nhà Nguyễn thay thế triều Tây Sơn ( 1802- 1945) chấm dứt với thoái vị của
vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng nhà Nguyễn. ( tuy từ thời vua Tự Đức đất nước mất dần, bị Pháp đô hộ chiếm hầu hết
chủ quyền đến tháng 3 năm 1945 ) .
II- c . Ảnh hưởng Tây phương
ở Trung Quốc ở thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20
Âu Châu và Trung Quốc đã biết hiện diện nhau một cách mù mờ từ nhiều thế
kỷ. Một
loại thể thương mãi mỏng thín nối liền
hai văn minh này dọc theo Con Đường Tơ Lụa xuyên qua Trung Á
từ thời đế quốc La Mã. Marco Polo và các nhà du hành can đảm đã đem về nước tin tức cả hai bên. Giáo sĩ Dòng Tên - Jesuits, Cơ đốc
Giáo từ thế kỷ thứ 17 ở triều đình Bắc Kinh đã mở rộng, sâu
đậm những dòng chảy nhìn nhận và kính nể
nhau. Nhưng mãi đến thế kỷ thứ 19, thể giới Tây phương mới khởi sự cảm
giác mạnh mẽ trên Trung Quốc một cách đáng chú tâm. Ảnh hưởng cùng
một sức lực cho đôi bên ở nhiều phương diện, nhưng cuối cùng ảnh hưởng Tây Phương có tính cách
tàn phá hơn cho Trung Quốc. Đầu thế kỷ thứ 19, các nhà lảnh đạo Trung
Quốc lại không hiểu rỏ mấy ý nghĩa ảnh hưởng Tây Phương, tin rằng các kẻ man
rợ - barbarian Tây Phương sẽ bị chế ngự
và kiểm soát được theo những phương cách
Trung Quốc đã áp dụng thắng lợi từ ngàn xưa. Nhưng các sức lực ảnh hưởng
là chồng chất, tích lũy và khác hẳn về
thể loại cũng như mức độ, so với những tương tác giới hạn xưa cũ. Tình trạng
quan điểm riêng mình của Trung Quốc dần dần rơi tuột khỏi tầm tay dân Tàu.
·
Công ty Anh Đông Ấn Độ
Các quốc gia Âu
Châu và Hoa Kỳ đều liên can đến thương mãi và xâm lăng văn hóa Trung Quốc, nhưng Anh Quốc
làm tiền quân và qui định bước chân. Dụng cụ Anh Quốc rất là đặc biệt, một đế
quốc trong đế quốc: đó là Công ty Anh
Đông Ấn- British East India Company , thành lập theo hiến chương Nữ Hoàng Elisabeth I - Đệ Nhất năm 1600. Ít
ai biết tính chất công ty là gì, vì nó không giống bất kỳ tổ chức nào từ trước
đến giờ, trừ hai công ty đồng thời là
Công ty Hòa Lan Đông Ấn - Dutch East India Company , thành lập năm
1602 và Công Ty Đông Ấn - La Compagnie des Indes
Orientales ( thành lập năm 1664 ).
Danh hiệu nguyên
thủy của Công ty Anh là “Cơ quan Thương
mãi Luân Đôn của Thống Đốc và Thương Gia cho Đông Ấn” , nhưng theo thời gian,
nó trở thành tương tự một chánh phủ đồng thời không kém một công ty buôn bán;
không những đóng tàu chở đầy hàng hóa đi
bán, nhưng cũng vỏ trang đầy sung ống, duy trì một đạo quân có sĩ quan riêng cho công ty hầu bảo vệ quyền lợi công
ty trên biển và trên đất liền, tiếp nhận quyền
thu thuế ở Ấn Độ, và giữ gìn luật pháp cùng trật tự trên đất ngoại quốc nơi nào kiểm soát địa
phương yếu kém. Công ty Anh mau lẹ tự
biến mình thành kẻ xăm lăng và chiếm
giữ nhiều lảnh địa hải ngoại, ký kết
nhiều hiệp ước với các chánh phủ Á Châu, duy trì hải cảng, kênh eo biển và bảo vệ bờ biển, thật sự ảnh hưởng đến hàng triệu người sinh sống nội địa, từ các vị trí thương mãi
công ty không có quyền cai trị và thật ra công ty lúc ban đầu cũng không có ý định cai trị. Vào đầu thế kỷ
thứ 18, Công Ty Anh đã đóng ở cơ xưởng
trên sông Thames những tàu gây ấn tượng
đương thời trọng tải 750- 1250 tấn hay
hơn nữa, lớn , ba cột buồm - threemasts , boong tàu bằng phẳng -
flush deck đi biển xa tốt đẹp và có
ráp 54 đại bác chống trả. Các tàu này đi vòng quanh thế giới trong 2
năm, nhưng bị hư sau 4- 8 chuyến đi
trong 10 năm. Sau năm 1780, nhờ bọc gỗ
bằng đồng , đời sống mỗi chiếc tàu mới
kéo dài được 12- 14 năm. Lợi lộc các chuyến đi vòng quanh thế giới rất
lớn, nên đủ tiền thay thế tàu theo sác xuất này.
Công ty thiết
lập một vị trí thương mãi ở Quảng Châu năm 1699 và bắt đầu hoạt động ở Ninh
Ba ( ? ) - Ningpo và Áo Môn , Quảng Châu.
Quảng Châu đã trở thành trung tâm cất giữ và phân phối hàng hóa chánh
cho thương mãi Anh Quốc về tơ lụa , đồ
sứ - porcelain , đồ sơn - lacquer , quạt , đại hoàng - rhubarb, xạ
hương- musk , “ tutenag “ - một loại hợp kim tương tự kẽm. Nhưng chẳng bao lâu thì trà ( chè )- tea
trở thành món hàng chánh, vì yêu cầu tăng cao ở Anh Quốc. Năm 1803, giá
trị trà xuất khẩu sang Anh vượt quá 14 triệu bảng Anh - sterling. Hệ
thống xuất khẩu Quảng Châu theo đúng ý
tưởng Tàu. Dân Tàu giới hạn thương mãi ở
hải cảng này để kiểm soát. Chỉ có các thương gia “ hong ” được chánh phủ chánh
thức bổ nhiệm và giới hạn vào khoảng một tá hong , mới có quyền
buôn bán với ngoại quốc : mỗi thương gia ngoại
quốc phải được một thành viên của hong
bảo đảm. Mua trà phải trả bằng lạng bạc - silver . Các cân thương
mãi luôn luôn bất lợi phía Anh Quốc ,
cho nên Anh Quốc phải tìm những loại
hàng hóa bán cho Trung Quốc bớt được thất thoát các lạng bạc. Trước tiên bán
cho các hong năm 1800 là bông vải thô - raw cotton từ Bombay ( nay là
Mumbai ), những hàng lẽ chiếc - piece goods từ Madras, hàng len
từ Anh , thiếc - tin từ quận Cornwall. Nhưng lợi nhất là thuốc phiện ( nha phiến, nguồn gốc Ả Rập, người Tàu gọi là cù túc) từ Bengal ,
và loại hàng cao giá và ít tốn chỗ này,
mau lẹ biến thành hàng đứng hạng nhì sau bông vải, bán cho Trung Quốc. Công ty Anh trồng thuốc
phiện ở Ấn Độ , bán đấu giá cho thương gia tư
chở đến Canton
bằng tàu thủy của Công Ty. Bạc thu hồi bán thuốc phiện dùng để Anh nhập khẩu
trà.
Buôn bán thuốc
phiện tăng quá mau lẹ làm chức quyền
Trung Quốc lo ngại: từ cuối thế kỷ thứ 18 đến năm 1838, buôn bán thuốc phiện tăng 40 lần. Năm
1838, Anh đã chở vào Trung Quốc 40 000
thùng nha phiến; năm 1830 đã có 10 triệu người Tàu nghiện thuốc phiện ). Và
đồng thời cũng tăng hối lộ, tham nhũng ở các giới chức quyền, ( tham ô tệ
nhất thời vua Càn Long - Qian Long
là tên vệ úy Hòa Thân được phong làm Lại bộ thượng thư, gần như Tể
tướng, gia sản tịch thu 900 triệu lạng bạc, xây cất dinh thự cao đẹp hơn dinh thự của vua, chứa nhiều bảo
vật … có phần lớn hơn gia sản của “Vua Mặt Trời- Roi Soleil” Pháp Louis XIV, theo Nguyễn Hiến Lê ở sách Sử
Trung Quốc, xuất bản trong nước năm
1997 và tái bản ở Ca Li năm 2003. Buồn thay dinh thự kiểu Hòa Thân lại được một “đại gia ” Việt mô
phỏng làm toàn bằng gỗ qúi ở Nghệ An mấy năm
vừa qua !) và tình trạng tham nhũng này đã đe dọa ổn
định chánh thể Mãn Thanh. Sau năm 1830, vì thấy các lượng - taels
bạc mất ra ngoài quá nhiều, ( năm 1898,
riêng Quảng Châu, số thuốc phiện làm
Trung Quốc thiệt mất 30 triệu lạng bạc )
chánh quyền Bắc Kinh thực thi hành động
mạnh mẽ. Nhà Thanh phái Lâm Khắc Từ-
Lin Zexu, một vị quan nổi tiếng liêm
khiết làm Khâm sai đại thần, kiêm Tiết
Chế Thủy sư ở Quảng Đông để thi hành
việc cấm tuyệt bán thuốc phiện. Lâm (Tàu khác Việt Nam là gọi họ chứ không gọi tên ) tới Quảng Châu, sai tịch thu và hủy
3500 tẩu thuốc phiện và trên 12
000 lạng thuốc phiện. Sau đó ông đem binh vây thương quán Anh, khiến Lảnh sự
Anh phải khuyên các thương nhân nộp toàn thể 20
thùng thuốc phiện, nặng hơn 1 tấn . Lâm tự xem
xét, đốt hết, đổ xuống biển, rồi báo cáo
cho thương nhân các nước biết là nếu về
sau thuyền buôn nào vào bến mà chở thuốc
phiện thì hàng hóa bị sung công, người
bị tội chết. Các nước đều tuân theo, trừ Anh. Anh tháo lui về Áo Môn ( Macao ) và sau đỏ ở đảo Hồng Kông, tiếp tục buôn lậu thuốc phiện dọc theo Trung Quốc
và bảo đảm xuất khẩu trà Trung Quốc qua trung gian các hảng Hoa Kỳ. Đối xử với ngoại quốc của Lâm, tuy nay dưới
mắt Tây Phương đúng lý trên phương diện đạo đức, nhưng vào thế kỷ thứ 19 được xem là ngạo mạn và đưa tới can qua, chiến tranh. Anh phái
sang một lực lượng hải quân và các năm
1840- 1842 chiếm nhiều hải cảng Trung Quốc từ Quảng Châu đến Thượng Hải, và bắt
đầu thương thuyết với triều đình Thanh
tại một điểm gần Thiên Tân. Các cố gắng
của Lâm được xem là thất bại; Lâm bị bải chức một thời gian.
Chiến tranh tục gọi là Chiến tranh Nha Phiến- Opium War
1839- 1942, tuy nha phiến không phải là một vấn đề tranh chấp duy nhất, là
một cuộc chiến Anh khó lòng bào chửa nhất. Ảnh hưởng của Tây
phương vào Trung Quốc ở thế kỷ thứ 19
thấm đậm một thảm kịch Hy Lạp. Đây không đương nhiên là một tranh đấu
trực tiếp của hai cái nhìn đời sống và
xã hội xung khắc nhau, hai bên lướt qua nhau không tiếp xúc nhau như
những tàu thủy chạy trong đêm tối vậy
đó. Anh không màng lưu tâm để hiểu biết
cách suy nghĩ Trung Quốc và Trung Quốc chẳng đặng đừng - cas de force
majeure bắt buộc phải chấp nhận quan
điểm Tây Phương trên thực tế và lẽ dĩ
nhiên tích lũy một óan giận, phẩn nộ đắng cay kéo dài hơn một
thế kỷ đến ngày nay. Mỗi bên đều tự cảm giác là chỉ có
riêng mình tiêu biểu văn
minh và mỗi bên đều dẫn chứng những điểm quyết định: Tây phương xem các luật lệ Trung Quốc là tàn bạo , dã
man - barbarity và Trung Quốc cũng
xem Tây Phương là man di, man rợ, khi quân đội Anh - Pháp đốt phá cướp bóc Viên
Đình ( Đình vua thưởng ngoạn Mùa hè ) -
Summer Palace năm 1860 .
Chiến tranh Anh
Pháp với Trung
Quốc các năm 1856 - 1860, đôi khi
còn được gọi là chiến tranh thuốc phiện
thứ nhì , lấy cớ là Quảng Châu không mở cửa theo đúng các điều ước đã ký
kết. Thật sự Tây Phương muốn bảo đảm lần này là lần cuối cùng đế quốc Tàu phải
thương thuyết với mọi nước ngoại quốc
đúng theo các điều kiện Tây Phương đặt ra. Khi linh mục Chapdelaine, một giáo sĩ Cơ Đốc Pháp bị tra tấn và xử tử, Anh bắn phá và chiếm cứ Quảng Châu năm 1858. Huân tước Anh
Algin và Nam tước Pháp Baron Gros tiến
đánh Thiên Tân và buộc Thanh trào phải đặt các sứ thần ngoại quốc ở Bắc Kình vĩnh viễn ngang hàng nhau. Nhưng một năm sau,
triều đình Mãn Thanh từ chối thừa nhận
Điều Ước Thiên Tân và chận đường không
cho họ vào Bắc Kinh. Hơn nữa 4 chiến
thuyền Anh bị pháo đài Tàu đánh chìm ở gần Thiên Tân, và Anh - Pháp trở lại tấn
công Trung Quốc với một lực lượng mạnh hơn nữa.
Vua Hàm Phong kinh hoảng bỏ cung
điện chạy trốn, gọi là đi “ tuần du” ở Nhiệt
Hà - Rehe (Jehol ) và em vua là Cung
Thân Vương - Prince Gong phải ký kết Đìều Ước Bắc Kinh năm 1960, chịu bồi khoản nặng nề (
800 000 lạng bạc cho mỗi nước Anh - Pháp
), còn nặng hơn cả Điều Ước Thiên Tân. Trung Quốc phải mở thêm 10 hải cảng khác: Ngưu Trang , Đăng Châu , Đài Loan , Viên Thủy
, Triều Châu, Quỳnh Châu …
Nổi loạn
Loạn Thái Bình Thiên Quốc |
Hồng Tú Toàn |
Năm 1851, Hồng Tú Toàn tự xưng là Thiên Vương- Heavenly King , có 5 vương khác phụ tá. Năm 1852 , quân Thái Bình Thiên Quốc tiến đến phía Bắc
Vũ Hán, vòng xuống sông Dương Tử và năm
sau chiếm Nam Kinh. Viễn Chinh Thái Bình Thiên Quốc lên phía bắc Nam Kinh, bị
đánh bại ở Sơn Đông năm 1855. Nhờ ba chỉ huy nhà Thanh tài giỏi là Tăng
Quốc Phiên - Zeng Guofan( 1811- 1872), Tả Tông Đường- Zuo Zong Tang( 1812- 1885 ) và Lý Hồng Chương - Li HongZhang
( 1823- 1901 ). Tăng Quốc Phiên tái chiếm Vũ Xương - Wuchang năm 1855 , và đưa một binh thuyền xuôi sông
Dương Tử, đe dọa Nam Kinh. Cả ba
nhà chỉ huy quân Thanh hiệp sức
tái chiếm một cách có hệ
thống vùng Trung tâm Trung Quốc, do quân nổi loạn giữ chặc. Cả ba đều sử dụng
phối hợp súng ống , tàu chiến và luyện
quân theo kiểu Tây Phương. Thật ra còn nhiều yếu tố khác đánh bại Thái Bình Thiên Quốc. Dân
chúng ghét Mãn Thanh , mới đầu do dự
giữa Tăng và Thái Bình. Nhưng dần dần
ngã theo Tăng vì những lầm lỗi quá nặng, thất nhân tâm của Thái
Bình ( cấm đạo Khổng, đạo Phật, cấm thờ
phựợng tổ tiên, phá hủy chùa chiền …) . Thái Bình không đủ kiến thức để cai trị
những vùng họ chiếm. Giới trung nông lo
ngại vì tái phân phối cưỡng bức ruộng
đất. Quân đội Thái Bình thiếu lưu động vì không có kỵ binh - cavalry.
Các cường quốc Tây Phương đến lúc này,
thấy Thái Bình đã suy nhược, có thể bất lợi cho việc làm ăn của họ nên ra mặt đứng về phía Thanh đình. Năm 1862, khi thấy
Thượng Hải bị đe dọa, một tên giang hồ
Mỹ là Tewsend Ward , nguyên quán
ở Salem - Massachusetts, được sự ủng hộ
tài chánh của thương nhân Thượng Hải, lập ra một đạo quân lẫn lộn binh lính Tây
Phương và binh lính Tàu; khi chết tuyễn thiếu
tá Anh Charles Goerge Gordon ( sau đó là Toàn quyền xứ Sudan, thuộc Anh ) thay thế, dẹp được Thái
Bình chung quanh Thượng Hải, sau 3 năm thắng lợ, lấy lại được 50 thị trấn cho
Mãn Thanh. Quân Ward-Gordon nổi danh là
“ Thừa thắng Quân - Ever Victorious
Army” . Có lẽ nguyên nhân lớn nhất
làm suy tàn Thái Bình là nội bộ các vương Thái Bình lục đục nhau. Tháng
7 năm 1864, em trẻ tuổi của Tăng Quốc Phiên chiếm lại Nam kinh. Hồng
Tú Toàn uống thuốc độc tự tử, chấm dứt Thái Bình Thiên Quốc. Các nhà lảnh tụ
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc PRC hiện nay , rất tán thành nội loạn Thái Bình
Thiên Quốc, vì thật sự có rất nhiều tương tự
giữa phong trào này và phong trào Cọng Sản cận đại: cùng mục đích một
trật tự xã hội lý tưởng, một lực lượng uy vũ
bính lính nông dân, một lập trường tư tưởng khe khắc chống những giá trị
Khổng giáo, một thán phục về kỷ luật và một cảm nghĩ quyết tâm và vận mệnh cao
siêu xuống tận hàng ngũ binh lính, ít khi thấy ở Trung Quốc truyền thống. Tuy
nhiên Vương Nghi, tác giả Trung Quốc Cận
Đại Sử lại cho rằng chưa đủ nghiên
cứu để đưa ra một phán đoán khách quan. Dù sao ảnh hưởng của Thái Bình cũng rất
lớn. Chính cuộc chiến của Hồng Tú Toàn là bước đầu đưa tới cuộc Cách Mạng Tân Hợi ( 1911) nữa thế kỷ sau, cho dân tộc
Tàu một ý niệm về nam nữ bình quyền, về chế độ cộng sản trước khi có cuộc cách mạng 1917 của Nga. Từ Tần Thủy Hoàng, bây giờ lại mới có một
cuộc Cách Mạng thật sự để thay đổi hẳn một chế độ, chứ không phải chỉ để thay đổi một triều đại ( cũng chiếu
theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, 1997
) .
Cùng lúc với loạn Thái Bình, nhiều nổi loạn khác nổi lên càng thêm đe dọa trào Thanh.
