Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

Tuyên Ngôn Nấm

Tiếp theo bài về nấm hoang dã, nấm nuôi trồng ăn được ở Việt Nam tháng tư năm 2008 , nay cập nhật hiểu biết thêm về công dụng “ tốt” của Nấm , mà Việt Nam đã có nhiều nhà nghiên cứu tài ba, trong, ngòai

Tuyên ngôn nấm

                                   G S Tôn Thất Trình



             Đa số dân Mỹ nghĩ rằng nấm ( gọi theo từ  cũ là khuẩn ) – mushrooms là những thành phần  tô xúp hay là kẻ xâm phạm một  sân cỏ săn sóc tốt đẹp. Paul Stamets, một nhà nghiên cứu nấm không thuộc viện hàn lâm hay tổ chức nào làm khảo cứu về nấm phần lớn nhờ lợi tức tư công ty riêng của ông là Fungi Perfecti – Nấm Toàn Hảo,  bán   các nấm cho người sành sỏi hay nấm y dược,  lại ưa chuộng một viễn cảnh rất lớn, đề cao trong sách ông viết năm 2005:  Sợi Nấm  Chạy : Cách nào  Nấm  Có thể Giúp Cứu sống Thế giới - Mycelium Running : How Mushrooms Can Help  Save the World . Stamets tin tưởng nấm có thể là  những tay thay đổi thời thế ở những lảnh vực tính  chất khác nhau  như y khoa,  lâm nghiệp , thuốc sát( côn ) trùng- pesticides  hay kiểm sóat ô nhiễm.. .     

          Một mạng tỏa khắp hành tinh


         Dù nói rất thơ văn, ý niệm  của  Stamets là nấm  bắt cầu cho các hệ thống miễn nhiễm con người và môi sinh có căn bản  sinh học vững chắc. Trên cây tiến trào, các vương quốc động vật và nấm phát sinh từ một cành chung, chia rời nhau trước khi thực vật - cây cỏ tách  ra . Và nấm khâu vá đời sống thực vật, động vật  và ngay cả Trái Đất theo những phương cách cụ thể. Có chừng 1.5 triệu lòai nấm, gồm luôn cả men – yeastsmốc meo- molds, song song với  các nấm lớn- macrofungi . Mọi  sinh vật  này đều chia sẽ vài tính trạng chung với động vật : chúng hít  oxygen và thở ra carbon dioxide như chúng ta làm, và chúng cũng dễ bị  nhiểm nhiều mầm bệnh của chúng ta . Cũng như chúng ta,  chúng thâu nhận năng lượng bằng cách tiêu xài những dạng đời sống khác thay vì quang ( tổng ) hợp- photosynthesis .  Thế nhưng thân thể nấm khác hẳn thân thể động vật. Men là đơn tế bào, trong khi mốc meo và nấm lớn  dùng dạng sợi – mycelium , những mạng lưới màng tựa sợi chỉ, mỗi sợi là một tế bào duy nhất dày, có thể nhiểm bệnh một trái cam thối, xâm nhập nhiều mẩu tây rừng gỗ  hay nhập chung lại thành một ( tay ) nấm. Sợi nấm hấp thu dưỡng chất  từ xung quanh và có thể mau lẹ  thay đổi mô hình tăng trưởng và các  cư xử khác phản ứng theo môi trường . Khi các nấm  làm thuộc địa đất đai cách đây một tỉ năm, vài lọai  thiết lập một hốc tường như thể là  những kẻ phân hủy lớn ở Địa Cầu,  then chốt cho việc sinh tạo ra đất. Các sợi nấm  dò rỉ ra các enzym  và acid, biến đá tảng thành những kim lọai đến gần được theo sinh học và gỡ rối các dây chuyền dài phân tử của chất hửu cơ thành những dạng tiêu hóa được. Các sợi nấm  giữ đất lại với nhau, giúp đất giữ nước và cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây cối. Những lòai gọi tên là nấm  trong rễ ( ? )  - mycorrhizal fungi dùng sợi nấm  bao phủ  hay  xâm nhập rễ cây cối, cung cấp  các hợp chất nitrogen ( chất đạm ) và các muối kim lọai đổi cho các đường từ  sinh vật ký chủ ( khi một cây con đang  ốm yếu dưới bóng râm  của một cây lớn hơn, nhưng nấm này có thể cảm gíác được vấn đề và gửi đến cây con những chất nuôi nấng phụ thêm ). Nấm nuôi đông vật ; động vật  trả ơn bàng cách làm lan tràn các bào tử nấm.