Đảng Niệm-Nian ( 1853- 1868 ), một hội kín tổ chức như Bạch Liên Giáo, ở
phía Tây kinh đào Vận Hà, từ sông Hoàng Hà tới sông Hoài, tại bốn tỉnh Giang
Tây, An Huy, Hà Nam và Sơn Đông : liên kết với Thái Bình, cũng để tóc dài, tung
hoành một thời nhưng không chiếm được một thị trấn nào quan trọng, không lập
được một chánh phủ. Sau bị Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương dẹp năm 1868. Nạn Hồi
giáo - Muslim ở Tây Bắc ( Thiểm Tây và Cam Túc ) nổi lên từ năm 1868 đến năm
1783, và Hồi giáo cũng đã nổi lên ở Tây Nam Vân Nam từ năm 1856 đến năm
1973. Ở Tây Bắc, Thanh đình dẹp được
loạn năm 1873, thành lập tỉnh Tân Cương - Sin Kiang . Ở Quí châu,
tộc dân Miêu ( Mèo ) lại nổi loạn như thời Càn Long, 18 năm mới dẹp được, nhưng
dẹp xong thì Quí Châu bị tàn phá, gần như thành bình địa.Theo Vương Nghi ở sách
kể trên, nếu kể luôn cả loạn Niệm, Hồi, Miêu, thổ phỉ dư đảng Thái Bình cướp
bóc, chết vì nạn đói , chết vì bệnh dịch, Trung Quốc đã mất đi lúc này ít nhất là 100 triệu người. Còn hơn cả nạn
hồng thủy ; trong lịch sử Trung Quốc chưa thời nào như vậy .
Thời ban đầu cận đại hóa Trung Quốc
Trước chiến tranh nha phiến, Mãn
Thanh tự hào là Thiên Triều Đại Quốc, coi các nước Tây Phương là ngoại di,
không thèm để ý tới. Nhưng khi liên quân Anh Pháp tới Bắc Kinh buộc phải ký
điều ước nhục nhã với họ, Thanh Đình mới nhận là bọn ngoại di đó mạnh hơn mình
nhiều và muốn chống cự với họ thì phải
có tàu bè như họ, súng ống như họ, quân đội phải rèn luyện theo lối họ. Khâm
sai Lâm khắc Từ, các nhà chỉ huy binh Thanh
tài giỏi như Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương và vài người Mãn như Cung Thân Vương, Quế
Lương nghĩ đến “ Tự Cường - Self
Strengthening “, công nhận giá trị của kỷ thuật Tây phương, đồng thời cũng
vẫn còn tin tưởng vào tính cách ưu việt
của văn hóa Trung Quốc và đời sống theo Khổng giáo. Vào thế kỷ thứ 19, các nhà
lảnh đạo Trung Quốc không nhắm mục đích cận đại hóa toàn diện - radical modernization hay Tây phương hóa Westernisation hoàn
toàn ở mọi lảnh vực. Suốt 40 năm cuối của thế kỷ
thứ 19, triều nhà Thanh đã thấy tiến bộ
to lớn ở nhiều lảnh vực. Đáng kể là các công trình tiền phong theo kỷ thuật Tây
phương, phần lớn liên hệ với sự nghiệp của Lý Hồng Chương.
Trước hết Lý và người đở đầu Lý là Tăng Quốc Phiên, mua
súng ống trang bị cho quân Thanh và lập xưởng chế tạo võ khí ở Xuzhou- Từ
châu, Nam Kinh và vài nơi khác. Những cơ xưởng nhỏ bé này sẽ được thay thế bằng
cơ xưởng lớn ở Giang Nam , gần Thượng Hải năm 1865. Cơ
xưởng Giang Nam ,
một trong những cơ xưởng lớn nhất thế giới, không những sản xuất súng ống, đạn
dược, mà còn luôn cả máy móc khí cụ cho những tàu chạy hơi nước đầu tiên của
Trung Quốc. Tả Tông Đường lập một cơ xưởng khác và một căn cứ hải quân ở Phúc
Châu, với sự cộng tác của Pháp. Tiếp theo, Lý di chuyễn đến lảnh vực công nghệ dân sự và thương mãi. Lập ra Công ty Tàu Chạy Hơi Nước
Con buôn Trung Quốc- China
Merchants’ Steam Navigation Company, năm 1872, cạnh tranh không thua kém các công ty Anh
Jardine, Matheson, và Butterfield và Swire trên sông , và dịch vụ dọc bờ biển .
Hoạt động công ty này do “chánh phủ giám sát và thương gia thực hiện ”. Lý Hồng Chương được bổ nhiệm
làm Tổng Đốc ở thủ phủ tỉnh là Thiên Tân từ
năm 1870 đến năm 1895, giúp ông đủ thì giờ phát triễn ổn định nhiều doanh nghiệp công nghệ ở miền Bắc. Một mỏ
than máy
móc cận đại được khai thác ở Khải
Bình sản xuất than cho tàu thủy chạy và
một đường xe lữa để phân phối than đá và
hàng hóa đến Thiên Tân, Sơn Hải Quan
- Shanhaiguan gần biên giới Mãn Châu và Bắc Kinh. Phát triễn xe lữa chậm chạp , nhưng các đường điện tín ( báo ) - telegraph do Lý đề xướng và các chức quyền tỉnh nới
rộng, cung cấp 34 000 dặm Anh ( trên 164
300 km ) đường liên lạc giữa nhiều thành phố lớn vào năm 1900. Các nhà máy dệt bông vải tiến hành chậm
hơn và năm 1894 đã xây xong 5 nhà
máy dệt bông vải. Các nối kết điện tín
thoạt tiên rắc rối và tốn kém. Nông dân nghĩ rằng chúng làm hổn loạn “ Linh hồn Gió và Nước “ , và thật sự
ký ức thời niên thiếu làm hiện lên kỳ bí không tên, liên quan đến đường
dây điện tín kêu vo vo, cho nên họ đốn bỏ trụ cột điện tín. Giá trị bán lại các dây đồng có lẽ còn cũng cố thêm nhiệt tình thuần khiết
hóa này. Chánh phủ đã phải phái một số
binh lính bảo vệ các đường điện tín.
Điều đáng lưu ý là ảnh hưởng Tây
phương này rất ít thấm vào dân Tàu trung bình ở bất cứ làng xã
hay thị trấn nào ở bên trong nội địa Tàu, suốt
phần lớn thế kỷ thứ 19. Đời sống
theo thể thức truyền thống, vẫn còn là tiêu chuẩn cho dân quê, kẻ buôn bán và
ngay cả chức quyền nữa. Chỉ sau 1865,
ảnh hưởng Tây phương mới bắt đầu nhận
thấy được rộng rải, nhờ sự lan tràn các hàng hóa Tây phương, du hành, và cư trú
các giảo sĩ và nhiều người khác sâu vào nội địa, cũng như các di động dè
dặt tiến về cận đại hóa đất nước của một
vài chức quyền như Lý Hồng Chương. Một trong những nhóm hay cá nhân Tây
phương ảnh hưởng mạnh đến dân Tàu là tổ
chức hửu hiệu Sở Hải Quan ( Quan Thuế Biển )- Maritime Customs Services và hai cá nhân bổ nhiệm làm Tổng Thanh
Tra là H.N. Lay đã huấn luyện nhân viên
Tàu cho cơ quan Hải Quan mới thành lập , Robert Hart và bộ tham mưu của ông
giúp việc cho chánh phủ Tàu một cách
siêng năng, vô tư, ngay thẳng. Sở Hải Quan không chỉ thâu thuế quan mà còn đảm
nhiệm nhiều sứ mệnh khác thường liên
quan đến dịch vụ bảo vệ duyên hải - coast guards , vét - đào kinh, hướng
dẫn giao thông đường sông, chăm lo hải
đăng, phao, bến tàu, các tiện nghi hải cảng, quản trị tài chánh có phần phức
tạp. Khi phải bồi thường lớn sau cuộc Nổi
loạn Võ Sĩ ( Nghĩa hòa Đoàn) - Boxer Rebellion, lợi tức thuế hải quan không đủ, thuế muối và các thuế khác trong nước phải thêm vào để trang trải trả cho đủ mọi
điểm thỏa hiệp, đều bị các nhà ái quốc Trung Quốc oán giận.
Sử dụng mạng lưới hải quan và thêm vào
đó những hệ thống tư nhân, năm 1896, Hart
thiết lập một sở bưu điện -
postal service , biến thành bưu điện độc lập năm 1911. Triều đình Thanh hoàn toàn tin tưởng huân tước
( chức mới được phong) Sir Robert Hart
và thường thỉnh ý ông về
nhiều vấn đề liên hệ đến ngoại giao .
Nhóm thứ hai giúp dân Tàu thân
thuộc với phương thức Tây Phương là các thương gia - traders . Các hảng
Anh, một số đã kể trên, hiện đang còn hoạt động ở Hồng Kông là Jardine,
Mathelson và Butterfield and Swire, Dent and Company, Tổ hợp Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải thành lập
năm 1865. Hảng Mỹ nổi tiếng nhất là Russell and Company trở thành Công Ty Con
Buôn Tàu chạy tàu thủy hơi nước đã kể trên,
làm dịch vụ sông thành công mỹ mãn
dọc sông Dương Tử, từ Thượng Hải đến Hán Khẩu. Theo quan điểm Tàu, nhân vật then chốt ở mỗi doanh nghiệp này không phải là giám đốc
người ngoại quốc mà là nhà tư sản mại bản - comprador Tàu . Từ ngữ comprador
nguồn gốc tiếng Bồ Đào Nha. Nhà mại bản
này thuê và sa thải nhân viên Tàu, hành động như thể là người bảo lảnh cho họ,
từ các thư ký có học vấn
và thông dịch viên ở sở làm, cho
đến lính bảo vệ và cu li các kho hàng. Khôn khéo sẳn có của doanh vụ Tàu, cọng
thêm sự hiện diện các comprador, các thư
ký của họ, khiến các công ty Tây phương nhận thức là khỏi cần
và không có lợi nhiều làm chi
nhánh trong nội địa Tàu. Cơ sở trung ương của họ ở các thành phố hải cảng dư
sức hoạt động, nhờ một mạng lưới phân
phối mau chóng gồm toàn là người Tàu.
Tác nhân thứ ba lan rộng nhất là
các nhà thờ và các giáo sĩ Thiên
chúa Giáo. Cơ đốc giáo La Mã - Roman
Catholics khỏi sự thế kỷ thứ 19 với
một số người theo đạo Cơ đốc tương đối lớn, có lẽ khoảng 150 - 200 000 tín đồ, sót lại từ các thời truyền
giáo xưa cũ. Tin Lành- Protestants khởi sự truyền đạo khi giáo sĩ Robert
Morrison đến Canton
năm 1807, do hội Truyền Giáo Luân Đôn phái tới.
Ông duy trì vị trí mình bằng cách
làm thông dịch viên cho Công Ty Anh Đông
Ấn và sản xuất văn chương Thiên chúa giáo. Ông làm ra tự
điển Tàu - Anh lần đầu tiên và dịch Kinh
Thánh ra tiếng Tàu. Một đồng nghiệp được
gửi đến giúp ông, nhưng bị cấm
không được ở lại nước Tàu và phải rút
lui về hải cảng Anh Malacca, để hoạt động chung với các người Hoa Kiều. Nhóm Tin Lành Hoa Kỳ đầu
tiên là nhóm Giáo đoàn- Congregationalist, nhưng rồi rất nhiều nhà thờ
Tin Lành khác cũng có mặt từ Anh, Mỹ đến lục địa Âu Châu. Các hội giáo Tin Lành
ở Trung Quốc đếm đến 200 hội năm 1864, tăng lên 1300 năm 1890. Dân Tàu rửa tội
theo Tin Lành chỉ chừng 55 000 năm 1893, nhưng năm 1914 đã trên 250 000. Dân
Tàu rửa tội Cơ đốc La Mã cũng tăng thêm
trong một thế kỷ từ 1812 đến 1912, đạt 1.4 triệu tín đồ năm 1912. Con số tín đồ
chỉ kể ra một phần câu chuyện. Vào thập
niên 1930, toàn thể tín đồ Tàu theo Thiên chúa giáo chỉ khoảng 1% tổng số dân
Tàu lúc đó; thế nhưng ảnh hưởng của Thiên chúa giáo ở các nhà lảnh đạo Trung
Quốc lớn hơn nhiều. Danh sách nhân vật lỗi lạc Tàu ở một lai lịch tương đương Who’s Who, kể ra tỉ lệ 16 % theo đức tin Thiên chúa giáo.
Toàn thể đề tài công cuộc truyền
giáo và tuyên truyền tôn giáo đã trở
thành tranh luận mạnh mẽ, vì chuyễn
hướng quan trọng dư luận thế giới trong
50 năm vừa qua, và sự kính nể lớn hơn về
di sản quốc gia. Vài thừa tố đặc trưng
nổi bật được nêu lại ở sách này. Trước
năm 1900, đa số các nhà thờ Tin Lành hoạt động ngay hay ở gần các thành phố hải
cảng, trong khi các nhà thờ Cơ đốc giáo và nhóm Tin lành Phúc âm -
Evangelist Protestant do Hudson Taylor thiết lập, đã đi sâu vào nội
địa Tàu. Nơi đó, các hiểm nguy chiến
tranh, nổi loạn và đói kém, lớn hơn ở thành phố bờ biển nhiều. Cho nên các giáo
sĩ đôi khi được các tàu chiến và các
toán quân đội ngoại quốc cứu nguy. Pháp đặc biệt hổ trợ
giáo hội Cơ Đốc ở Trung Quốc. Ngay cả Hudson Taylor, bị dân chúng đổ xô
bao vây gần Dương Châu, được 4 tàu chiến cứu thóat, do
lảnh sự Anh ở Thượng Hải Rutherford
Alcock phái đến để nhấn mạnh vụ sa thải
viên chức địa phương Tàu vì cẩu thả. Dù lọng che chở đặc quyền ngoại giao - extraterritorial
privileges mất lòng dân, đôi khi
cũng được sử dụng bao che, không những cho các giáo sĩ ngoại quốc mà còn cả các
dân Tàu mới quy đạo nữa. Thật
cũng khó khăn cho các giáo sĩ ngoại quốc
mới chân ướt chân ráo đến Trung Quốc, phân biệt rỏ ai là quy đạo thật
lòng và ai là các “ Con chiên xin cơm - rice Christians ” đến nhà thờ hầu trốn thóat ra ngoài, khi
tranh chấp với chức quyền địa phương. Tuy rằng điều này là biệt lệ hơn là thể
lệ. Quyền làm chủ đất đai và các xây cất ở sâu nội địa Tàu, nới rộng cho
người ngoại quốc theo điều ước Thiên Tân năm
1858, gây ra vô vàn khó khăn. Bồi
thường Trung Quốc phải trả cho các xung đột liên quan đến các giáo hội và dân chúng Tàu địa phương từ năm 1862
đến năm 1869 lên đến 400 000 lượng bạc. Dầu sao cũng có nhiều thừa tố tích
cực cho
việc giáo hội đến Trung Quốc. Các trường giáo hội và sau đó các đại
học như viện đại học Diên Kinh-
Yanjing University ở Bắc Kinh và
viện liên hệ Harvard -Yenjing , đã đóng góp đáng kể vào giáo dục Tàu, không những về hiểu biết
Tây phương mà còn nâng cao tiêu chuẩn
giáo dục Tàu cận đại. Trường học
cho nữ giới ở Trung Quốc, cũng như ở nhiều quốc gia khác do các nhà thờ tiền phong thiết lập. Bệnh viện mở đón mọi
người, huấn luyện bác sĩ và y tá , đề xướng
y tế công cọng, huấn luyện kỷ thuật công nghệ và nông nghiệp , tiến bộ
khoa học tỉ như ở trung tâm danh vang Dòng Tên ở Tử gia hội - Xujiahui ( Zikawei ) gần Thượng
Hải, thiết lập các viện mồ côi, các viện người mù và
người điên, từ giữa thế kỷ thứ 19
đến Thế Chiến Thứ Hai , được nhìn nhận là những đóng góp của giáo hội Thiên chúa ở Trung Quốc .
Ngoài các lợi lộc xã hội của Thiên chúa gíáo, rất nhiều dân Tàu tìm thấy
trong đức tin “ mới” một kêu gọi tôn
giáo, đang còn thiếu sót ở sân khấu Tàu đương thời. Khổng giáo càng ngày càng tỏ vẽ ít phù hợp khi đế quốc
suy tàn dưới mắt dân Tàu và tiếp theo là nạn sứ ( tướng ) quân - warlords.
Đạo giáo - Daoism phổ biến đầy mê tín vô vọng và cả Phật Giáo , tuy là một tôn giáo sâu
sắc, vẫn không được ưa chuộng vào thế kỷ thứ 19 ở Trung Quốc hay soi sáng thêm bằng tư tưởng mới mẽ như thể Thiên Chúa giáo lúc đó. Các tín đồ Tàu Thiên chúa giáo đóng một vai trò quan trọng về Cuộc Cách Mạng 1911. Các giáo sĩ dần dần thành công rời ra
khỏi sự phụ thuộc các sứ quán giúp đở và
cũng cách ly dần với chánh sách các chánh phủ nguyên quán mình. Nhưng giáo hội
Thiên Chúa hiện nay cũng chưa đủ tính cách Đông Phương hơn là khoát ngoài y phục Tây Phương trên
phương diện âm nhạc, kiến trúc và nghệ thuật , những chuyễn giao quyền uy và xử lý tài chánh cho dân địa
phương kiểm soát, một thủ tục nay áp dụng tại mọi quốc gia, đã thực thi ở Trung quốc từ năm 1930. Chính
ngay các thành công vươn xa về xã hội của Thiên Chúa Giáo ở Trung
Quốc, đã gây ra thù hận ở giới quí
tộc học giả Tàu - chinese scholar gentry class . Họ có cảm tưởng là
các lảnh địa đặc quyền ưu đải và
các trách nhiệm ngàn xưa để đề
xướng lập trường học, viện mồ côi, cứu tế nạn đói, và các dịch vụ cộng đồng
khác, bị xâm chiếm.
tea rose |
Mẫu đơn cây mộc |
Đế quốc chấm dứt .
Hai thập niên từ đầu thập niên1890 đến năm 1911 , còn chứa đọng dư
âm của
liệt cường tấn công Trung Quốc và nổi loạn nội địa thế kỷ thứ 19. Tan rã
hàng ngũ càng hoàn toàn thêm vì trung tâm quyền lực ở triều đình Bắc Kinh đã phần lớn mất hết
liên lạc với phần Trung quốc còn lại.
Vài lảnh tụ địa phương cố gắng
cải thiện xã hội đã nêu trên, cố lĩnh hội
thế giới bên ngoài và tung ra nhiều biện
pháp để thõa mãn tình trạng căn bản,
triệt để mới mẽ. Thanh đình cũng có vài chức quyền thấu triệt tình hình như Cung Thân Vương Dịch tố- Prince Gong,
em vua Hàm Phong - Xian Feng (ở ngôi vua 1851- 1962 ) , nhưng đa số đại
thần nguồn gốc Mãn Châu và nguồn gốc
Tàu vừa
mù quáng , vừa phản động, kể luôn cả các thái giám và chức quyền cung đình, đều có quyền lợi to lớn mong muốn tiếp tục nguyên trạng.
Từ Hy Thái Hậu |
Đồng Trị ( 1962- 1875 ) hoàn toàn
bị mẹ là Từ Hy chủ trì, chết năm 19 tuổi và
nối nghiệp là Quang Tự- Guang
Xu ( 1875- 1908 ), con của em Từ Hy, lúc lên ngôi mới 4 tuổi và thân chính năm 1981, tuy thực quyền vẫn trong
tay Từ Hy. Hợp tác giữa Từ Hy và Lý Hồng Chương mật thiết hơn là với Prince
Gong - Dịch Tố. Lý là anh hùng dẹp loạn Thái Bình Thiên Quốc và triều đình
Thanh tiếp tục tán thưởng nhờ Lý có khả năng mặc cả lợi nhất cho Trung Quốc
với ngoại quốc. Tuồng như Lý cũng có khả năng
lợi dụng ưu điểm sáng tạo Tây phương, trong khi đó vẫn trung thành với
triều đình và đặc biệt với Từ Hy Thái hậu. Tiến bộ về hải quân Trung Quốc cung cấp một
thí dụ về sức mạnh cũng như yếu kém của Lý.
Trung Quốc thời đó có 4 hạm đội riêng biệt, căn cứ tại Quảng Châu, Phúc Châu, Thượng Hải và Thiên
Tân. Hạm đội Bắc Dương- Beiyang
ở Thiên Tân, Lý lúc đó làm Ủy
viên Chánh phủ, nhận được nhiều tài trợ
hơn hết và mạnh nhất. Nhưng năm 1890, ngân khoản cạn đi. Từ Hy, do Thái
giám bà sủng ái khuyến khích, đang xây cất
vườn Di Hòa, Cung Đình Mùa Hè Mới-
New Summer Palace ở ngoại ô Bắc Kinh, dùng kinh phí của Hải Quân Nha
Môn, với sự đồng lõa của Lý Hồng Chương. Tàu chiến duy nhất làm ra bằng cẩm thạch, chưa bao giờ ra khỏi
mép hồ vườn Thượng Uyễn. Hạm đội Bắc Dương không có thêm hay thay thế một tàu chiến nào cả
thảy.
Vào lúc này Nhật bổn tấn công.
Sau mùa hè năm 1894, Nhật kiểm soát Nam Triều Tiên và thủ đô Hán Thành - Seoul . Nhật chiếm
thêm Bình Nhưỡng- Pyongyang ở miền Bắc tháng chín 1894. Trung Quốc đặt
hy vọng vào hạm đội Bắc Dương, đang tiến tới cửa sông Áp Lục - Ya Lu.
Tổng số tàu chiến Trung Quốc nhiều hơn, nhưng chỉ có một mình hạm đội Bắc Dương
tham chiến. Tàu Nhật nhỏ hơn, ít hơn nhưng chạy mau hơn, súng ống cũng ít hơn
nhưng mạnh hơn, và nhất là chiến thuật Nhật giỏi hơn và huấn luyện thủy quân
cũng thành thục hơn. Đánh chìm, làm hư hại nặng tàu chiến Trung Quốc, trong khi
tàu Nhật chỉ hư hại nhẹ. Hạm đội Nhật đuổi chạy các tàu Trung Quốc còn lại về Uy
Hải Vệ - Weihaiwei ở Sơn Đông và sau
đó đánh tan tành hết. Kế đến Nhật chiếm Lữ Thuận - Port Arthur, đánh từ
đất liền như sẽ chiếm Singapore sau này,
vì mọi đại bác đều chỉa ra biển ở các quân
cảng. Lý hồng Chương già nua, bị bắt buộc phải xin nghị hòa với đại diện Nhật là Hirobumi, mùa xuân năm
1895, ở Mã Quan - Shimonoseki. Hòa ước rất nặng nề cho Trung Quốc: chấp nhận cho Triều Tiên Độc lập ( Nhật xáp nhập Triều Tiên nay gọi là Cao Ly, năm
1910 ), nhượng Đài Loan, quần đảo Bành Hồ - Pescadores, và bán đảo Liêu Đông -Liao dong, một
điều ước thương mãi lợi cho Nhật, mở thêm nhiều hải cảng và một ngân khoản bồi thường to lớn. Nga, Đức, và Pháp phối hợp buộc Nhật phải rút lại
yêu cầu chiếm bán đáo Liêu Đông,
dùng một ngân khoản bồi thường thay thế.
Tưởng cũng nên nhắc lại là sau khi đánh lấy Hà Nội lần thứ nhất năm
1873, triều đình Huế yêu cầu Tàu sang đánh dẹp giúp miền thượng du Bắc Kỳ loạn lạc và nhiều lần sai sứ
sang Tàu bí mật xin vua Thanh cứu viện để đối phó Pháp xâm lăng. Trong khi ấy , triều đình nhà Nguyễn Phước đã dùng quân
Cờ Đen của Lưu Nghĩa , ( sau đổi tên là
Lưu Vĩnh Phúc), bộ hạ của Ngô Côn, một tướng của Thái Bình Thiên Quốc chạy sang
Việt Nam, khi đảng Thái Bình thất bại. Sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ hai, năm
1882, Tàu một mặt cho quân sang đóng dọc
theo biên giới và vào nhiều nơi trong nội địa .Việt Nam, mặt khác sai Công sứ Tàu ở Ba Lê phản đối với chánh phủ Pháp rằng Việt Nam
là phiên thuộc Trung Quốc, yêu cầu Pháp
phải rút quân về. Xưa kia Trung Quốc gọi
phiên thuộc là những nước ngoài, vì ngưỡng mộ văn minh Trung Quốc đến xin triều
cống để lấy các lễ nghi triều - sính làm vinh. Trên thực tế , phiên thuộc không
lợi ích gì cho quốc kế dân sinh Tàu .
Các chánh trị gia cũ của Tàu thưòng lấy
câu “ tệ
Trung Quốc , sự tứ di- làm khốn
tệ Trung Quốc để phụng sự phiên thuộc” làm căn bản.
Triều Nguyễn Phước, cũng như
nhiều triều đại trước, đều giữ lệ 3 năm sang
nạp cống phẩm một lần và vua nào lên
ngôi cũng sai sứ sang cầu phong và
được vua Tàu sai sứ sang phong cho
tước Vương. Tuy thần phục như
thế, nhưng Việt Nam( cũng như Thái La , Miến Điện, Nepa , Bhutan .. ) vẫn tự
chủ việc mình và vẫn hoàn toàn độc lập. Công sứ Pháp ở Tàu là Bourrée
thấy quân Tàu đưa sang Việt Nam đông quá,
lấy làm lo ngại, nên đứng ra điều đình
với Thự lý Thông thương đại thần Tàu
là Lý Hồng Chương. Năm 1884, Fournier
và Lý Hồng Chương ký hiệp ước Thiên Tân,
theo đó Tàu chịu rút quân khỏi Bắc Kỳ
và tôn trọng các hiệp ước Việt Nam ký kết với Pháp. Hiệp ước này không được Thanh đình chấp thuận,
nên quân Tàu tiếp tục kháng cự ở các tỉnh Bắc Kỳ. Thủ tướng Pháp Jules
Ferry sai trung tướng Courbet
đem hạm đội đến Phúc châu, tấn công ngày 23 tháng 8 năm 1884, đánh
chìm 22 chiếc tàu của hạm đội Phúc Châu,
phá xưởng binh khí, xuôi theo dòng sông Mân hủy diệt hết các cơ quan phòng thủ ,đánh chiếm Cơ
Long( thuộc đảo Đài Loan) , phong tỏa Đài Loan, chiếm quần đảo Bành Hồ, phong
tỏa cửa biển Pakhoi thuộc tỉnh Quảng
Đông. Rồi ngày 22 tháng 3 năm 1885, quân Pháp
chống với 4 vạn quân Tàu ở Lạng Sơn
bị đại bại. Cuộc chiến tuy nhiên
kéo dài. Thấy không có lợi và còn bận về
Cao Ly ( Triều Tiên ), Tây Tạng , tài chánh thiếu hụt , nên Trung Quốc phải
nghĩ đến nghị hòa. Tháng 4 năm 1885 , quân Tàu rút khỏi Bắc Kỳ. Tháng 6 năm 1885, Lý Hồng Chương cùng công
sứ Pháp Patenôtre ở Bắc Kinh, ký kết hòa ước Thiên Tân, chỉ định những nơi ở
biên giới Hoa Việt để Pháp và Tàu có thể
tới lui buôn bán và quân Pháp rút ra khỏi Cơ Long, Đài Loan, Bành Hồ. ( chiếu theo Trung Quốc Sử Cương , Huế , 1958
)
Chiến tranh Trung Nhật 1894 - 1895 là một bước chánh về sự xói mòn chầm
chậm toàn vẹn lảnh thổ Trung Quốc, càng nặng thêm mãi cho đến Thế chiến Thứ Hai.
Nó cũng là một nền tảng ngoạn mục cho
những cố gắng cận đại của hai nước Trung Quốc và Nhật bổn, được mọi quốc gia
liên hệ nhìn xét kỷ lưỡng. Trung Quốc đã đầu tư
những ngân khoản khổng lồ để phát
triễn hải quân và quân đội, xây đắp kỷ thuật võ khí của mình lớn hơn và sớm hơn
Nhật. Nhưng nếu so sánh đôi bên ở cuối thế kỷ thứ 19, Nhật trổi dậy thành một
quốc gia mạnh mẽ hơn. Nhật có ưu điểm là được một chánh phủ hướng dẫn và quy
hoạch trung ương; trong khi những cố gắng Trung Quốc thành công lẽ tẽ qua các chức quyền địa phương, với rất ít hổ
trợ và phối hợp của triều đình Mãn Thanh trung ương. Cận đại hóa Nhật tính toán
kỷ lưỡng, Trung Quốc miễn cưỡng. Sinh viên Nhật hưởng lợi nhiều nhờ huấn luyện. Sinh viên Trung Quốc
thông minh không kém, thường bị lập lờ - nước đôi và không đủ thẩm quyền chánh
thức cản trở. Một lục quân và hải quân để
bảo vệ hửu hiệu quốc gia cận đại, đòi hỏi quốc gia phải có nền móng, trụ đở,
không những một công nghệ phức tạp tròn trĩnh, mà còn cả một loạt ý kiến về giáo dục, luật pháp và hành chánh cai trị,
sống còn được trên liên hệ ngoại giao chung thế giới. Ngược lại, Trung Quốc lúc
bấy giờ tuy kích thước đồ sộ, sức mạnh tiềm tàng và trí thức lỗi lạc, bị vấp ngã trên sân
khấu, cận đại hóa chỉ dần dần, từng phần, không hề có thống nhất lảnh đạo cũng
như không có một chánh sách phối hợp.
Trung Quốc thất bại nảo nề, nhục nhã ở Triều Tiên năm 1895, mở đầu cho
một loạt yêu cầu ngoại quốc về nhượng địa, trong đó liệt cường lúc này: Đức,
Nga, Anh và Pháp có vẽ sẳn sàng xâu xé
Trung Quốc. Nó cũng làm lan tràn làn sóng sốc trong giới trí thức nhà văn - literati
class. Khang hửu Vi-Kang youwei ( 1858- 1927 ) lợi dụng cơ hội để đưa cải cách lên một bực thang mới. Khang
phát triễn một giải thích Khổng giáo
đáng giật mình, căn cứ phần nào vào truyền
thống Tân Thư - New Text tradition , có từ đời Hán, biện cứ rằng mọi sáng
kiến cải cách để Trung Quốc có cơ chống trả Tây phương đều có sẳn trong
di sản quốc gia. Năm 1889, khi Từ Hy rút
lui về Di Hòa, Quang Tự mời Khang, một số môn đệ ông , đáng kể nhất là Lương
Khải Siêu - Liang Qichao và một số nhà
cải cách của nhóm Vận Động Duy Tân
đế bàn luận việc nước. Quang Tự quyết ý
thi hành biến pháp
Lương Khang đề nghị, khẩu hiệu là “ toàn
biến , tốc biến- thay đổi triệt để và mau ”. Phe bảo thủ triều đình chống
đối mảnh liệt. Tháng chín năm 1898, Thái Hậu Từ Hy cho là cơ hội đã chín mùi, trở lại nắm quyền, mau lẹ bắt Quang Tự và xử tử sáu nhà cải cách ( Lục
quân tử ) . Khang Hửu Vi và Lương Khải Siêu
được mật chiếu của Quang Tự trước, đã trốn khỏi Bắc Kinh, chạy đến Hồng
Kông. Còn Lương Khải Siêu khi việc xảy
ra, mới trốn sang Nhật bổn. Hết
thảy tân chính đều bị bài xích. Đó là
cuộc chính biến năm Mậu Tuất , chánh
phủ Cải Cách sinh tồn được một trăm ngày,
từ 10 tháng 6 đến 20 tháng chín năm 1898 ( theo Trung Quốc Sử Cương -1958 ).
Đàn áp cưỡng bách cải cách ở triều đình
không chửa trị được căn bệnh toàn
thể khắp nước. Nổi loạn tái xuất dưới cờ
Trung quốc gọi là của Quyền Phỉ - Nghĩa
Hòa Đoàn - Yi He Quan ( the
Righteous and Harmonious Fists ), thường được ngoại
quốc gọi là Vỏ Sĩ - Boxers.
Dư đảng sang miền Nam Việt Nam tá
túc thường được gọi là bọn “Sơn Đông Mãi
Võ ” , những người Tàu cao lớn, lực lưỡng, biết võ, biểu diễn và bán vài
thứ thuốc hoàn để xoa bóp, trị gãy tay,
trật gân …trước Thế Chiến Thứ Hai. Khởi sự ở Sơn Đông năm 1898, quân Nghĩa Hòa
Đoàn tràn khắp miền Bắc Trung Quốc, tấn
công đường xe lữa, xưởng máy và các tiệm bán hàng ngoại quốc. Họ giết hại một
số giáo sỉ và rất nhiều tín đồ Thiên chúa giáo Tàu. Sơn Đông là một tỉnh Trung Quốc, nôi phát sinh
cách mạng từ thuở ban đầu lịch sử Trung Quốc. Đây cũng là nơi xâm lăng ngoại quốc đáng chú ý đặc biệt, vì
Đức Quốc đã bảo đảm hải cảng Giao Châu - Jiaozhou và nhượng địa làm đường xe lữa, trong khi Anh
Quốc dùng Uy Hải Vệ làm căn cứ hải quân.
Tỉnh trưởng Mãn Châu khuyến khích nhóm Boxers, nhưng khi ngoại quốc phản đối,
Thanh đình cử một tỉnh trưởng mới Viên
Thế Khải- Yuan shikai thì Viên thay
đổi chánh sách, đuổi quân nổi loạn ra khỏi tỉnh. Thái độ lập lờ của Thanh đình thấy rỏ trong sự kiện là
nguyên tỉnh trưởng Sơn Đông được bổ
nhiệm làm tỉnh trưởng Sơn Tây, sau đó ông có mặt khi xử tử 46 người ngoại quốc,
đa số là giáo sĩ Thiên Chúa giáo. Tháng 6 năm 1900, quân Nghĩa Hòa Đoàn hợp với
đại binh Thanh đình tấn công các sứ quán trong 8 tuần lễ. Đô đốc Anh đem 2000
quân các nước từ Thiên Tân đến Bắc Kinh để cứu các sứ quán , giữa đường bị
Nghĩa Hòa vây đánh, phải rút lui. Thanh
đình lại xuống chiếu mộ thêm quân Cần Vương, truyền hịch cách “ đuổi giết ngoại
nhân ”. Tám nước Anh , Pháp , Đức , Ý , Mỹ , Nhật, Áo,
Nga họp quân đội ( một nữa quân số là Nhật ), cử thống chế Đức bá tước
Alfred Von Waldersee thống lĩnh, đánh
tan vỡ hết các đạo quân Thanh và giải
vây các sứ quán Bắc Kinh ngày 14 tháng 8.
Liên quân vào tha hồ cướp bóc, đốt phá, hiếp dâm, còn tàn nhẫn hơn bọn Quyền phỉ nhiều. Từ Hy cải trang trốn vào
Tây An, bắt Quang Tự theo bà. Rất nhiều bảo vật trong cung, bị
liên quân đem đi. Hòa Ước nhà Thanh phải ký năm sau 1901, thật là thảm
hại cho Trung Quốc : ngoài 450 triệu
lạng bạc bồi thường; Trung Quốc phải trừng trị các quan đã gây ra tai hại,
người thì phải tự tử , kẻ thì phải phát vãng sang Tân Cương; trong khu vực ranh giới các sứ quán tự quản
lý và được đặt quân đội để phòng thủ, triệt bỏ
pháo đài Đại Cổ, và 12 pháo đài khác
từ kinh sư tới biển v.v…( theo Nguyễn Hiến Lê - 1983 ). Một thành quả hòa ước không viết
ra còn tệ hại hơn nữa cho Trung Quốc. Đó
là việc Nga chiếm đóng thực sự Mãn Châu , làm Nhật hốt hoảng và bị trêu tức,
mầm mống chiến tranh Nga - Nhật 1904-
1905.
Bừng dậy Nghĩa Hòa Đoàn rỏ ràng minh bạch
là cải cách cần thiết, và nhiều chương trình
khởi sự và tắt ngũm trong “Một Trăm Ngày năm 1898”, lại được thực thi riêng biệt từ năm 1901 đến
năm 1910: thiết lập những bộ cận đại trong nội các, cải cách giáo
dục, bỏ việc thi tuyễn công chức, xuất bản một ngân sách quốc gia hàng năm từ
1908, tạo lập nghị viện cấp tỉnh và ban hành một bộ luật quốc gia mới . ..
Tuy nhiên, triều đại Mãn
Thanh với hệ thống đế vương, kéo dài đã
2 000 năm, sắp chấm dứt. Từ Hy chết năm 1908.
Một ngày trước khi bà chết, vua Quang Tự
cũng chết. Nhưng bà đã lập thêm một vua trẻ em, hoàng đế Phổ Nghi- Pu
Yi, mới 3 tuổi. Phổ Nghi làm vua ngắn ngũi, vì Cách Mạng ngày “ Song
Thập ” 10 tháng 10 năm 1911. Ngày 12 tháng 2 năm 1912, vua trẻ em Phổ Nghi
thoái vị.
III - Cách Mạng Cộng hòa 1900- 1949
Tôn Văn |
Tôn Văn( 1866- 1925 ) “cha đẻ của
nền Cộng Hòa Trung Quốc”
Tôn Dật Tiên- Sun Yat Sen
hay Tôn Văn - Sun Wen sinh ở
huyện Hương Sơn , tỉnh Quảng Đông trong một gia đình trung nông. Khác với các
nhà lảnh đạo Tàu trước và sau ông, Tôn
Văn là người đầu tiên biết ngọại ngữ và
đi nhiều nước nhất, từ Á qua Âu . Hai phần ba đời ông ở ngoại quốc và ông không
có căn cứ quyền lực nào ở nước Tàu cả. Thế nhưng ngày nay
được Tàu Quốc Gia - Nationalists cũng như Cộng Sản -
Communists sùng bái. Ông là một nhà tư tưởng, một nhà cách mạng chuyên
nghiệp, có một cảm nghĩ kỳ lạ về tình
huống sắp tới đương thời, có thể làm tụ hợp nhiều người cho một sự nghiệp cách mạng. Có lẽ vì ông không
có quân đội nào sau lưng, mãi cho đến
cuối đời và cũng không có ngay cả một
nhóm mạnh mẽ địa phương nào hổ trợ ông,
cho nên hồi tưởng quá khứ ông đạt vị trí là Cha đẻ của nền Cộng Hòa. Cũng không phải là một lảnh tụ chánh trị
hay lãnh chúa, tướng đốc quân - warlord, nên ông đã có thể trở thành một
tượng trưng khi còn sống và còn lớn hơn nữa khi ông chết. Ở tuổi 12, ông qua Hạ
uy Di ( Hawaii ) ở với người anh cả tại
thành phố Đàn Hương Sơn - Honolulu ,
vào học một trường đạo ở đấy và theo đạo Tin Lành, Thiên chúa Giáo. Học được 3
năm, ông anh đuổi về nước vì thấy ông Âu hóa mau quá. Nhưng ông không ở quê nhà
được lâu,vì ông báng bổ một vị thần của làng. Cha ông cho ông qua học y khoa ở
Hồng Kông ( Hương Cảng). Trong thời gian đó, gia đình cưới cho ông một thiếu nữ quê mùa, sinh đựợc
3 người con, nhưng sau đó Tôn Văn cưới
cô con gái lớn nhất của một phú thương Mỹ hóa Charles Jone Song ( Tống ) là Tống Khánh Linh, cô
thứ hai là Tống Mỹ Linh vợ của Tưởng
Giới Thạch - Jiang Jieshi, Chiang Kaishek ). Học hết 5 năm, ông qua Áo Môn
- Macao, nhưng không được hành nghề, vì ông chỉ có bằng cấp Anh chứ không có
bằng cấp Bồ Đào Nha - Portugal (
Macao lúc đó thuộc Bồ ). Ông lên Hoa Bắc, bắt đầu có tư tưởng chánh trị, tiếp
xúc với Lý Hồng Chương năm 1885, tỏ ý muốn
giúp đở chương trình cải cách, nhưng hoàn toàn bị bỏ quên.