            Để đuổi đi các mầm bệnh, nấm đã phát triễn một  kho vỏ khí  hợp chất kháng vi khuẩn và kháng virus, một tài nguyên các dân gian truyền thống thu họach dưới dạng trà nấm và thực phẩm. Alexander Fleming khai thác chúng theo thời trang cận đại hơn, khi cách ly ra penicillin từ mốc meo Penicillium rubens năm 1929. Nấm cũng   có thể ký sinh và  giết chết sâu bọ, kể cả những lòai gây rối chúng ta.  Từ cả nghìn năm qua, con người  cũng đã khai thác các  nấm vi tiểu – micro fungi  tạo đồ ăn, tỉ như phó mát, bánh mì, bia và rượu chát ( nho). Nhưng ở văn hóa Tây Phương, quyền lực của các nấm to lớn thường bị quên lãng, một thái độ Stamets gọi là tính “ sợ nấm quá đáng – mycophobia” ( có phần đúng vì lẽ có nhiều lòai giống nấm rất độc  hại)  hay “kỳ thị sinh học – biological racism” . Nấm bị bỏ vào các lon gia vị Campbell  hay đặt ra ngòai vòng pháp luật  khi chúng thổi bay đi mất ở nhiều trí óc.
   

             Trí óc nấm

 
        Khi bạn nhìn đến một nấm, cái gì  bạn nhìn thấy là một tay – một trái ( fruit ) nấm . Nó trổi dậy từ một khối mô xơ tên gọi là sợi nấm ( khuẩn ti ), đi vào trong bất cứ  vật liệu nào  nấm tăng trưởng trên đó.  Đối với mắt trần, sợi nấm giống như  một đống xơ bông  vải ( bông gòn ) hay những mạng tơ nhện- cobwebs . Tuy nhiên, nhìn qua kính hiển vi điện tử - electron microscope, đó là một dệt rối bong  của các màng- membranes  chia nhánh giống chỉ sợi, là những cơ cấu theo lời Stamets trông như  một mạng lưới  các tế bào  bộ nảo . Và điều này theo ông biện cứ  là chứng cớ nấm có một lọai thông minh nào đó.

           Sự tương tự  rất đáng ngạc nhiên. Các bộ nảo và các sợi nấm tăng trưởng các nối kết mới hay cắt xén bớt  những nối kết hiện hửu, phản ứng với các kích thích môi trường.  Cả hai sử dụng một dàn trải các  tín sứ – sứ giả  hóa học để truyền đi những tín hiệu suốt mạng tế bào ( một phần sợi nấm, chẳng hạn, có thể chỉ thị cho một sợi nấm khác gửi đi những dưỡng chất cách đó cả mấy trăm thước).  Những cơ cấu tương tự của các mạng lưới nấm  và dây thần kinh, như Stamets tin tưởng,  phản chiếu sự kiện là  cả hai hệ thống  tiến trào để làm công việc như nhau, và thực hiện công việc với hửu  hiệu tối đa. Và ông không ngừng ở đây. Stamets nhận thức  các mô hình giống như sợi nấm  trên kiến trúc thông tin của Internet, theo những khuôn mẫu - matrixes  của lý thuyết sợi dây – string theory, các  mẩu hình computers của mạng lưới  chất đen – dark matter  tràn ra khắp vũ trụ. Những tái diễn này, theo ông  là những dấu hiệu  của tiến trào thông minh tự cai quản thực tế . Ông viết  ở sách  Mycelium Running  là “Thiên nhiên có khuynh hướng xây đắp trên những thành công  của mình.  Nguyên mẩu -archetype sợi nấm có thể nhìn thấy khắp vũ trụ”.

Nấm Trí Óc 

           Con đường  nấm Stamets đeo đuổi


  Năm 12 tuổi doanh nghiệp cha phá sản và gia đình phân lìa . Ông lưu lạc nhiều nơi với mẹ và đến bang Pensylvannia, học vỏ công,  sau đó đạt đai đen Tae kon và Hwa rang đô . Năm  cuối trung học ông  và anh bị đuổi khỏi trường  vì bán cần sa cho các bạn học .  Cho nên ông phải dời đến thành phố Seattle, bang Washington và theo học trường công , tốt nghiệp trung học.  Rồi nhập học ở Trường Kenyon College ở Bang Ohio.  Nơi đây, ông lang thang trong rừng, phía ngòai cư xá trường. Ông tìm ra và thử ăn các nấm gây ảo gíac psilocybin lần đầu tiên, trèo lên cây cao nhưng không xuống được vì bị nhiễm độc say sưa. Giông tố đến và  ông bị mưa gió dồn dập.  Một sét đánh gần đó và ông tưởng là sẽ chết bất cứ lúc nào, nhưng phong cảnh  rừng mưa thật là đẹp đẻ. Ông  rơi xuống đất rừng và  trở nên yêu mến vũ trụ vô cùng.  Ông suy tư  về cuộc sống và cách nào thay đổi nó . Từ đó, ông cố học về nấm ; nhờ một sách xếp lọai nấm  ông tìm thấy được  psilocybes  nơi nào ông  muốn tìm , và ông  bắt đầu thử nghiệm các bí ẩn các lòai nấm khác.   Sau đó, ông theo học Đại học Evergreen  State College ở thị trấn Olympia  bang Washington, muốn trở thành một nhà nấm học.  Evergreen không có ban nào chuyên môn về nấm, nhưng lại khuyến khích những nghiên cứu độc lập. Ông theo  học lớp về  nấm và nghiên cứu nấm  psilocybin  của giáo sư Michael Beug, một nhà hóa học  môi sinh. Ông bắt đầu sử dụng  kính hiển vi điện tử, một hiếm có vào thập niên 1970 và bắt đầu chụp hình  các cơ cấu tế bào nấm, sợi nấm  và các bào tử cho các nhà khoa học trên thế giới. Khi tốt nghiệp năm 1979 , ông đã là  một nhà khoa học lảnh vực, một nhà khảo cứu La Bô  và một nhà phân lọai học tài ba . 

Trồng nấm trong La Bô 

( Ở Việt Nam, kỹ sư nông học và giáo sư Thực vật học Pháp  Roger đã xuất bản ở Hà Nội – Sài Gòn   bộ sách  phân lọai đồ sộ  về các lòai nấm Đông Dương các năm  1940 -50 ? ).   Fungi Perfecti  là la bô đầu tiên, nuôi trồng nấm trong phòng tầng hầm nhà ông thuê, sống cùng vợ đã có 3 con riêng và đang  mang thai con đầu tiên với ông . Ông bắt đầu bán  nấm ăn ngon  và xa lạ cũng  như làm các cuộc diễn thuyết lấy tiền. Sau năm 1983  thăm viếng Trung Quốc, ông là người Hoa Kỳ đầu tiên bán ra các giống nấm y khoa Á châu  nuôi trồng ở Mỹ. Cuối năm  1983, ông xuất bản cuốn sách Dân Trồng Nấm - The Mushroom Cultivator  vẫn còn được xem là cần thiết cho các nhà trồng nấm trong nhà hay thương mãi. Năm 1984, nhờ bà con giúp đở, ông thành lập nông trang rộng hơn 10 mẩu tây ở Kamilche Point, cách Olympia  vài km về phía Tây Bắc. Và ông  cũng bắt đầu khám phá  các quyền hạn của các nấm to lớn thay đổi hành tinh .

Paul Stamets trình bày trồng nấm ở Công ty Fungi Perfecti của ông. 

                 Cách nào nấm có thể thay đổi thế giới ?    


               Lúc này, Stamets bị những khả năng ám ảnh,  ông gọi là “phục sinh nấm – mycorestoration” , một lảnh vực đang chớm dậy  gồm luôn cả  công trình ông và các nhà khảo cứu khác về “lọc nấm – mycofiltration”,  “sửa chửa nấm – mycoremediation”, “lâm học nấm- mycoforestry”  và  “nấm diệt dịch bệnh- mycopesticides”. Ông cũng bắt đầu  làm ra một thư viện  di truyền,  thu thập hàng trăm dòng – strains nấm, ông lượm hái được trong các rừng cũ miền Tây Bắc Mỹ  và ở các chuyến du lịch đến Âu Châu , Á Châu , Nam Mỹ và Úc, có thể dùng cho môi sinh cũng như làm lành bệnh .

             Cơ quan Bảo vệ Môi sinh – EPA Hoa Kỳ đã nhờ Stamets  giúp đở các Lính  Bao An Bờ Biển – Coast Guards làm sạch các nơi  dầu  phun chảy lọan tràn trề . Ông đã trả lời bằng cách  sáng chế ra  “Nấm bum,vang rền – mycoboom”  , một ống vải thô  chứa đầy các nấm  bào ngư – oyster mushrooms ( Pleurotus ostreatus) họa kiểu dùng làm tan vỡ dầu lữa, trong khi trôi nổi trên một bải biển  trơn trợt hay đặt chướng ngại vật. 

nấm  bào ngư – oyster mushrooms ( Pleurotus ostreatus

Có thể  kể ra  các nấm cứu  sống, giải quyết các vấn đề nhân lọai Stamets  khảo cứu như sau đây :

-    Các nấm làm sạch môi trường  có thể dùng làm tan vỡ các hóa chất dầu lữa hay hấp thu  phóng xạ  từ đât đai và nước bị ô nhiễm. Tỉ như các giống nấm bào ngư  vừa kể trên .