Rồi ông chuyễn hướng qua cách
mạng thay vì cải cách. Năm 1984, ông lập Hưng Trung Hội - Xing Zhong Hui,
một hội kín cách mạng, lúc mới đầu chỉ
có độ mươi đồng chí, nhưng sau đó có
nhiều chi bộ ở Trung Quốc và ở ngoại quốc. Năm 1895, Tôn khởi nghĩa lần
đầu, mưu chiếm tòa tỉnh Quảng châu; việc tiết lộ, đồng đảng bị giam và bị giết
hơn 70 người. Ông phải trốn qua Nhật, rồi qua Honolulu . Sau ông qua Anh để tìm hiểu thêm
Tây Phương, học thêm môn xã hội học.
Thời ông ở Nhật là thời Minh Trị
Thiên Hoàng diễn tiếp, đã bắt đầu từ năm 1868. Trí thức Tàu ồ ạt sang Nhật học
hỏi, vì dễ đến Nhật hơn là sang Âu Châu hay Hoa Kỳ và học ở Nhật cũng rẽ hơn
nhiều. Vài nhân vật Tàu nổi danh đã tá túc nơi đây, dịch các tài liệu ngoại
quốc, viết lách, thảo luận, chẩn bịnh con bệnh xã hội Trung Quốc. Lảnh tụ Tàu
sớm nhất và sáng tạo nhất là Lương Khải
Siêu (1873- 1929) đã trốn sang Nhật,
kể từ khi “ Một Trăm Ngày Cải
Cách”, năm 1898, bị đốn bỏ. Lương được huấn luyện cỗ học cổ điễn, nhưng cũng
chịu chấp nhận các ảnh hưởng Tây Phương
và kinh nghiệm làm biên tập, của Hội Văn Chương Thiên Chúa Giáo dưới quyền
quyền điều khiển của Timothy
Richard. Lương biên tập một tờ báo cỗ vỏ cải cách ở Trường Sa - Changsha ,
thành phố Trung Quốc đầu tiên, ngòai các hải cảng, đưa vào những sáng tạo như thắp đèn
ở đường phố, giao thông bằng tàu chạy hơi nước trên sông ngòi, và dạy đề tài cận đại ở các trường đại học.
Lương viết rất nhiều và làm biên tập cho nhiều tờ báo, xuất bản phù du, ngắn ngũi, nhưng chứa
đầy tư tưởng kỳ dị, gây tranh cải. Ông cũng chỉ là một nhà cải cách ôn
hòa , vẫn có khuynh hướng bảo hoàng, tuy chống kịch liệt Thanh đình, nhất là Từ
Hy Thái Hậu qua tờ báo Thanh Nghị, nhấn
mạnh đến nhu cầu phải tranh đua, phấn đấu, kiên quyết và một ý thức quốc gia
- nationalism mới, đào tạo một con người Tàu mới, một đề mục mà Mao Trạch Đông - Mao Zedong phát huy thêm sau đó.
Một nhà văn khác ảnh hưởng đến tư
tưởng Tôn Văn là Nghiêm Phục - Yan Fu
( 1853- 1921 ). Nghiêm học cỗ văn Tàu,
rồi đến xưởng võ khí Phúc
Châu học kỷ thuật. Ông được Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng, nhân
đó nghiên cứu luật pháp và hành chánh
Anh. Ông thông dịch 270 cuốn tác phẩm Tây phuơng, trong đó ít nhất là 40 cuốn
được dân Tàu tán thưởng. Được hoan nghênh nhất
là các cuốn “ Ba Lê Trà Hoa Nữ di sự - La Dame aux Camélias” của A. Dumas con - fils, “ Hắc nô
hu thiên lục - La Case de L’Oncle Tom ”của H. Beecher Stowe, “Tiến trào và Đạo đức - Evolution ”
của Thomas Huxley, “ Giàu có các Quốc
gia - The Wealth of Nations”
của Adam Smith ,“ Nghiên cứu Xã hội
học - The Study of Sociology ”của
Herbert Spencer , cũng như các công trình của John Stuart Mill và
Montesquieu. Cả hai Lương, Nghiêm đều
góp phần nhấn mạnh đến Chủ nghĩa
Xã hội Darwin - Social Darwinism ,
nghĩa là sự tranh đấu cho hiện diện
và sống còn cho ai mạnh nhất -
fittest ( ưu thắng liệt bại ) áp dụng cho mọi quốc gia cũng như cá nhân. Các nhà ái quốc Trung Quốc và Việt Nam nào
đương thời cũng tìm đọc hai bản dịch “Thiên Diễn Luận-De l’origine
des espèces par la sélection naturelle”
của Darwin và cuốn “ Vạn Pháp Tinh Lý
- Esprit des lois ” của Montesqieu. Cuốn trên vì thuyết ưu thắng liệt bại, gợi cho họ lòng tự cường
quyết chiến đấu để khỏi bị sa
thải trên hoàn vũ; cuốn dưới vì thuyết
tam quyền phân lập: quyền lập pháp, quyền hành chánh và quyền tư pháp phải
độc lập, mỗi quyền thuộc một cơ quan riêng, không được gom ba quyền vào một
người như chế độ quân chủ chuyên chế .
Nhà văn thứ hai Tàu kỳ lạ nhất ở
Nhật cùng thời Nghiêm Phục là Lâm Thư- Lin Shu ( 1852- 1924 ). Tài
tình nhất là Lâm không hề biết một ngoại ngữ nào cả, nhưng trí nhớ của ông thật
là phi thường. Nhờ bạn dịch cho, rồi ông
diễn ra cổ văn, mỗi giờ có thể viết được 1500 chữ ( !), có khi bạn chưa kịp dịch miệng xong, ông đã viết xong.
Lâm đã dịch ra cổ văn Tàu thanh nhã 160 công trình của Defoe, Dickens, Dumas,
Victor Hugo, Sir Walter Scott, Cervantes, Ibsen và nhiều tác giả Tây phương
khác.
Trong một môi trường sôi động như vậy, Tôn Dât Tiên đề xướng sự nghiệp lật đổ triều đại Mãn Thanh và thiết lập một Cộng Hòa-
Republic . Ông du hành
và thuyết trình không ngừng, tìm kiếm tài trợ và hổ trợ giữa giới Hoa Kiều và
người khác ở Hoa Kỳ, ở Anh, bất cứ nơi đâu. Năm 1895, Tôn khởi nghĩa đầu tiên,
mưu đánh chiếm Quảng Châu, việc tiết lộ
đồng đảng bị giam và bị giết hơn 70 người. Chính năm 1896, khi ở London , ông bị sứ quán Thanh đình ở đây bắt cóc, sữa soạn
đem về Trung Quốc xử trảm. May mắn được một nhân viên sứ quán người Anh mật tin
cho bác sĩ Cantlie, một giáo sư y khoa
thầy dạy cũ ở Hồng Kông làm rùm beng cuộc bắt cóc ở báo Times - London
và Bộ Ngoại giao Anh can thiệp. Khiến sứ quán Thanh đình phải thả ông sau 12
ngày và sự cố này biến ông thành anh hùng và tăng thêm hổ trợ tài chánh cho sự nghiệp ông là lật đổ triều Thanh.
Thoạt tiên quan điểm của Lương Khải Siêu, đề xướng cải cách dưới một chánh thể
quân chủ lập hiến được nhiều người theo nhất. Những cuối cùng , quyết chí triệt
để hơn để làm cách mạng của Tôn Dật Tiên, một cắt đứt hoàn toàn với quá khứ, tỏ
ra kêu gọi hơn đề xướng cải cách của Lương.
Lúc ở Nhật, Tôn Văn đề xuất
thuyết Tam dân chủ nghĩa -
Sanmin Zhuyi (Three People Principles) , trở thành cương lĩnh chánh trị của
ông. Chủ nghĩa Dân Tộc - People ‘s
Nationalism theo tư tưởng của Tôn
vừa chống triều Mãn Thanh, vừa chống chánh sách xâm lăng của các đế quốc Âu - Mỹ, tiết lộ một tự kiểm thảo Tàu nhạy cảm, đồng thời cũng có xu hướng xung
khắc với Tây Phương . Chủ nghĩa Dân Quyền (Dân Chủ) - People
Democracy đặt quyền chi phối chánh trị vào tay toàn thể nhân dân, còn quyền chánh trị
về phần chánh phủ . Chánh phủ có năm
quyền gọi là ngũ quyền hiến pháp : quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp, quyền khảo thí và quyền giám sát. Nhân dân có quyền tuyễn cử, đề nghị
phúc quyết- phúc nghị, nghĩa là bải bỏ những quyết định nào của nghị viện mà
trái với công ích rồi quyết định lại -
và quyền bải miễn, sa thải những quan lại bất lực hoặc có thành tích xấu
xa. Tôn dẫn trích Mạnh tử- Mencius , nhất là hai câu :” Dân vi quí , xã tắc thứ chi, Quân vi khinh-
dân làm quí , thứ đến là đất nước, còn vua làm nhẹ hơn cả và câu “ thiên thị tại ngã dân thị, thiên thính tại
ngã dân thính, Trời nhìn như Dân
nhìn, Trời nghe như Dân nghe- Heaven sees
as the people see, Heaven hears as the people hear). Chủ nghĩa Dân Sinh- People
Livelihood, làm thỏa mãn 4 nhu cầu
của dân Tàu là ăn, mặc, ở, đi ( tư bản cá nhân phải tiết chế cho tư bản quốc gia được phát đạt, địa quyền
về người cày và phải lần lần tiến tới sự
bình quân. Ông nói cải cách điền địa của ông sẽ tránh cho nước khỏi các cuộc
nông dân nổi loạn và các chánh sách công, kỷ nghệ của ông sẽ bỏ được giai đoạn
tư bản và cuộc cách mạng vô sản ! Và ông cho rằng giai cấp đấu tranh là một bệnh xã hội, không phải là một yếu tố
tiến bộ ! Ý tưởng của chủ nghĩa Dân Sinh không rỏ ràng cho lắm và gây ra nhiều
tranh cải. Chính sách đề nghị này không đưa tới
một chương trình tàn bạo, hoàn toàn không thích hợp với thời đại đương thời… Ông muốn ngăn sự thành lập các
đại tư bản cá nhân và xã hội sau này, khỏi bị cái họa do sự bất bình đẳng giữa
kẻ giàu người nghèo gây ra ( giải
thích chủ nghĩa Tam Dân ở đây phần
lớn trích dịch sách “
La Chine ” của Roger Lévy , PUF 1904 , theo Nguyễn Hiến Lê, 1997 ). Các sử gia Hoa Kỳ nhấn mạnh đến
sự kiện là tuy chủ nghĩa Dân Sinh , đôi khi được mô tả là Xã Hội chủ
nghĩa - Socialism, không được Tôn Văn xem
theo nghĩa Mác xít - Marxism, thực sự phát huy từ một người Hoa
Kỳ Henry George. George có một ý niệm
hướng về thị thành, đề nghị một thuế duy nhất trên đất đai, cốt ngăn cản
đầu cơ bằng cách tính thêm đến tăng gia
trị giá đất đai trong tương lai. Tôn tán
thưởng thuế này để hạ thấp lợi lộc quá đáng của đất đai, chứ không nghĩ đến tái
phân điền địa, ruộng đất. Nhưng ông cũng
lo âu đến tình trạng nông dân và nguồn cung cấp thực phẩm của họ.
Thật tế, phần lớn các đề xuất Tôn
làm ra vẫn còn nằm trong mơ tưởng lý thuyết. Tôn chưa bao giờ ở vị trí mạnh mẽ để làm cuộc phân phối điền
địa, ruộng đất cả. Khi Tưởng Giới Thạch lên nắm chánh quyền tiếp nối Tôn, Tưởng
bị phụ thuộc vào phe hửu của đảng Quốc
Dân (Gia) - Nationalist party ,cho nên cũng không bao giờ cố gắng làm
cải cách ruộng đất .
Trở lui lại các sự cố chánh trước
cuộc Cách mạng Cộng Hòa, Tôn Dật Tiên một người thân Nhật và một nhà cách mạng
Tàu khác là Hoàng Hưng- Huang Xing
phối hợp lực lượng thành một đảng mới tên là Đồng Minh Hội - Tong Meng Hui (
United League ) ở Tokyo, năm 1905. Cho ra
tờ Dân Báo, vạch đường lối của đảng, chú
trọng về dân sinh , chia lại ruộng đất. Sinh viên gia nhập khá đông, trong đó
có Uông Tinh Vệ - Wang Jing Wei,
thông minh hoạt bát, học về chánh trị ở Nhật, cộng tác với ông. Thấy đảng ông
hoạt động mạnh quá, Nhật không muốn chứa chấp ông nữa. Ông để Uông Tinh Vệ ở lại thay mình và ông sang Hoa Kỳ quyên tiền Hoa Kiều. Rồi ông sang Hà Nội, từ
đó tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa ở miền Nam Trung Quốc. Năm 1907, nghĩa quân, trong khi Tôn ở Âu Châu, khởi nghĩa lần thứ 9,
đánh Hà Khẩu, Mông Tự, gần biên giới Việt Nam, thắng được quân Thanh một trận
nhỏ rồi thiếu viện trợ phải rút lui. Vụ khởi nghĩa thứ 10 xảy ra tháng 3 năm 1911 ở Quảng Châu. Lực lượng
nghĩa quân đã khá lớn, đảng quyết định đánh lớn, lựa ở các lộ 500 cảm tử, hợp
với tân quân và quân địa phương đảng đã cài thanh niên vào, thuyết phục được,
giao cho Hoàng Hưng điều khiển để đánh vào dinh Tổng đốc Quảng Đông. Không ngờ
khí giới và quân cảm tử không cùng tới một lượt, chưa kịp thi hành thì bị tiết
lộ. Bọn người đánh vào dinh phải tuẩn mạn, sau tìm được 72 tử thi đem chôn ở Hoàng Hoa Cương, một đồi
ở Quảng Châu ( theo Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê ,1997 ). Nhắc lại là năm
1924, liệt sĩ Việt Nam Phạm Hồng Thái, sau khi ám sát hụt toàn quyền Đông Pháp
Merlin ở Sa Diện, nhảy xuống sông tự tử, cũng được chôn ở đồi Hoàng Hoa Cương.
Chính một nổi loạn quân đội cuối cùng khơi mào ngọn lữa Cách Mạng Cộng
Hòa, và cũng khôi hài thay xảy ra, lúc Tôn một lần nữa còn ở ngoại quốc. Các
nhóm cách mạng ở Thượng Hải và Hán
Khẩu sửa soạn khởi nghĩa lại ở Hán
Khẩu. Bị tiết lộ nên các binh sĩ khởi nghĩa thấy nguy, phải làm
liều, tấn công liền, không đợi chỉ thị của đảng mà cũng chẳng chuẩn bị gì. Ngày
10 tháng 10 năm 1911, bảy tháng sau vụ
Quảng Châu họ tự xưng là “dân quân”, vây đánh
dinh Tổng Đốc triều đình Mãn Thanh.
Viên Tổng đốc Mãn Thanh đem gia quyến trốn trong một chiến hạm. Thống
chế quânThanh cũng đào tẩu. Sau đó “ dân quân ”
chiếm Võ (Vũ) Xương - Wu Chang, rồi Hán Dương - Hanyang, Hán Khẩu - Hankou, ba thị trấn sát
nhau trên bờ sông Dương Tử, trung tâm Trung Quốc và là thủ phủ của tỉnh Hồ
Bắc - Hubei. Xưởng binh công chế tạo binh khí vào tay họ. Chỉ trong 50
ngày, 14 trong số trên 18 tỉnh Trung Quốc hưởng ứng phong trào cách mạng, đuổi
các tổng đốc của Thanh đình đi, lập chánh quyền cách mạng địa phương, luyện tập
dân quân, nhiều thanh niên tự nguyện gia nhập. Thanh đình sai một tướng Mãn Thanh xuống dẹp loạn võ
Xương,nhưng hắn thua. Bất đắc dĩ phải kêu
Viên Thế Khải -Yuan shikai (mà mấy năm trước họ đã nghi kỵ cách
chức) trở lại, cho làm tổng đốc Hồ Quảng, đem thủy lục quân khắc phục lại Hán
Khẩu. Nhưng đồng thời nghĩa quân cũng chiếm được Nam Kinh. Viên Thế Khải là một
tên đại gian hùng, đã phản phe Khang Lương, phản vua Quang Tự năm 1898, để cứu
Từ Hy, vì lúc đó thế lực Từ Hy còn mạnh; Quang Tự không có quyền gì cả. May mắn
sáng suốt nhận ra rằng toàn quốc muốn lật nhà Thanh, và nhà Thanh khó đứng
vững, nên hắn rán chiếm lại Hán Khẩu, để tỏ ra rằng hắn đứng về phía nào thì
cán cân nghiêng về phía đó.
Tôn đang ở Hoa Kỳ, nhận được tin khởi nghĩa ở Võ Xương. Ông không trở về
nước ngay mà đi London, cố gắng điều đình vay một số tiền và lo việc ngoại
giao. Trong số liệt cường, có 6 nước quan hệ lớn với Trung Quốc. Hoa Kỳ và Pháp
đồng tình với Cách Mạng. Đức và Nga phản đối. Dân chúng Nhật đồng tình, chánh
quyền Nhật phản đối. dân chúng Anh đồng
tình, chánh quyền Anh chờ xem, chưa tỏ rõ thái độ. Ông trở về nước ngày 25 tháng 12 năm 1911. 4
ngày sau, đại biểu 14 tỉnh bầu ông làm tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc . Ông tựu chức ngày1 tháng giêng năm 1912 tại
Nam Kinh. Cũng trong năm 1912, Đồng Minh
Hội cải tổ thành Quốc Dân Đảng - Guo
Min Dang (National People’s Party), viết tắt là KMT, theo tiếng nói cũ Kuo Min Tang .