       -  Các nấm lọc nước phế thải  có những sợi nấm làm sạch nước chảy từ các cống   thóat nước giông tố , nông trang  hay đường  rừng chở gỗ.  Có thể dùng chúng  lọc đi các nitrate, các chất làm gián đọan tuyến nội tiết – endocrine  nay các cặn bã dược phẩm, làm biến lọan các hệ thống sinh thái  và tai hại cho sức khỏe.

-     Các nấm sát trùng – giết dịch bệnh – pesticides   có thể dùng nhắm vào các  lòai gây rối  trong khi đó lại không độc hại cho các lòai khác  tỉ như  dùng Metarhizium anisopliae  để giết mối  và các kiến  đục gỗ- carpenter ants  bằng cách phun các  bào tử nấm này trực tiếp trên mối hay kiến.  Stamets cho rằng các sâu bọ này bị các bào tử nấm hút dẫn, tưởng lầm  đó là một thức ăn. Nhưng khi ăn bào tử, các sợi nấm metarhizium  nở ra giết chết chúng.  Một  dòng nấm Beauvaria bassiana   có thể sửa đổi để hút dẫn và giết chết nhiều lọai sâu bọ.

Nấm Beauvaria bassiana

       - Các nấm y khoa có  thể  cung cấp  các thuốc kháng sinh, hay  kháng virus, hay làm các hợp chất  thúc đẩy hệ thống miễn nhiễm hay ngay cả các phép chửa trị hóa học nữa. Tỉ như  lòai nấm linh chi - reishi  (Việt Nam đã sản xuất nhiều lọai linh chi hiệu nghiệm ) đã dùng trích thuốc kháng sinh ganomycin , các nấm đồng cỏ - meadow mushrooms làm  kháng sinh campestrin   và nấm  lóng lánh trong tối lồng đèn- glow in the dark jack o ‘ lantern  chế illudin Snấm  cỏ dày khổng lồ - giant puff balls chế  calvacin , hay  nấm đuôi gà lôi- turkey tail mushrooms  chữa trị ung thư vú. Các nấm Agarikon  Fomitposis officinalis có thể  dùng chống lại cúm chim , cúm heo hay bệnh đậu mùa – smallpox .   

nấm đuôi gà lôi- turkey tail mushrooms

-    Các nấm lâm học  lòai cọng sinh như các  loài nấm trong rễ -mycorhizal mushrooms   có thể gia tốc tái lập trồng lại rừng những nơi rừng gỗ đã bị làm trọc.

 -   Các nấm trong rễ  có thể giúp làm tăng hấp thu phân lân ở ngành nông. 
        
         -   Chống đói có thể dùng các nấm mọc mau lẹ ở các trại tị nạn hay các vùng bị tai ương , vì chỉ dùng mặc cưa, mảnh gỗ  hay rơm rạ  thấm nước mặn .

       -   Trồng nấm làm nhiên liệu sinh học- diesel sinh học  có thể cần ít đất đai  và các tài nguyên khác  hơn là cây trồng trọt thường lệ.

           - Du hành không gian  có thể dùng các lòai nấm chịu đựng được  phóng xạ, trồng  thay đất ở các chuyến du hành giữa các sao – interstellar và làm dạng đất- terraform  cho các thế giới khác …

      ( Chiếu theo Kenneth Miller , nguyệt báo Discover  ngày 7 tháng 7 năm 2013)    

                                       



1 nhận xét:

  1. Date: Wed, 10 Jul 2013 16:22:47 +0100
    From: lechi.gruber@btinternet.com
    Subject: Re: Tuyen ngon nam
    To: tonthattrinh@hotmail.com

    Kính Thưa Thầy Cô,

    Nhận được bài của Thầy em rất vui mừng vì Thầy còn rất minh mẫn từ thể xác đến tinh thần.. Em xin cám ơn Thầy về bài viết rất bổ ích này. Bài này có phần nào liên hệ đến công việc của em hồi ở Philippines. Đọc lại cũng thấy vui..

    Wolfgang và em kính thăm Thầy Cô an lành.
    Kính mến,

    lệchi

    (Ghi chú của GS Tôn Thất Trình:
    Bà Trần Lệ Chi Gruber là thạc sĩ Đại học Hoa Kỳ về thực vật học và chuyên về Nấm khi còn ở Nha khảo cứu Việt Nam. Sau đó vẫn tiếp tục khảo cứu về Nấm, khi làm chuyên viên Đức Quốc tài trợ cho Phi Luật Tân, cách đây đã gần hơn 25 năm rồi!).

    Trả lờiXóa