Tuy được bầu lên, được đồng chí ngưỡng mộ, nhưng không nắm rỏ chính sự,
còn xa lạ với đại chúng, nên Tôn nghĩ
rằng muốn cho cách mạng thành công phải có Viên giúp sức . Ông tiếp xúc với
Viên và Viên chịu nhận làm trung gian giữa cách mạng và Thanh đình. Rốt cuộc
Tôn Văn bằng lòng trao chức Tổng thống
cho Viên Thế Khải, sau khi vua Thanh Phổ Nghi ( vua Tuyên Thống - Xuan Tong
) thoái vị. Nhưng Viên là một nhà quân sự, không mảy may nghĩ đến Dân chủ. Viên
tựu chức tổng thống ở Bắc Kinh, nay trở thành thủ đô chánh phủ lâm thời, giao
tất cả những địa vị quan trọng chánh quyền cho tay chân, bộ hạ mình. Năm đầu,
Viên công bố luật bầu cử: một Tham nghị viện - Thượng viện gồm 264 nghị viên do hội đồng tỉnh bầu lên và
một Chúng nghị viện - Hạ viện gồm 296
nghị viên do dân ( đàn ông thôi ) trên 21 tuổi có tài sản hoặc có bằng cấp, bầu
lên. Bầu quốc hội tổ chức năm 1913. Quốc
Dân Đảng của cách mạng, một trong hai đảng lúc đó ở Trung Quốc ( đảng thứ hai
là đảng Tiến Bộ, gồm đảng Dân Chủ của Lương Khải Siêu ở Nhật về), được nhiều ghế nhất ở cả 2 viện và Viên phải tìm cách triệt họ để không còn
phe chống đối nữa. Viên tổ chức ám sát lảnh tụ Quốc Dân Đảng ở nghị viện và ký sắc lệnh trục xuất mọi đảng viên Quốc Dân
Đảng ra khỏi Bắc Kinh, bắt giam mọi kẻ cầm đầu. Tiến vào con đường độc tài rồi,
thành công được vài lần, hắn càng sấn tới,
ra lệnh giải tán lưỡng viện thay bằng một ủy ban hành chánh gồm toàn
những tay sai của hắn, rồi ban bố một hiến pháp mới do hắn thảo. Theo hiến pháp
đó, tổng thống có quyền chuyên chế, quyết định mọi việc không cần có sự thỏa
thuân của Quốc hội. Ngày bỏ phiếu hắn cho Công dân Đoàn ( do hắn tổ chức ) bao
vây Quốc hội, uy hiếp đối lập. Dĩ nhiên hắn đắc cử tổng thống. Làm tổng thống 3
năm, hắn chưa mãn nguyện, lợi dụng ước pháp, kéo dài nhiệm kỳ tổng thống từ 3 năm lên thành tổng thống chung thân. Năm 1915, Viên trở
thành tổng thống chung thân, nhưng bị rắc rối vì khủng hoảng 21 Yêu Cầu Nhật đưa ra. Tuy vậy Viên
vẫn tiến tới dự án biến chế độ cộng hòa thành chế độ quân chủ chuyên chế. Đến
tháng 10 năm 1915, đại biểu quốc dân các tỉnh
tônViên Thế Khải lên ngôi hoàng đế. Nhưng đối lập từ Lương Khải Siêu và
các tướng lảnh miền Nam Trung Quốc , nổi lên chống đối Viên. Chuẩn bị đăng quang lên ngôi hoàng đế, Viên
lo sợ, vội vàng bỏ ý xưng đế, nhưng phe phản đối cũng không chịu. Tháng 5 năm
1916, cách mạng Quảng Châu thời Hoàng Hoa Cương ( 1911 ) thành lập chánh phủ
Cộng Hòa và bầu Lê Nguyên Hồng làm tổng thổng. Viên uất ức, chết tháng 6 năm
đó, có sách nói là hắn tự tử, có sách nói
là vì bị bệnh niếu độc - uraemia
,
Giai đoạn quân phiệt, tướng (đốc
quân) , lảnh chúa
Đây là một giai đoạn lịch sử cận đại Trung Quốc, kéo dài đến năm 1927,
tình hình vô cùng hổn loạn. Đối với mọi nhà cải cách lý tưởng thế giới trong số
có Tàu là một thời kỳ gần như tuyệt vọng. Sử Tàu gọi là giai đoạn Họa Quân Phiệt
- Warlord period. Thật ra ngoài
các tướng quân chỉ huy quân sự ( Tàu gọi
là đốc quân ) nữa phần độc lập, còn những yếu tố khác trong trộn lẫn này, tỉ
như uy quyền của Nhật, ảnh hưởng mỗi ngày mỗi lớn thêm của sinh viên và trí
thức Tàu, sự vươn dậy của đảng Cọng Sản Tàu
dưới ảnh hưởng của Nga. Giai đoạn quân phiệt chấm dứt khi KMT toàn
thắng. Các tướng đốc quân là di vật quá
khứ trên những khía cạnh tệ hại nhất; một
hiện tượng địa phương, tỉnh - miền, trồi lên ở máng uốn lõm hổn loạn giữa các
triều đại, khi các chủ định quyết tâm
trung ương, có nghĩa là kiểm soát trung ương, lỏng lẻo, yếu kém. Đặc điểm mới là bây giờ các tướng quân quân phiệt có vỏ khí
cận đại; đồng tình với các nhà cung cấp vỏ khí cho họ- đó là các cường quốc Tây
Phương- để mặc họ chỉ huy cả tiền của lẫn tài nguyên.
Quyền lực tăng thêm và tham vọng đế quốc của Nhật bổn là dấu hiệu chủ
trì ngoại quốc ở Tàu trong giai đoạn này. Nhật là thừa kế công cuộc xâm lăng Tàu, do các cường quốc Tây
phương gây ra vào thế kỷ thứ 19. Nhật đánh bại Tàu ở Triều Tiên- Cao Ly năm
1895. Như đã nói ở phần trước, Nhật cung cấp 50% quân lính
cho tám quốc gia đánh Quyền Phỉ - Boxers bao vây các sứ quán, có
nhiều ý nghĩa hơn là chúng ta thường nhận định ( trên quan điểm lịch sử ), vì
nó giúp Nhật bảo đảm uy quyền, được các cường quốc Tây phương nhìn nhận. Nhật
được vào câu lạc bộ các quốc gia cận đại, nổi bật tiếc thay, lại là nhờ những
lực lượng quân sự hửu hiệu. Nhật đánh bại Nga ở Mãn Châu năm 1905, lần đầu
tiên một nước Á Châu thắng như thế, rồi
Nhật bắt đầu biến Mãn Châu thành một trung tâm công nghệ trong vùng. Năm 193,
sau khi củng cố uy lực kinh tế mạnh mẽ ở
Mãn Châu, Nhật ngụy tạo ra Sự cố
Phụng Thiên - the Mukden Incident. Quân lính Nhật tràn ngập Mãn Châu và năm 1932, Nhật thiết
lập quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc - Manzhouguo. Thuộc địa Mãn Châu
trở thành căn cứ huấn luyện và bàn đạp cho quân lực Nhật tiến đánh tràn
nhập Trung Quốc, năm 1937. Nhật tiến xa thêm, chiếm đa số vùng Thái Bình Dương Á Châu, và chỉ mất vai
trò chủ chốt của mình là một cường quốc, khi bị Hoa Kỳ đánh bại hoàn toàn năm
1945. Do đó , không lấy gì làm ngạc
nhiên khi dân Tàu tri giác lo ngại, nhìn
thấy trước mọi quốc gia khác, xem Nhật vào thập niên 1910- 1920 là một
đe dọa nguy hiểm nhất cho Trung Quốc .
Sau khi Viên Thế Khải chết, một
chút ít trật tự có vẽ tiếp tục với chánh phủ Bắc Kinh do Đoàn Kỳ Thụy
- Duan Qirui làm thủ tướng. Nhưng năm 1917, một ông tướng tên là Trương
Huân- Zhang Xun chiếm Bắc Kinh, vào cung mời phế đế Phổ Nghi làm vua trở lại, sử gọi là “ Phục tích -
Manzhou Restoration “ ( có sự đồng tình bí mật của Khang Hửu Vi). Trương
cạo đầu, thắt đuôi sam - a queue và bắt mọi quân lính thuộc quyền để đuôi sam như hắn để tỏ lòng trung thành
với nhà Thanh. Phục tích chỉ gỏn gọn có
12 ngày. Đoàn trở lại chức cũ, khám phá có chống đối ở Quốc hội và tuyên bố sẽ
có tuyễn cử mới. Một số lớn nghị viên bỏ đi theo Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu, đã
tổ chức một chánh phủ đối thủ.
Uy quyền ở miền Bắc Trung Quốc lọt vào tay Bắc Quân ( Dương ) -
Northern Army , nhưng Bắc Quân cũng chia ra nhiều phe. Nhật ủng hộ phe Hoản
tỉnh An Huy - Anfu clique gồm
Đoàn Kỳ Thụy. Anh Mỹ ủng hộ
phe quân phiệt Hà Bắc ( phe Trực Lệ -
Zhili clique của Ngô Bội Phu - Wu Peifu ). Đứng giữa là phe Phụng Thiên- Mukden ,Mãn
Châu, do tướng quân phiệt mạnh nhất chỉ huy tên là Trương Tác Lâm- Zhang
Zuolin. Trước tiên, Trương ủng hộ phe An Huy, nhưng năm 1920 đổi
phe, chiếm Bắc Kinh cùng phe Trực lệ Ngô Bội Phu. Sau lại bỏ Ngô Bội Phu theo
phe Đoàn Kỳ Thụy, rồi theo Tôn Dật Tiên đang hy vọng thống nhất đất nước.
Trương được Nhật ủng hộ. Nhật xem Ngô Bội Phu là kẻ thù, vì Ngô tán thành
quyền lợi của Anh ở miền trung Trung Quốc. Năm 1922, lực lượng Trương Tác Lâm
bất ngờ hoàn toàn bị đánh bại. Trương phải nhục nhã rút lui về Mãn Châu, hứa là
không bao giờ trở lại phía Nam Vạn Lý
Trường Thành nữa. Sau đó Trương hợp tác với Nhật, nhưng bị Nhật giết chết năm
1928.
Ở phương Nam, Tôn Văn, Lục Vĩnh Đình, Đường Kế Nghiêu cùng tổ chức Quân - Chánh phủ, nhưng 3 người ý kiến khác
nhau. Tôn nhất định không nhận chánh phủ Bắc kinh, còn Lục và Đường thì muốn
Liên hiệp với Phùng Quốc Chương để chế ức Đoàn Kỳ Thụy. Tôn chỉ điều khiển có
một bộ hải quân. Còn các tỉnh Tây Nam như Lưỡng Quảng thì ở trong tay
Lục ( phe Quế ). Tứ Xuyên, Vân Nam ,
Qúi Châu thuộc Đường ( phe Điền ) ( theo Trung Quốc Sử cương, Đại Nam
xuất bản ở Huế 1958 ) .
Mỗi ông tướng đốc quân chiếm một
tỉnh, có khi hai tỉnh và tìm cách “mở mang bờ còi ”, hoặc uy hiếp chánh phủ
trung ương. Chép lại các tranh chấp đó là điều vô ích, nhưng cũng nên biết qua
hành động của họ. Họ là những ông vua con, bắt dân phải nộp thuế, có khi cho
ba, bốn chục năm sau ( như một quân phiệt ở Tứ Xuyên năm 1933 thu thuế đến năm
1974 );phải đi lính mà không trả lương cho nên lính phải cướp bóc của dân để
sống; do đó nơi nào cũng có cướp, (miền
Hà Nam có năm có tới 400 000 tên cướp).
Dân không còn làm ăn gì được hết, ruộng nương bỏ hoang, trường học đóng cửa
điêu đứng vô vùng. Các ông tướng đa số vô học, nhưng giàu kinh khủng, ăn nhậu,
xa xỉ, dâm dật, bắt cóc con gái lương dân tàn nhẫn vô cùng; tuy cũng có một vài
đốc quân khá như Đường Kế Nghiêu ở Vân Nam,
dân dưới quyền họ đở khổ hơn (
theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, 1997
).
Thuở ban đầu của đảng Cọng Sản
Tàu
Tưởng Giới Thạch |
Các
nhà trí thức, các nhà văn, các giáo sư viện đại học thường cảm thấy vô hiệu
trên sân khấu lịch sử, đặc biệt khi đối
đầu với các tướng đốc quân tư lợi và dốt
đặc. Tương
tự như thế, thuở ban đầu của Đảng
Cọng Sản Trung Quốc năm 1921 và những năm kế tiếp, biểu hiện quá ít về phương
diện con số và ảnh hưởng tuồng như đáng
buồn cười. Thế nhưng sự lảnh đạo của giới trí thức và sinh viên, ảnh hưởng của
họ đối với công luận mới ở Trung Quốc, và sự tăng trưởng sau đó của phong trào
Cọng Sản, chứng tỏ họ là đợt sóng mới của tương lai Tàu .
Cố tâm tóm tắt đơn giản những liên hệ phức
tạp, có thể nói rằng các Người Quốc
Dân ( Gia ) Cộng hòa - Republican Nationalists dưới sự lảnh đạo của Tôn Dật
Tiên và của Tưởng Giới Thạch đã thành công, với cọng sản giúp đở, vượt qua mặt
và vô hiệu hóa các tướng quân phiệt ( các nhà châm biếm sẽ nói là nhập họ vào
cùng gia đình ). Sinh viên và trí thức
thúc đẩy một tinh thần ái quốc, yêu nước mới.
Vì chưng nhiều người chuyễn qua Mác xít, họ đã tạo dáng cho tương lai
Trung Quốc, từ căn bản nông dân
trở lên . Đe dọa và thực tế uy
quyền của Nhật trong lúc đó, thúc
đẩy lòng yêu nước và ý thức quốc gia,
kháng cự thống nhất lại kiềm chế Người
Quốc Dân (Gia) - Nationalists , và gián tiếp hổ trợ Người Cộng sản- Communists vươn lên nắm uy quyền.
Những sự cố đặc thù trình bày những khuynh hướng này, khởi sự lúc Nhật
tuyên chiến với Đức, khi Thế Chiến Thứ Nhất mới bắt đầu. Nhật chiếm ngay
hải cảng Thanh đảo - Qingdao
ở Sơn Đông và các quyền lợi của Đức ở
tỉnh này. Năm tới, Nhật tiếp diễn bằng cách đưa cho Viên Thế Khải 21 Yêu Cầu - 21 Demands , theo 5 điều
khoản. Gồm luôn cả buộc Trung Quốc nhìn nhận chuyễn nhượng mọi quyền lợi của
Đức ở Sơn Đông cho Nhật, quyền giữ đất
và khai thác tài sản mỏ kim loại ở miền
Nam Mãn Châu và hoạt động chung ở Công ty Sắt miền trung Trung Quốc tại Hán diên bình - Han yeping. Nhóm yêu
cầu thứ năm đi xa hơn nữa, đề nghị cảnh sát chung , kiểm soát những nơi trọng
điểm ở Trung Quốc, quyền cung cấp cố vấn
và võ khí cho quân đội Tàu, cùng những ưu đải độc nhất về khai thác mỏ, đường
xe lữa, phát triễn hải cảng ở tỉnh Phúc
Kiến. Nếu thỏa thuận điều khoản 5 của
Yêu Cầu thì có nghĩa là Trung Quốc không còn độc lập nữa, mất hết
chủ quyền trong nước nhà. Viên Thế Khải, chống Nhật đã lâu năm, tiết lộ 21
Yêu Cầu của Nhật cho báo chí. Dù ủng hộ
Nhật khi Nhật về phe mình ở Thế Chiến,
các cường quốc Tây phương cũng thấy là
Nhật đã quá lố và đòi biết chi tiết.
Nhưng chỉ một mình Hoa Kỳ gửi một
kháng thư sang Nhật, về việc Nhật động chạm quyền lợi Hoa Kỳ và vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Khi Viên
bị bắc buộc chiều theo các Yêu Cầu, điều
khoản nhóm Yêu Cầu thứ 5 được bỏ sót. Tinh
thần chống kháng Nhật bùng lên khắp Trung Quốc.
Một thừa tố mới là sức lực sinh viên Tàu nhảy vào
chánh trị Trung Quốc ngày mồng 1
tháng 5 năm 1919, gọi là phong trào Ngũ
Tứ Vận Động. Ngày đó một cuộc mít tin lớn- mass meeting họp 3000
người ở Thiên An Môn- Gate of Heavenly Peace , Bắc Kinh, để chống các
điều khoản Hiệp Ước Versailles ( gần Paris- Ba Lê, Pháp ) và
chánh sách xâm lăng của Nhật. Đây cũng là biểu tình phản đối phe Hoản -
An Huy, đang kiểm soát chánh phủ miền Bắc. Sinh viên cũng khám phá ra rằng Nhật
đã chiếm đóng Sơn Đông, đã trình bày 21 Yêu Cầu và đã bảo đảm những mật ước năm
1917 cùng Anh , Pháp và Ý là Nhật được
chiếm giữ Sơn Đông vào thời ký hòa ước
Versailles. Hòa ước ký kết đúng như vậy.
Hoa Kỳ cũng liên hệ dù gián tiếp
hơn. Thỏa hiệp Lansing
- Ishii năm 1917, cũng công nhận là Nhật
có “liên hệ đất đai gần gủi - territorial proquinty ” Trung Quốc, cho nên Nhật có những “quyền lợi
đặc biệt ” ở nước Tàu. Đây là một tuyên bố mơ hồ, nhưng tỏ ra không
mấy tốt đẹp vào năm 1919 ở Trung Quốc.
Một trong những lý do các cường
quốc Tây phương mau lẹ tán thành nghiêng về phía Nhật vì Tây Phương xem Nhật là
đồng minh tốt đẹp nhất, hầu chống trả Nga
Bôn Sơ Vít ( Nga Sô Viết )- Bolshevik Russia. Tệ hại nhất khi sinh viên cũng
tìm thấy là năm 1918, chánh phủ Bắc Kinh
đã bí mật bán đứng và xác nhận những quyền của Nhật ở Sơn Đông.
Biểu
tình ngày 4 tháng 5 năm 1919 lọt khỏi
tầm tay chánh phủ. La ó vang rền: “Hủy bỏ 21 Yêu Cầu”, “ Đả đảo đế quốc Nhật
”, “Đả đảo chánh trị đòi uy quyền ”.
Nổi lọan khởi sự. Nhà bộ trưởng giao
thông bị đốt cháy. Từ ngữ của Lê Nin - Lenin kêu gọi rỏ ràng nhất : “ Hội
Quốc Liên - League of Nations chỉ là
một chánh sách bảo hiểm cho kẻ thắng trận, che chở lẫn nhau , xâu xé
con mồi ”. Chánh phủ đàn áp mạnh mẽ, bắt giam 32 sinh viên. Chánh phủ càng đàn
áp ( 30 học sinh bị giết và 1000 bị nhốt khám, theo sách Nguyễn Hiến Lê đã kể )
thì sức phản động càng mạnh thêm. Học sinh Bắc Kinh họp nhau thành một hội,
quyết định bải khóa; các giáo sư ũng từ chức để phản đối việc truy tố học sinh.
Phong trào lan tràn tòan quốc. Tới đầu tháng 6, giai cấp công thương, báo
chí, Tôn Dật Tiên và chánh phủ Canton cũng nhiệt liệt ủng hộ phong trào. Ở
Thiên Tân, tờ báo sinh viên, Chu Ấn Lai-
Zhou Enlai chủ biên, nắm lấy chủ trương. Rốt cuộc cuối tháng sáu,
chánh phủ phải nhượng bộ, bải chức những
tên bán nước (như Chương Tôn Tường công sứ Trung Hoa ở Nhật đã ký Hiệp Ước Sơn
Đông với bốn chữ “ Hân nhiên đồng ý- Vui vẻ đồng ý ”, Lục Tôn Dữ
thay mặt chánh phủ Bắc Kinh vay
tiền Nhật mua khí giới, Tào Nhữ Lâm, người ra lệnh ký hiệp ước với Nhật … ).
Toàn thể nội các từ chức. Đây là một chiến thắng vẻ vang cho tinh thần yêu nước
mới mẽ, do sinh viên chủ trì.
Không thể bỏ
quên vai trò của Đại học Bắc Kinh- Beida, viết tắt của Beijing daxue
, vì phong trào Ngũ Tứ Vận Động không chỉ là chánh trị và yêu nước mà còn
là một phong trào văn hóa và đại học Bắc
Kinh cái lò của của cách mạng văn hóa,
văn nghệ. Tiến sĩ thần đồng (mới 25 tuổi
đã được Thanh đình trọng dụng bổ vào viện Hàn Lâm ), văn sĩ triết học đã du học
ở Bá Linh - Berlin và Leipzig, Thái
Nguyên Bồi - Cai Yuanpei( 1867- 1940) nhận lời mời làm viện trưởng viện đại
học Bắc Kinh năm 1916, bỏ tệ lậu chỉ tuyễn
sinh viên hầu hết là con các quan lớn,
vô đại học thì được gọi là “đại nhân” liền dù dốt nát mấy cũng ra trường và làm
quan: tuyễn nhiều giáo sư sáng chói, trong đó phải kể đến khoa trưởng khoa văn chương là Trần Độc Tú
- Chen Duxiu ( 1879-1962 ), theo tài năng chẳng kể theo xu hướng nào; cho
sinh viên được tự do tư tưởng đúng theo
tinh thần các đại học Âu Mỹ. Từ năm 1912, Thái đã hô hào phải tôn trọng tự do tư tưởng, “vì giáo dục phải ở trên chánh trị… không bị
chánh trị kiểm soát” , đem tư tưởng Âu Châu về truyền bá ở Trung quốc. Trần
cộng tác với Hồ Thích - HuShi ( 1891- 1962 ) đề xướng viết văn bạch
thoại- colloquial written style (
bạch thoại là tiếng nói của dân chúng , còn cỗ văn thì phải học mới hiểu được ; ai đọc được bạch thoại thì
cũng hiểu được… ) và xuất bản tờ Tân
Thanh Niên - Xin Qingnian (La Nouvelle Jeunesse), đả đảo Khổng học thủ cựu, hô hào thanh niên phải có tinh thần độc lập,
phản kháng, óc tiến thủ, khoa học.
Hồ Thích theo đạo Tin Lành, biết về cỗ học, nhưng không thi cử, qua Hoa Kỳ
học ở các viện đại học Cornell và
Columbia từ năm 1910 đến năm 1917, xếp đặt cho thầy ông là triết gia John Dewey về Trung
Quốc giảng dạy cách giáo dục mới và lý thuyết thực dụng - pragmatism. Vào lúc này, những bài giảng dạy của Bertrand
Russell, nhà toán học và logic học - logician , có một ảnh hưởng rất
lớn trên thanh niên Tàu. Chỉ trong 3 năm
( 1919-1922 ), văn bạch thoại được toàn dân Tàu chấp nhận. Ngay bộ Giáo dục
cũng cho dạy văn bạch thoại khắp nước Tàu từ 1920. Cuộc cách mạng văn chương
Hồ-Trần hoàn toàn thành công. 400 triệu
người khỏi phải học một tử ngữ ( văn
chết ) , được học một sinh ngữ ( văn sống ), đở tốn biết bao công phu.
Lỗ Tấn |
Cộng tác với Nga Sô Viết
Vấn đề
Sơn Đông nóng bỏng gây ra cuộc Vận Động Ngũ Tứ,
được giải quyết ở Hội Nghị Hoa Thịnh Đốn - Washinton Conference 1921- 1922, theo tình huống một thỏa hiệp lớn
hơn. Các chánh khách Nhật ở thời điểm này bớt hiếu chiến, đã chịu chấp nhận vài
xếp đặt mới cho Thái Bình Dương. Thỏa
hiệp hải quân như đã ghi chép ở bài nói về nước Nhật , giới hạn những tàu chiến chánh theo tỉ lệ 3/5 giữa Nhật và Anh và 5 cho Hoa Kỳ , nhưng đồng thời cũng cho
Nhật an ninh thêm về căn cứ hải quân ở Thái Bình Dương. Một hiệp ước song
phương giữa Nhật và Trung Quốc hoàn trả
Sơn Đông cho Tàu kiểm soát và Thỏa Hiệp 9 nước được ký kết năm 1922 đúng
theo nguyên tắc Hoa Kỳ chủ trương là Mở Cửa - Open Door thương mãi cho mọi quốc gia ở Trung Quốc, kềm
theo việc tôn trọng bảo toàn lảnh thổ
Tàu. Tuy nhiên, những nhà lảnh đạo trẻ trung Trung Quốc lại có ấn tượng tốt hơn về đề nghị
của Nga Sô Viết năm 1918 ( xác
định năm 1920 ) bải bỏ mọi đặc
quyền do Nga Hoàng - Czar đạt được
trên những thỏa hiệp bất bình đẳng
ở thế kỷ thứ 19. Sự kiện Nga Sô Viết không đủ sức thực thi hay lợi lộc
nhờ các thỏa hiệp này, cũng không ảnh
hưởng gì đến niềm yêu chuộng mới , thích Nga,
của dân Tàu.
Năm 1920,
Gregory Voitinsky, nhân viên của Cộng
sản Quốc tế - Communist International ( Comitern ) đến Bắc Kinh , rồi Thượng Hải và thiết lập nơi đây một cơ quan báo chí và
một trung tâm phổ biến văn chương . Vài nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Cọng sản bắt
đầu, nhóm Hồ Nam
do Mao Trạch Đông lảnh đạo. Năm 1921, 12 đại biểu các nhóm này tụ họp
mệnh danh là Đại Hội
Đầu Tiên của Đảng- First Party Congress, ở Thượng Hải. Một người Hòa Lan kế
tiếp Voitinsky, Maring (Sneevliet), cũng như Mao Trạch Đông hiện diện ở các
phiên họp. Dù hết sức thận trọng, may mắn lắm các đại biểu mới thoát khỏi đột
nhập bắt bớ của cảnh sát Thượng Hải, phải chấm dứt thảo luận ở trên thuyền một
hồ tỉnh Triết Giang. Trần Độc Tú được bầu làm tổng thư ký đảng. Nhiều người nói rằng năm 1921, đảng viên
đảng Cọng sản Tàu chỉ có 50 người và tăng lên hai năm sau đến 120, rồi 432. Tôn Văn rất thực tế. Trong một số hội
nghị Quốc Đân Đảng ông nói Trung
Quốc chưa thể thực hiện chủ nghĩa Cọng Sản được mà hãy thực
hiện chủ nghĩa Tam Dân của ông đã. Năm 1923, Nga phái qua một ủy viên ngoại giao
Adolphe Joffe. Hai bên Nga Sô và Tàu
Quốc Dân ( Gia ) tuyên bố chung: Tôn chỉ
cho phép đảng Cộng Sản tự do hoạt động trong việc chiến đấu dân tộc Tàu giành
lại độc lập; Joffe cũng công nhận là
Trung Quốc cần được thống nhất và độc lập trước hết và Nga Sô sẳn sàng giúp
cuộc cách mạng dân tộc Trung Quốc, trong
việc tổ chức quân đội, đào tạo cán bộ tuyên truyền. Trước đó Nga đã cố tìm cách đặt gót chân vào Trung Quốc,
như khi tiếp xúc với tướng đốc quân Ngô
Bội Phu vì quân lực Ngô có vẽ mạnh mẽ; nhưng
sau đó tuyên bố là Ngô chỉ mạnh về quân sự, còn ý thức chánh trị thì
Ngô không đủ gì cả.
Mùa
hè năm 1923, Tôn phái một đại tá trẻ mà ông rất tin cậy và sau đó lấy em gái vợ ông là Tưởng Giới Thạch sang Mặc Tư Khoa - Moscow huấn luyện quân sự với Hồng Quân - Red
Army 6 tháng .Tưởng Giới Thạch đã học quân sự ở Nhật, nơi ông gặp Tôn, nay
sang Nga học cách hồng quân tổ chức,
đồng thời cũng học luôn cách hoạt động
của đảng Cọng sản Nga. Đảng KMT được phép làm thành viên mỗi phiên họp của
Comintern và hai cố vấn Comintern được gửi đến Canton (Quảng Châu) , Mikhail Borodin về
chánh trị và Galen về quân sự. Tưởng cũng
nên biết là Nguyễn Tất Thành ( Nguyễn Ái Quốc , sau này là Hồ Chi Minh lúc đó
làm thư ký riêng, thông ngôn và phiên dịch cho Borodin, Tàu gọi là Pháo La Đình, vì Nguyễn Ái quốc
giỏi cả 4 thứ tiếng Hán, Anh, Pháp, Nga). Một liên minh, Moscow tán thành sau đó thành hình giữa KMT
và Đảng Cọng Sản Trung Quốc - Chinese Communist Party , viết tắt là CCP. Ở
Đại hội Đảng CCP lần thứ hai - Second CCP Congress, Maring đã đề nghị các đảng viên CCP gia nhập
KMT và ở Đại hội Đảng lần thứ ba đồng ý, trừ Trần Độc Tú không đồng ý. Theo
quyết định này, đảng viên Cọng sản gia
nhập KMT theo tư cách cá nhân và họ đã
làm như vậy, nhưng đảng CCP vẫn giữ tư
cách riêng. Thật sự , đảng viên CCP theo qui tắc đảng không có quyền cá nhân, cho nên họ phải luôn luôn họp kín - caucus để quyết định đường lối đảng trên những quyết định đương thời, và như vậy
họ là một đảng riêng trong đảng KMT.
Điều này, thật cũng dễ đoán, sẽ dẫn tới nhiều rắc rồi về sau.
Rồi KMT
được xiết chặc và tái tổ chức theo mô hình Sô Viết. Nhờ Borodin góp phần chánh,
có sự cộng tác giữa Uông Tinh Vệ và Tôn
Dật Tiên, KMT tổ chức lại tập trung thành từng tổ, kiểm soát thư lại nghiêm
khắc, khiến cho đảng quyền uy tột đỉnh
trên mọi bộ dân sự và quân sự . Cũng nhờ sự giúp đở của Borodin, trường vỏ bị Hoàng
Phố - Whampoa được thành lập gần Quảng
Châu và Tưởng được bổ nhiệm làm
hiệu trưởng đầu tiên trường lục quân Tàu này.
Chu Ân Lai cũng lảnh một chân giáo sư chánh trị ( ? ) ở trường. Có một
cố gắng ý thức rỏ rệt truyền dần vào các lảnh đạo mới lục quân một tinh thần
yêu nước và thanh liêm, khác hẳn chiến đấu tự kỷ và vô nghĩa của các tướng đốc quân, quân phiệt. Với những
dấu hiệu đầy hy vọng này, giới lảnh đạo KMT sửa soạn thực hiện một mục đích Tôn
Đật Tiên đã hoài bảo khá lâu là Bắc Phạt- Northern Expedition, hầu thống
nhất quốc gia. Năm 1924, tướng đốc quân Phùng Ngọc Tường - Feng Yuxiang đánh
bại Ngô Bội Phu, chiếm Bắc Kinh. Tôn lên
miền Bắc để liên minh vói Phùng, nhưng không bao giờ trở lại miền Nam
nữa. Ông chết vì ung thư ở Bắc Kinh ngày
12 tháng 3 năm 1925 và trở thành một anh hùng quốc gia, được toàn dân Tàu kính
mến.
Bắc Phạt
Thánh 7 năm 1926 , KMT và CCP cùng tham gia Bắc Phạt, sẳn sàng tiến
lên từ Canton ,
dưới sự chỉ huy của Tưởng Giới Thạch ( 1888- 1975 ). Một đạo quân trong 6 đạo quân binh lính do KMT tuyễn chọn ; 5 đạo quân kia
do tập hợp lại những binh lính các tướng đốc quân lảnh chúa. Chỉ có một trung
đoàn là binh lính do Cọng Sản kiểm soát, nhưng phần góp chánh của CCP là mạng
lưới tân tiến các toán tuyên truyền mà
sự huấn luyện do CCP đảm nhiệm . Hoạt động của Mao Trạch Đông ở Hồ Nam, tỉnh
quê hương Mao, giữa tháng 8 năm 1926 đến
tháng 5 năm 1927 là một thí dụ tốt đẹp
của hiện tượng mới mẽ này, nghĩa là sự khích động và hướng kênh hửu hiệu bất
mãn nông dân. Mao báo cáo là CCP đã tổ
chức được 2 triệu nông dân vào hiệp
hội nông dân - peasant associations. Các hiệp hội này đòi hỏi giảm tô -
lowering of rents và thỉnh thoảng nổi dậy chống địa chủ - landlords.
Việc diệt quân phiệt dễ dàng nhất. Tưởng đến đâu thắng đấy . Dễ dàng vì đạo
quân ông được huấn luyện theo Nga, có kỷ
luật, có khí giới tốt của Nga giúp, các sĩ quan chỉ huy ở trường Hòang Phố ra
hầu hết có nhiệt tâm, có tư cách, họ hứa với nông dân sẽ giảm thuế điền, số lúa
góp cho tiểu điền ( giảm tô ), có người hứa sẽ chia đất nữa. Tưởng ra lệnh cho
quân đội “ không được cướp bóc , ăn cắp , phải sống đạm bạc, phải trọng dân”. Mao Trạch Đông sau này cũng ban hành những lệnh như vậy. Dân đã chịu bao nỗi khốn đốn với bọn quân
phiệt, vui vẽ ủng hộ Tưởng .
Chỉ
trong vài tháng, Tưởng chiếm được hai tỉnh Giang Tây và Hà Nam, rồi ông đưa một
đạo quân lên Hồ Bắc, tới Hán Khẩu đánh bại tướng quân phiệt Ngô Bội Phu, lúc đó
làm chủ các tỉnh dọc bờ sông Dương Tử. Tháng 10 năm 1926, Tưởng đã làm chủ Vũ
Hán, ba thị trấn giáp nhau là Hán Khẩu, Vũ Xương và Hán Dương, trung tâm
kỷ nghệ lớn nhất Trung Quốc, sau Thượng Hải. Tháng giêng 1927 , chánh phủ KMT di chuyễn về
Vũ Hán. Chánh phủ Vũ Hán càng ngày càng
bị phe tả KMT ngự trị, dưới quyền lảnh đạo của Uông Tinh Vệ, có cảm tình với
Cọng Sản . Phe hửu của Hồ Hán Dân, bộ trưởng ngoại giao, đông hơn, hợp tác
với những người theo Cọng Sản, rất ít, được Tôn Văn cho gia nhập KMT theo tư
cách cá nhân, nhưng không ưa họ. Tưởng tiếp tục tiến lên Thượng Hải tháng 3 năm 1927, không phải phí quân, chiếm
được Thượng Hải, nhờ công nhân đã nổi
loạn trước đó, do Cộng sản cầm đầu. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, bất thình lình
Tưởng tuyệt giao vói Cộng Sản. Mau
lẹ và bí mật vào bình minh, quân đội của Tưởng dùng sùng máy giết hàng trăm dân nghiệp đoàn, kể luôn cả các lảnh đạo Cọng
Sản. Nhiều nhà lảnh đạo cộng sản khác trốn thoát và rút vào vòng bí mật. Rồi Tưởng bắt tay với phe hửu KMT và xung
đột Quốc -Cọng, từ trước vẫn âm ỉ, nay nổ bùng ra ánh sáng. Tưởng luôn luôn
nghi ngờ lảnh đạo Cọng sản Trung Quốc từ đầu tháng 3 năm 1926,
khi ông giải tán Ủy Ban Đình Công Kông Kông, rất thành công, sa thải một số nhân vật Cọng sản quan trọng ở KMT,
cho rằng đảng CCP cơ bản là phụng sự quốc tế của tổ
chức Cọng Sản Quốc tế và sau đó
mới nghĩ đến những mục đích quốc gia của
KMT cho Trung Quốc. Đảo chánh của Tưởng
ở Thượng Hải khởi đầu một sự cố gọi là Khủng Bố Trắng - White Terror
chống lại phe tả của KMT và đặc
biệt chống Cọng Sản. Suốt năm 1927, làn
sóng khủng bố tràn lan ở Trung Quốc đến
khắp mọi thị trấn chánh. Hàng ngàn tay
hoạt động tích cực bị xử tử .
Bây
giờ Tưởng Giới Thạch chọn Nam Kinh làm thủ đô của chánh thể quốc gia (dân ), chẳng cần hỏi ý kiến của đảng KMT,
chỉ theo ý nguyện của Tôn Văn lúc
còn sốngv. Vậy là Trung Quốc có hai kinh đô : Vũ Hán của Uông Tinh Vệ và Nam
Kinh của Tưởng Giới Thạch và lẽ dĩ nhiên phe Tưởng động chạm rỏ rệt với
phe tả KMT, dưới quyền Uông Tinh Vệ ( còn có tên khác là Uông Triệu Minh
), đã được Quốc dân Đại hội Quảng Châu
đầu năm 1926 bầu làm chủ tịch 16 Ủy
viên Chánh phủ . Phe Uông tố cáo Tưởng cư xử phản động và hình tội
chống nhân dân, đòi sa thải Tưởng khỏi mọi chức trong đảng. Tưởng không thèm để
ý đến những tố cáo từ Vũ Hán Nhưng rồi
có sự lục đục trong chánh phủ Vũ Hán, vì cọng sản hoạt động mạnh quá, thợ thuyền đình công liên miên, có
người nghi ngờ Nga nhúng tay vào muốn lật đổ Quốc Dân Đảng, ( tỉ như chỉ dẫn Sô
Viết, từ một điện tín Stalin gửi cho M. N. Roy, một nhân viên người Ấn Độ
của Comintern, khẩn trương khuyến cáo võ
trang công nhân và nông dân , phát triễn “cách mạng nông thôn - agrarian
revolution ”… những chánh sách làm KMT mất hết sự ủng hộ của giới trung lưu
), nên chánh phủ phải tuyệt giao với Nga, đuổi Cọng sản ra khỏi phe KMT Vũ Hán, chuyễn phe tả nghiêng hẳn về
hửu, bắt bớ nhiều người Cọng sản. Stalin
đã tính sai nghiêm trọng tình trạng
Trung Quốc lúc đó ! Borodin, Roy và nhiều người khác gồm luôn cả Tống Khánh
Linh, góa phụ Tôn Văn trốn thoát sang Nga. Vài nhà lảnh đạo Cọng Sản Trung Quốc
cố gắng tổ chức nổi dậy theo lời yêu cầu của Moscow :
Lin Biao- Lâm Bưu ở Nam Xương - Nanchang, Mao Trạch Đông với nông
dân Hồ Nam ,
nhưng không thành công. Mao bị gạt ra khỏi bộ chánh Trị đảng - politburo
vì nổi dậy thất bại và trốn tránh ở khu rừng
núi gần ranh giới chung Hồ Nam - Quảng Tây.
Mục
đích chánh của Bắc Phạt là đưa các chế
độ tướng quân phiệt vào dưới cờ Quốc Dân ( Gia ), nhưng rào cản đã trổi dậy.
Trương Tác Lâm và các đồng minh ngăn
cản không cho Quốc Dân Đảng nới rộng uy quyền lên phía Bắc sông Dương Tử. Vài phụ tá của
Tưởng Giới Thạch đòi hỏi là Tưởng phải
giảng hòa với phe Vũ Hán của KMT. Để giúp giảng hòa, Tưởng xin từ chức Tổng tư lệnh Quân đội, tháng 8
năm 1927 qua Nhật . Lực lượng của Trương Tác Lâm và KMT
thay đổi chiều hướng nhiều lần. Uông Tinh Vệ dùng Quỉang Châu làm căn cứ , nhưng bị mất
đi nhiều uy tín vì nổi dậy tuyệt
vọng và cố gắng lần cuối của đảng Cọng Sản ở công xã Quảng Châu - Canton
commune . Nhưng nổi dậy đô thị
này thực thi chỉ thị của Moscow theo đường hướng chính thống Mác- Lê Nin ( Marxist - Leninist
) là vô sản thành thị phải là những nhà
lảnh đạo cuộc Cách mạng. Quân đội lảnh
chúa tướng đốc quân được gửi vào dẹp loạn, tái chiếm Quảng Châu sau 5 ngày.
6000 đảng viên cọng sản bị giết. Cọng sản bị
đuổi khỏi Quảng Châu. Nhưng mọi dấu hiệu cho thấy cần có một người
hùng cường lảnh đạo KMT và xứ sở. Chánh phủ mời Tưởng trở về. Ông cầm
quân trở lại cùng Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, Lý Tôn Nhân chia đường tấn công. Đầu năm
1928, kể như bình định xong, trừ khu Bắc Kinh. Trương Tác Lâm buộc lòng lui về miền Bắc . Sợ thiệt hại cho quyền
lợi của mình ở Sơn Đông và ở Mãn Châu, Nhật cho đổ bộ
nhiều quân lính lên Thanh Đảo, theo đường xe lữa tiến sâu vào nội địa.
Quân Nhật và quân Tàu đụng độ nhau, quân Tàu phải lui. Trương Tác Lâm, quân
phiệt Mãn Châu, giữ chặt Bắc Kinh để hy vọng thỏa hiệp với Quốc Dân Đảng. Nhưng
tinh thần quốc gia yêu nước của Tàu quá mạnh, khiến Trương cảm thấy thân Nhật
bất lợi cho mình, bỏ Nhật kéo quân về Mãn Châu,để cho Tưởng vào Bắc Kinh. Nhật
với óc thực tế bất chấp đạo lý,
cũng bỏ rơi Trương Tác Lâm, người mà Nhật che chở nhiều năm qua, kể từ khi Trương khởi sự là một tướng cướp
Mãn Châu, cho tạc đạn ( hay bom ? ) nổ
tan chuyến tàu xe lữa chở Trương trên
đường về Phụng Thiên. tháng 6 năm 1928.
Con ông là Trương Học Lương- Zhong
Xueliang, dù bị Nhật cảnh cáo nhiều lần, đã liên kết với chánh phủ Nam
Kinh, để cho ngọn cờ: “Thanh thiên bạch
nhật ” của Quốc Dân Đảng bay phấp phới ở Mãn Châu , dưới quyền Trương Học
Lương. Tháng 10 năm 1928, KMT dưới quyền Tưởng Giới Thạch thống nhất
đất nước một lần nữa, kiểm soát hầu như toàn thể nước Tàu, thủ đô là Nam Kinh.
Tưởng đổi tên Bắc Kinh ra Bắc Bình, có
nghĩa là dẹp xong miền Bắc. Danh tiếng như cồn, ngày 9 tháng 10 năm 1928,
ông được cử lên ghế Tổng thống .
Thập niên Quốc Dân ( Đảng ) 1928- 1937
Viết
sử thường là một đề tài nghiêng ngữa, tùy theo thời trang như mọi hoạt động của
con người. Trong nhiều năm, định giá công trình
của Tưởng giới Thạch và Quốc Dân ( Gia )
- Nationalists có khuynh
hướng bị hạ thấp. Có nhiều lý do. Thứ nhất là những thành tích không chối cải
được của Cộng Hòa Nhân Dân ( Cọng Sản
) Trung Quốc- People’s Republic of China đưa tới lòng tin quá mức
cho thẩm lượng của cộng sản , đơn
giản và không bàn cải sâu xa về thời kỳ
trước 1949, cũng như công cuộc vận động hành lang không được lòng dân ở Hoa
Kỳ trong các thập niên từ 1950 đến 1970,
đã làm mờ tối đi những khía cạnh tích cực chế độ của Tưởng.
Nhưng những ai có mặt tại Trung Quốc vào thập niên 1930, thảy đều nhớ lại sự khuây khỏa và nhiệt
thành khi dân chúng Tàu đón mời Tưởng
Giới Thạch, tương phản với thời kỳ buồn thảm trước đó, ủng hộ Tưởng thật lan
rộng. Thập niên Quốc Dân bắt đầu
với hy vọng lớn và thành tích cũng nhiều. Suy giảm lý tưởng không bác bỏ được và thời cơ tự kỷ vùng
dậy của KMT trong và sau Thế Chiến thứ
Hai, đã gây ra một ấn tượng nặng nề trong trí nảo những người ít biết trực tiếp cường độ của các vấn đề Trung Quốc. Nhật tấn
công và Thế Chiến Thứ Hai đang tới đặt ra một kỳ hạn không tránh nổi cho thời gian ngắn ngũi 10 năm Tưởng có được,
để tái thiết quốc gia sau Bình Bắc năm
1928. Những mục tiêu cơ bản chấm dứt hổn loạn lảnh chúa quân phiệt
và thiết lập một quốc gia cận đại, nhìn chung đều hoàn tất.
Tưởng
và các tay chỉ trích ông không còn đồng hành, khi nói đến những câu hỏi về ưu tiên. Tưởng, vì
tính nết và huấn luyện, tin vào những giải pháp quân sự, cảm giác là thống nhất đất nuớc dưới quyền ông phải đứng trước sự chống kháng
Nhật , cho nên ông chống cọng với nhiệt
tâm cuồng tín. Ông liên can đến một
mâu thuẩn bi kịch xa hơn nữa ,
khi trở mặt bài cọng năm 1927 và từ chối
tùy thuộc phe tả KMT, ông lại tùy thuộc
quá mức phe hửu và như thế ông chưa bao giờ đến được điểm
thực hành bất cứ một cải cách đất đai nào, để cải thiện số phận cơ cực của nông
dân Tàu. KMT là một phong trào căn bản
thành thị trong đó các chủ ngân hàng, các nhà cho vay nợ, và địa chủ đứng lên hưởng lợi nhất.
Dù
có nhiều vấn đề tài chánh cấp bách, chánh phủ Quốc Dân đã đủ khả năng cải thiện tình trạng thuế vụ.
Tống Tử Văn - T.V. Song (Soong), em rễ Tưởng, được cử làm Quản
trị viên ( Thống đốc ) Ngân Hàng Trung
ương Trung Quốc ở Quảng Châu , một trong 4 ngân hàng chánh của Trung Quốc, rồi
sau đó làm Tổng trưỡng Tài Chánh. Tống phục hồi quyền của Trung Quốc tự đặt thuế xuất cho mình, cho nên lợi tức
quan thuế tăng gia. Ông cải cách cơ cấu thuế khóa, thi hành nhiều biện pháp
cũng cố tiền tệ. Đồng thời một khoản lợi tức không cân đối, có khi đến 1/3,
dùng để trả tiền lời ( lãi) quốc trái;
nhiều chức quyền nhận những tiền lời cao
quá mức trên trái phiếu chánh phủ , có khi đến 40% .
Xa lộ được mở mang nối
nhiều thị trấn và mở rộng đến vùng xa xôi hẻo lánh. Công tác làm đường xe lữa ít hơn, nhưng hoàn
tất đường rầy Võ Xương - Quảng Châu năm 1936 ,
có nghĩa là một đường xe lữa chạy dài từ Bắc Kinh đến Hồng Kông. Tổ
hợp Hàng Không Quốc gia Trung Quốc thiết
lập năm 1930. Sau những cơn lụt tai hại ở thung lũng Dương Tử, làm 100 000
người thiệt mạng, một hệ thống bảo tồn được làm xong năm 1932. Một dự án dẫn
thủy tưới ruộng nương, rất có lợi cho tỉnh Thiểm Tây, nhưng đó chỉ là một giọt
nước vào thùng rỗng, sau trận đói 1929- 1931 tai hại cho 20 triệu người ở 9
tỉnh miền Bắc. Mặc dầu những cố gắng lớn lao về giáo dục và cận đại
hóa, không thể một sớm một chiều thay đổi Trung Quốc. Rất nhiều việc sai niên
đại và điều dị thường. Các tướng
quân phiệt sống sót trồng thuốc phiện ở
vùng xa trung tâm. Tỉnh Tây Bắc Cam Túc-
Gansu
có hàng loạt thuế khóa đánh trên nông dân nghèo. Chánh phủ trung ương duy trì
một quân đội 5 triệu người và tiêu phí 80% ngân sách cho quân đội .
Chánh
phủ làm rất ít những cải thiện điều kiện của nông dân, nhưng vài công trình
tiền phong đã thực hiện tái thiết nông thôn, của YMCA cà các cơ quan Thiên Chúa giáo. Tiến sĩ James
Y. C. Yan được công nhận về phát triễn giáo dục đại trà cho nông dân, gồm
nông học, tổ chức thị trường, và hợp tác
xã nông nghiệp. Ủy Ban Trung Quốc Giảm Bớt Nạn Đói thu thập 500 triệu đô la Mỹ
cho bảo tồn các sông ngòi , đào giếng
nước , xây dựng đường xá và phân phối thực phẩm. Trong số những công trình văn hóa tân tiến thời bấy giờ , có thể kể ra việc đào khảo cỗ thời vua
Thang - Shang dynasty ở An Dương
- Anyang , việc thiết lập Hội Nhà
Văn Phe Tả - League of Left Wing Writers
năm 1930 ( chứng tỏ KMT không phải là độc đoán ), Quách Mạt Nhược -Guo Morou
xuất bản năm 1932 tập « Khảo cứu
Xã hội Cỗ Trung Quốc »
, Hội Hóa Học ( năm 1933) và Hội Toán học ( 1935) Trung Quốc thành lập.
Nghiên cứu Sinh Hóa học - Biochemistry đạt mẩu mực quốc tế công nhận năm
1938.
Thấy
Cọng Sản ở những vùnh họ kiểm soát cố tạo cho dân chúng một nếp sống mới , nên
Tưởng Giới Thạch cùng vợ Tống Mỹ Linh- Song
Meiling , năm 1934 cũng phát động
phong tào Tân Sinh Hoạt - New Life Movement , một cập nhật đạo đức Khổng Giáo truyền thống ( đề cao lễ, nghĩa, liêm, sĩ)
với vệ sinh cận đại. Ở công sở
kỷ luật thay lười biếng , cấm ăn hối lộ.
Cấm hút thuốc phiện , cấm cả hút thuốc lá nữa, cấm khiêu vũ, đóng cửa
hết các thanh lâu, cấm cờ bạc. Ăn mặc
phải chỉnh tề mà giản dị , sạch sẽ, cấm nhổ bậy, ăn uống phải thanh đạm và điều
độ, cài khuy áo đàng hoàng, phải cần lao, tiết kiệm trong các tang lễ, hôn nhân
v.v… Tóm lại phải sống đời khắc khổ như Tưởng Giớii Thạch vậy đó ! Thành
công 4 năm đầu, rồi ai cũng chán, quên hết.
Nữ sĩ Hàn Tú Anh ( Han Suyin )
trong hồi ký « Một mùa hè
vắng bóng chim » , chồng là một
cấp tá trong quân đội Tưởng, đã chép lại
những bê bối của Quốc Dân Đảng, của công chức cao cấp, quân nhân và nhất là cảnh khổ của dân chúng.
Chính Tưởng cũng công nhận là phong trào Tân Sinh Hoạt đã mất hết nhuệ khí sau vài năm, và rất ít ảnh
hưởng trên dân chúng. Nhưng Tân Sinh
Hoạt đã được quan niệm đứng đắn, kỷ lưỡng để tạo ra một loại công dân Tàu mới . Các đặc điểm
kỷ luật và vệ sinh của phong trào
sau này được Cộng Hòa Nhân Dân hiện nay
thực hiện thành công hơn và trong một
thời gian dài hơn.
Các
sự cố chánh trị và quân sự ở thập niên Quốc Dân Đảng xoay quanh hai vấn đề Cộng Sản và Nhật. Tưởng Giới Thạch cũng biết
rỏ là Nhật đang đe dọa miền Bắc , nhưng ông nghĩ rằng trước tiên ông có thể
giải quyết đe dọa Cọng Sản ở nội địa.
Giữa các năm 1930 và 1934, ông
bao vây và chiếm được căn cứ Mao thiết lập ở giải núi Kinh Cảng
( ?) - Jinggang ở miền Nam Trung Quốc. Nơi đây , Mao hợp lực với Chu Đức - Zhu De
và Lâm Bưu - Lin Biao . Sau đó cả
Ủy Ban Trung Ương đảng Cọng Sản song song với Chu Ân Lai, cũng phải rời bỏ
Thượng Hải và đến tụ họp ở đó. Họ phát triễn chiến thuật du kích, rất hửu dụng
cho Cọng Sản Tàu sau đó.
Tưởng tấn công Cọng Sản Tàu 5 lần. Lần thứ nhất cuối năm 1930 với 100 000 quân, bị thua.
Lần thứ nhì, đầu năm 1931 dùng 200 000 quân do Hà Ứng Khâm chỉ huy cũng
bị thua. Lần thứ ba, đích thân Tưởng
Giới Thạch chỉ huy 300 000 quân, từ
tháng 7 đến tháng 9 năm 1931, tuy Tưởng tuyên bố thắng trận Cao Hưng( ? )
- Gaoxing tháng 9 , nhưng thật sự đôi
bên thiệt hại năng nề và Cọng sản Tàu
chuyễn căn cứ về miền Nam Giang Tây ; Hồng Quân- Red Army
không bị tiêu diệt. Lần thứ tư, mùa xuân năm 1933, 250 000 quân chánh phủ cũng thất bại. Lúc
này, sau Sô Viết Tàu thành lập đầu tiên năm 1931 ở Thụy Kim - Ruijin,
tỉnh Giang Tây , những Sô viết Tàu khác đã được thành lập thêm ở các tỉnh Hồ
Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Cuối cùng, tấn công lần thứ năm, khởi
đầu tháng 10 năm 1933 với 700 000 quân ( Hồng Quân chỉ có 150 000 quân ), cùng sự giúp đở then chốt
của tướng Đức Hans Von Seecht, thuộc bộ Chỉ huy Tối cao Đức Hitler phái sang, căn bản là dự án hệ thống bao vây và dần dần bóp nghẹt kinh tế
vùng Cọng Sản kiểm soát bằng các công sự bê tông ngầm - pillboxes, đồn
bót, điểm kiểm tra- checkpoints khắp mọi con đường. Sau một năm kháng cự
kịch liệt, Cọng Sản Tàu thấy nguy vì thiếu gạo , thiếu muối ở rừng núi …, bộ
chỉ huy Cọng Sản quyết định tháo vòng vây càng ngày càng thu hẹp, và mùa
thu năm 1934 , khoảng 90 000 hồng quân
tháo chạy ( vài người nói là 130 000 ), chia ra làm 5 nhóm và sau lại nhập lại
cùng nhau, để bắt đầu cuộc « Vạn
lý Trường Chinh, Tàu gọi là Trường Hành - The Long March ».
Vạn lý Trường Chinh ( Trường Hành)
Đây là một cuộc vừa chạy vừa chiến đấu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Quốc , có lẽ trong cả lịch sử nhân loại nữa, làm cho Tây phương phải thán phục. Từ tháng 10 năm 1934, khi đạo quân Mao bỏ Giang Tây đến tháng 10 năm 1935 mới tới Thiểm Tây, mất một năm vượt được 6000 dặm Anh ( có sách nói 10 000 km , sách khác nói 12 000 km ), băng qua 24 sông lớn, 18 ngọn núi, 7 ngọn luôn luôn phủ tuyết, một cánh đồng cỏ hoang 10 ngày không gặp bóng người. Họ đi qua 12 tỉnh và chiếm đóng 62 thị trấn. Khi đi, 100 000 người , khi tới Thiểm Tây chỉ còn 30 000 ( có sách nói 7000 - 8000 ). Mất mát không những vì những trận đánh nhau với quân địa phương và quân KMT, mà còn vì đào ngũ ( cũng có một số nông dân gia nhập đoàn ) hay cố tình để lại phía sau hầu tổ chức cách mạng ở thị trấn hay làng xã dọc đường. Có cả thảy 15 trận đánh quyết liệt và mỗi ngày đều có giao chiến nhỏ . Điều đáng ngạc nhiên là các chiến sĩ và dân chúng phải rải rác, cách nhau, để khỏi bị phi cơ Tưởng bắn, thả bom: thành thử cả đoàn dài tới 100 km , nhưng tiến trung bình 24 dặm Anh ( 38.6 km một ngày). Họ phải bện cỏ làm dép, có khi phải đi chân không , qua đèo qua suối, qua hai con sông Dương Tử và Đại Độ thác chảy rất mạnh họ phải kết bè ( chết đuối rất nhiều). Thoạt tiên mục đích trường hành là thoát hiểm khỏi bị bắt và con đường lựa chọn nhiều quanh co, bước ngoặt bất ngờ . Nhưng tháng giêng năm 1935, quân Mao ngừng lại và dưỡng sức ở Zunyi, tỉnh Quý Châu - Guizhou và Mao triệu tập hội nghị Đảng. Quan niệm táo bạo của Mao « Bắc tiến để đánh Nhật» được đảng chuẩn y. Mao được bầu làm chủ tịch bộ Chánh trị, trở thành lảnh đạo Cọng sản Tàu. Thêm vào giá trị tuyên truyền khắp Trung Quốc của khẩu hiệu kháng Nhật, di chuyễn về phía Bắc còn thêm ưu điểm là nối kết được với Sô Viết Thiểm Tây và đặt Hồng quân Tàu và lảnh đạo đảng ở một vùng Tây Bắc họ có thể tiếp xúc dễ dàng với Nga Sô Viết - USSR. Nhưng đi bộ đến Thiểm Tây thật gian nan vô vàn. Lực lượng Mao xuôi Nam, rồi về Tây ở Vân Nam, rồi chuyễn lên hướng Bắc. Lảnh tụ Trương Quốc Tạo - Zhang Guotao không đồng ý lên Thiểm Tây, đưa lộ quân cọng sản thứ tư đi về Bắc theo một đường khác. Quân Mao vượt qua sông Kim Sa - Gold Sand River ở các núi xa xăm miền Tây tháng 5 năm 1935, mất 8 ngày đêm mới vượt được qua sông, không còn sợ quân Tưởng đuổi theo sát gót nữa. Nhưng trở ngại thiên nhiên lại thêm kinh khủng. Khi đến sông Đuđu, chỉ có một cầu treo mà ván đã bị lấy đi và phía cuối lại có một đồn bót trấn giữ. 12 cảm tử tình nguyện trang bị gươm và lựu đạn, có súng liên thanh bảo trợ, leo dây chuyền khắc phục toán quân giữ đồn, đóng lại ván trên cầu cho quân Mao qua cầu. Đồng cỏ hoang, bùn lầy hôi thối là trở ngại khó khăn nhất . Đồng hay bị mưa , mưa đá, gió thổi ù ù và lạnh ngắt ban đêm. Muốn tránh khỏi bì chìm ngập trong bùn, phải ngũ đứng lưng dựa nhau, từng cặp một. Mất mát lớn lao, nhưng lực lượng Mao tiến tới qua nhiều dãy núi khác và qua hai dòng quân thù, để an toàn gặp hồng quân lộ 15 ngày 20 tháng 10 năm 1935 . Ở đường khác Mao, lộ quân thứ 4 của Trương Quốc Tạo thiệt hại năng nề , nên bị trách phạt vì chiến lược lỗi lầm này. Đảng đưa ra xử năm 1937 và Trương bị đi « nghiên cứu sửa sai » nên ông bỏ đảng theo KMT.
Trong
khi đó de dọa của Nhật càng thêm áp lực
hơn bao giờ hết . Bóng tối của xứ Mặt Trời Mọc - the Rising Sun rỏ rệt nhất ở miền Bắc Trung Quốc. Nội
Mông - Inner Mongolia đã rơi vào quỷ đạo Nhật. Tưởng bổ nhiệm Trương Học Lương, con Trương
Tác Lâm làm phó tổng chỉ huy bài trừ quân giặc cướp, có nghĩa là phải diệt trừ
Cọng sản. Nhưng Trương lại lo ngại cho Mãn Châu, quê hương gia đình ông ,
hơn. Và binh lính của Trương lại bị ảnh
hưởng ý tưởng chống Nhật của cọng sản,
Tưởng Giới Thạch không bao giờ ngờ
tới. Cho nên khi Tưởng đến Tây An phối
hợp chiến dịch bài trừ Cọng Sản, cùng với vài tướng và 200 vệ binh , ông bị
Trương và binh lính Trương bắt giữ, vệ binh Tưởng bị giết sạch . Tính cách bất
ngờ của cuộc đảo chánh Tây An này là một cú sốc lớn cho chánh phủ Nam Kinh. Đảo
chánh trình bày cho Tưởng yêu cầu bải bỏ tấn công CCP và hai lực lượng Quốc- Cọng chung sức nổ lực cùng mọi dân Tàu chống Nhật xâm lăng.
Vài nguời muốn giết Tưởng tức khắc.
Kẻ khác cho rằng chỉ có Tưởng mới
đủ uy tín làm điểm tập hợp phần lớn nước Tàu để chống Nhật. Chu Ân Lai, đại
diện CCP ở điều đình, nhận thức được
ngay điểm này và
đưa ra quan điểm đường lối bấy
giờ của Comintern là thành lập một Mặt
trận Thống nhất Chống Đế quốc, đúng như đề nghị của Trương Học Lương.
Tưởng miễn cưởng chấp nhận các điều khoản của CCP và của Lương
và được thả ra đúng ngày Giáng Sinh 1936. Trương Học Lương theo Tưởng về Nam
Kinh, bị bỏ tù mau lẹ sau khi nhận lỗi, rồi bị kiểm soát chặc chẻ nhưng được
đối đải tử tế ở Nam Kinh và sau đó ở Đài Loan. Ông bị quản thúc tại gia 55 năm,
dần dần trở thành một anh hùng quốc gia Tàu, cuối cùng chết ở Honululu, năm
2002, thọ 100 tuổi.
Chiến tranh với Nhật và Thế Chiến Thứ Hai
Ngày nổi bùng Thế Chiến Thứ
Hai thay đổi tùy theo lục địa. Theo Mỹ đó là ngày 7 tháng chạp năm 1941, ngày
Nhật tấn công Trân Châu Cảng - Pearl Harbor. Đối với Âu Châu, Thế Chiến bắt đầu từ năm 1939 và đối với dân
Tàu, đó là năm 1937. Có chứng cớ rỏ rệt
là Nhật đang tăng cường quân đội Quang Đông - Guandong Nhật ở Mãn Châu Quốc là một đề phòng chống lại các
tham vọng của Nga ở Viễn Đông. Đúng là
Nga duy trì nhiều quân ở các tỉnh Nga
miền Đông hơn là quân Nhật ở Mãn Châu Quốc và quân Nga cơ
giới hóa cũng mạnh hơn. Cũng đúng là đã
xảy ra nhiều cuộc chạm súng ở biên cương
và thử sức giữa Nga và Nhật ở biên giới
Triều Tiên - Trung Quốc năm 1938
và năm 1939 ở Nội Mông. Ở cả hai trận đụng độ này, Nga thắng hẳn. Thật
khó tin rằng, những hành động của Nhật ở
miền Bắc Trung Quốc chỉ có mục đích đơn giản là bảo đảm
hậu phương mình.
cũng như sẳn sàng chống đở với Nga. Tuồng
như Nhật có những mưu đồ suy tính kỷ
lưởng về Trung Quốc và chờ thời cơ thuận tiện đánh Tàu . Rất
khó định giá chánh sách Nhật lúc đó, vì
chính Nhật cũng không biết phải lựa chọn đường lối nào cả. Lục Quân và hải quân Nhật từ
thập niên 1930 đến vụ Trân Châu Cảng hành động chồng xéo nhau và trên những hế
hoạch khác nhau. Bộ Ngoại Giao Nhật
cũng không luôn luôn được quân đội thông tin đầy đủ về các dự án bí mật chiến tranh. Đại doanh nghiệp Nhật đã đầu tư lớn lao ở Mãn Châu Quốc, nhưng không nhận được lợi
tức thỏa đáng. Tàu cương quyết tẩy chay hàng hóa Nhật chống xâm chiếm Mãn Châu đã tỏ ra rất thành công và xuất khẩu Nhật giảm đi rỏ rệt. Các sĩ quan quân đội Guandong ở lục địa yêu
nước quá khích , có khuynh hướng qua mặt
các chỉ huy họ ở bộ Tổng Tham Mưu
Quân Đội Thiên Hoàng tại Tokyo .
Cho nên không biết rỏ là mọi cuộc tấn công Trung Quốc bấy giờ là chánh sách cân nhắc kỷ càng hay là bốc đồng tại chỗ.
Quân
đội Nhật đã tạo dựng một chế độ tự
trị Đông Hà Bắc ( Hà Bắc tên là tỉnh
Trực Lệ trước thời Quốc Dân Đảng ) giữa
biên cương Sơn Hải Quan - Shanhaiguan và Bắc Kinh . Nhật muốn đi xa hơn nữa, chiếm
5 tỉnh miền Bắc là Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn
Tây, Tuy Viễn- Suiyuan và Nhiệt Hà( ? ) - Chahar. Biến chúng
thành một quốc gia bù nhìn mới. Ngọn lữa chiến tranh Trung - Nhật lúc đầu cón
bé nhỏ. Ngày 6 tháng 7 năm 1937, Nhật tập trận ở ngoại ô Bắc Kinh, đổ lỗi cho
Tàu đã bắt cóc một lính Nhật. Dù sau đó hắn đã trở về , Nhật vẫn làm to
chuyện và đòi Tàu phải rút khỏi vùng .
Trung Quốc không chịu. Hôm sau
súng nổ , khi quân Nhật tiến qua cây cầu
bắc qua rạch Lư - Lư Cầu Kiều, Tây phương gọi là cầu
Marco Polo. Cả hai nước đều muốn giải quyết êm đẹp vụ này, nhưng khi đang điều đình thì
súng nổ ở nhiều nơi khác. Chánh phủ Nam Kinh không nhượng bộ. Nhật tấn công
khắp nơi, xua quân nhiều đợt từ Mãn Châu Quốc, thả bom dữ dội nhiều tỉnh miền
Bắc Trung Quốc . Hải quân Nhật thả bom Thượng Hải . Nhật tiến rất mau về phía Sơn Đông , Sơn Tây,
Tuy Viễn , nhưng khi tới Thượng Hải thì gặp sự kháng cự mảnh liệt. Tưởng đưa các
đoàn binh thiện chiến nhất vào đó , chặn được
quân Nhật non ba tháng trời mặc dầu quân Nhật đông hơn, lại có nhiều phi cơ và chiến xa. Tháng 12 năm 1937, Nhật chiếm Nam Kinh, hảm
hiếp, tàn sát dân chúng dã man vô cùng.
Hán Khẩu và Quảng Châu thất thủ
tháng 10 năm 1938. Tháng 11, thủ tướng
Nhật Fumimaro Konoye tuyên bố là Trung Quốc đã bị đánh bại và Nhật
thiết lập « Một Nền Trật Tự Mới ở Đông Á » sau gọi
là « Khối Thịnh Vượng Chung - Co-Prosperity Sphere » cho toàn
vùng. Tháng 12 năm 1937, Nhật đã thiết lập
« Chánh phủ Lâm thời Trung
Quốc » bù nhìn ở Bắc Kinh. Cuối năm 1938, Nhật đã hoàn tất giai đoạn đầu
của chiến tranh : quân Nhật đã chiếm mau lẹ mọi thành phố, thị trấn Trung Quốc từ các đồng bằng đến các rào cản núi non miền Tây. Còn KMT
kiểm soát miền Tây Nam và CCP kiểm soát miền Tây Bắc. Có rất nhiều hoạt
động du kích Cọng Sản lảnh đạo ở các tỉnh
Hà Nam, Triết Giang, Sơn Đông và
nhiều nơi khác giữa hai dòng quân Nhật kiểm soát. Chính người Nhật cũng phải nhận rằng họ
không làm chủ được trọn một miền nào cả.
Hể họ chiếm được khu nào thì du kích quân bao vây họ liền . Cách vài cây
số hai bên các đường xe lữa là khu vực du kích rồi, cầu thường bị phá , xe lữa
bị mìn. Tóm lại y như ở Việt Nam những năm 1946 -50, khi Pháp mới tái
chiếm, gần như tòan thể dân Việt đòan
kết kháng Pháp thực dân. Tháng 12 năm
1937, chánh phủ Tưởng thay đổi chiến lược, sau khi mất Hán Khẩu, dời chánh
phủ về Trùng Khánh - Chongquing, có nhữ ng hẻm núi sông Dương
Tử che chở, « lấy không gian đổi
thời gian » , bỏ những nơi áp lực
Nhật mạnh , nới rộng trận địa vào hậu phương, kéo dài thời gian để làm cho quân
địch hao mòn.
Hoạt
động du kích tiếp tục ở giai đoạn hai
trong chiến tranh Trung -Nhật
1939- 1941 , không mấy thay đổi vị trí quân sự ,nhưng có nhiều vận động
chánh trị. Uông Tinh Vệ, bi quan về cơ may Trung Quốc, nhận làm thủ tướng chánh
phủ bù nhìn Nhật dựng lên ở Bắc Kinh, năm 1940. Trùng Khánh bị phi cơ Nhật tấn
công, dội bom liên miên ; dân chúng can đảm ẩn núp ở vách đá và hầm đào.
Tưởng Giới Thạch không đủ sức đánh trả lại Nhật. Chiến tranh trở thành bất phân thắng bại. Mặt Trận Thống nhất với
CCP nay đã tan vỡ và Tưởng dùng quân
giới hạn vùng đảng Cọng Sản kiểm
soát ở Tây Bắc Trung Quốc. Du kích chỉ là những điểm kim chích nhỏ, nhưng quá
nhiều sau một số năm, khiến chúng trở
nên đau đớn và bắt đầu làm cố gắng quân
sự Nhật chảy hết máu . Chánh phủ Tokyo bối rối vì « Sự Cố Trung Quốc » kéo dài không
dứt , một cuộc chiến tranh không khai chiến thời cận đại.
Hoa
Kỳ cũng có thể bị lương tâm cắn rứt, vì quyền lợi doanh
nghiệp đã tiếp tục cung cấp từ 1937 đến 1940
sắt vụn và dầu lữa cho cố gắng quân sự Nhật. Đây là một chánh sách cận
thị. Cuối cùng tháng giêng năm 1941, chánh phủ Hoa Kỳ đặt cấm vận xuất
khẩu sắt vụn sang Nhật, biết rằng nhũng
sự cố đang xoay vần, vì tháng 12 năm 1940 cả Anh Quốc lẫn Hoa Kỳ đểu cảnh cáo là công dân không cần thiết phải tản cư khỏi Đông Á. Tháng 2 năm 1941, Tổng chỉ huy quân
đội Thiên Hoàng không chờ đợi thêm nữa về giải quyết Sự Cố Trung Quốc , lấy
quyết định nới rộng chiến tranh đến Đông Dương. Một phần mục tiêu Nhật là
chiếm Nam Dương thuộc Hòa lan -
Dutch East Indies , để đến nguồn dầu
lữa. Ngày 26 tháng 7, Hoa Kỳ thực thi đe
dọa trả đủa nếu Nhật đưa chiến tranh xuống miền Nam, chận đứng xuất khẩu các
sản phẩm dầu lữa và đông giá mọi tích
sản Nhật ở Hoa Kỳ. Hải quân Thiên
Hoàng phụ thuộcc nặng nề nhập khẩu dầu lữa, nên tháng chín , Nhật lấy
quyết định khai chiến với Hoa Kỳ và Anh ở Thái Bình Dương. Theo sau các cuộc tấn công Trân Châu Cảng và
Manila ( Phi Luật Tân ), đánh chìm hai
chiến hạm Anh quan trọng Prince of Wales và Repulse ở ngoài khơi Singapore, chiến tranh Ttrung -N hật nay rộng lớn hơn,
đi vào giai đoạn thứ ba. Nay Tưởng Giới
Thạch có nhiều đồng minh uy vũ, ông chờ
đợi đã khá lâu .
Thế nhưng giai đoạn chiến tranh cuối cùng rất buồn thảm
và thất vọng cho dân Tàu. Đồng minh
không thay đổi gì các sự kiện địa
lý hay chánh trị Trung Quốc ! Tưởng
hiểu rỏ cách xây dựng ( 5 triệu
quân cầm súng ở giai đoạn Trùng
Khánh) quân đội chính thống,và là một
chuyên gia tài giỏi về mặc cả chánh trị,
nhưng Tưởng có rất ít ý kiến, ngờ vực sâu xa
bất cứ chánh sách nào võ trang nông dân, cho chiến tranh du kích. Trước
hết là ông hề làm điều gì với nông dân cả, trong khi cọng sản Tàu đã rút được
nhiều kinh nghiệm biết tận tường nông
dân suy nghĩ, khai thác khả năng và nâng
cao ý thức chánh trị của nông dân.
Lạm
phát là vấn đề chánh làm phiền nhiễu cho chánh phủ KMT ở Tây Nam . Năm 1944
, đồng quan kim Tàu- Chinese yuan chỉ còn giá trị 1/500 giá trị trước chiến tranh năm 1937. Nghèo đói
và khốn khổ tràn tới giới trung lưu và công chức , đã bán hết mọi tài sản . Ai
nấy đều muốn bán rong ảnh hưởng , quyền uy, khiến cho hối lộ và tham nhũng đầy rẫy. Thống
hận chống chánh phủ và chức quyền giàu
sang mỗi ngày một tăng gia và thêm cay đắng.
Hiện diện của cung cấp vật dụng chiến tranh của Đồng Minh , xe vận tải, xăng nhớt,
ra điô, vỏ khí trước tiên từ Con Đường Miến Điện - Burma Road đem tới và chở máy bay sau đó, khỏi qua các rặng núi
hiểm trở, từ Ấn Độ càng làm cho tham nhũng ở Trùng Khánh tệ hại
thêm hơn .
Nhật bị dội bom nguyên tử, đầu hàng ngày 14
tháng 8 năm 1945. Khuây khỏa và hy vọng mới có cơ nhìn thấy, nhưng ngay đó bất
đồng chớm dậy ở Trung Quốc. Ai là người
có quyền nhận Nhật đầu hàng về vũ khí trang bị và quân lính ? Tưởng
Giới Thạch tuyên bố mình là người độc nhất, trong khi CCP mà võ khí là khẩn thiết
cho cuộc chiến đấu họ có ý định
tiếp tục , tiến tới thu thập khí giới, vật liệu ở vùng CCP kiểm soát. Sau khi hai tướng Sillwell và Wedemeyer, tham
mưu trưởng cho Tưởng không thuyết phục nổi Tưởng, Hoa Kỳ gửi tướng George C.
Marshall cuối năm 1945 đến điều giải Quốc - Cọng. Một cuộc ngưng bắn khó khăn
giữa CCP và KMT được xếp đặt tháng giêng
1946. Hoa Kỳ giúp Quốc Dân chuyên chở
quân trở lại các thành phố, thị trấn chánh Trung Quốc để tái kiểm soát cả nước Tàu. Chánh phủ Tưởng trở về Nam Kinh và Trung Quốc
được quốc tế nhận là một cường quốc,
chiếm một thành phần quan trọng trong việc thắng Nhật. KMT
hơn hẳn CCP về khí giới và cung
cấp. Nhưng các đồn quân KMT chỉ giữ thế
thủ , gìn giữ tài nguyên thay vì hành động mau lẹ và cần thiết để tái lập kiểm soát. Quân KMT bị kiềm chế vì tranh dành nhau, và
vì Tưởng Giới Thạch không chịu chia sẽ quyền một mình làm chánh sách. Khi lạm phát tăng gia, cả quân sự lẫn dân sự
mỗi ngày mỗi mất thêm tinh thần và đào ngũ sang CCP. CCP ý thức được tình huống nhiều nhà lảnh đạo
và trí thức KMT, nêu cao hoan hô ý kiến thành lập một chánh phủ liên hiệp, nhưng KMT
gạt bỏ và đàn áp ai muốn làm như vậy.
Lật ngữa
ván bài quân sự ở cuộc nội chiến
tốn kém và kéo dài, xảy ra ở hai chiến trường. Ở Mãn Châu , KMT
chiếm những thị trấn chánh, nhưng Nga
rút lui để lại một số lượng lớn cơ
khí giá trị, giao cung cấp cho các lực lượng CCP nơi nào làm được, có khi
trì hoãn rút lui ( Nga chỉ mới tham gia
chiến tranh có 8 ngày ) để cho Nhật đầu hàng Cọng Sản chứ không phải
KMT. Đỉnh cuối cao nhất cuộc nội chiến ở vùng Đông Bắc đến với khi trên 30 000 quân Quốc Dân Đảng ở Mãn Châu đầu hàng CCP, tháng 10 năm 1948 .
Trận
đánh lớn thứ hai xảy ra ở thung lũng sông Hoài, Trung Bắc Tàu. CCP
nhờ kiểm soát nông thôn và nhờ
chiếm được và sử dụng đường xe lữa, bao
vây 66 sư đoàn trong tổng số 200 Tưởng Giới Thạch có được . Ưu việt KMT về võ khí giảm nhiều vì đào ngũ hay bị Cọng Sản bắt.
Cuối cùng,Tưởng mất đi vào tháng 12 năm 1948 hơn nữa triệu quân và có lẽ
trong số này khoảng chừng 2/3 bỏ
trốn. Tháng tư năm 1949, quân Cọng sản tiến xuống miền Nam sông Dương Tử. Thượng Hải thất
thủ tháng 5, Quảng Châu tháng 10. Trùng Khánh tháng 11. Tháng 12 năm 1949,
Tưởng Giới Thạch và chánh phủ bỏ chạy
sang Đài Loan .
Kỳ tới .
Phần IV: Cách Mạng Cọng Sản 1949
-1965 . Cách mạng văn hóa và hậu quả
1966-1978
Phần V : Đặng Tiểu Bình và thời Cải Cách 1978 - 1992 . Thời Đảng Trị .
Đại Trung Quốc ở thế giới rộng lớn hơn 1993- 2003. Một Xã Hội Đổi Mới 2003-
RẤT HAY ĐỀ NGHỊ VIẾT TIẾP NHÉ XIN CẢM ƠN !
Trả lờiXóa