Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Việc Làm Trong Ngành Khoa Học

        8 công ăn việc làm tệ hại nhất (và 3 vĩ đại nhất ), ở ngành khoa học ngày nay.

                                   G S Tôn Thất Trình

 Bạn hãy cùng chúng tôi khám phá 8  công ăn việc làm đáng càu nhàu nhất, các nhà khảo cứu thực hiện và học hỏi tại sao họ lại  chịu đựng,  nhân danh khoa học, những điều kiện  thiếu vệ sinh, không làm lóa mắt, và đôi khi  không an tòan  như thế ?

1-      Nhà phát triển mùi vị kem ( nước  đá ) – ice cream



 Chris Rivard  có một chức tước  chính thức cầu kỳ: chánh chuyên gia khoa học thực phẩm  cho các họat động  R& D ( Khảo cứu và Phát triển)  tòan cầu. Ở hảng Ben và Jerry, ông được  mệnh danh là : “ thầy tinh thần mùi vị - flavor guru”.  Rivard sử dụng bằng cấp ông về khoa học thực phẩm và dinh dưỡng để phát triễn mùi vị cho kem  hảng to lớn này.  Trung bình mỗi ngày, ông sẽ thí nghiệm các dịch bản kiểu mẩu đầu tiên  cho kem đông lạnh cổ điển cũng như  vài  lọai kem lạ lùng mùi vị được nhóm R&D thử nghiệm, tỉ như nước chấm trại chăn nuôi – ranch dressing, tỏi chiên và nấm ăn. Muốn hòan tất phối hợp cần nhẫn nại và  một  thích thú thèm ăn mạnh mẽ, nhưng đó là những hy sinh ngành doanh vụ làm kem đòi hỏi. Một năm một lần, Rivard và các gu ru mùi vị làm một chuyến thăm viếng  ngòai trời. Lịch trình theo ông là “ đi vào một đô thị đã lựa chọn, hầu tìm cảm hứng cho  những mùi vị và sản phẩm mới”.  Sau khi trở về, ông làm chiến lược cho nhóm thị trường của công ty về mùi vị nào phải phát triễn  trên thị trường ngọai quốc.  “ Làm việc  cho nhóm toàn cầu có thêm được một tiếp cận thích thú.” Với những ngôn ngữ khác biệt, đây là một thách thức độc đáo. Chúng tôi phải giải thích, ở một điểm nào đó , rằng chúng tôi thật sự không bỏ thêm những  khúc  lòai khỉ - chunks of monkeys vào kem Khỉ Từng mảnh – Chunky Monkey.”  

2-      Kỹ sư hiệu năng xe Corvette



Alex MacDonald được trả tiền lái xe Corvette.  Là một kỷ sư hiệu năng  chuyên môn về kiểm sóat khung gầm ô tô  cho hảng General Motors ( GM )  và nguyên là một tài tử  lái xe đua  McDonald thử nghiệm  xe trên những  mắt phẳng cực đoan; nước đá, sỏi và cát , hầu định giá  hiệu năng các hệ thống thắng xe và theo dõi những phần mềm của chúng.  Điển hình , ông chạy thử nghiệm trên những đường cao tốc. Phần mềm ghi chú  hàng ngàn biến thiên, trong khi một kỷ sư định cở thứ hạng, sử dụng súng ngắn có tem thì giờ- time stamps  ghi các dữ liệu  và các phê bình nhập sản vào một computer để đùi.  McDonald , phải thử nghiệm  hiệu năng các xe GM khác  tỉ như xe Camaro, thường 2 năm trước khi chúng được sản xuất.  Ông nói : “  Nhiều ngày đó là công việc tốt nhất thế giới “  chính tôi cũng muốn trả tiền làm việc này .”

    3 – Kẻ thử nghiệm sản phẩm cực đoan   



     Trên diện tích mặt phẳng,  công việc của Mark Gammage có vẽ khá buồn chán .  Gammage là xử lý  nhóm của  La bô Armway ‘s Reliability Lab, chỉ huy  một nhóm 4 kỷ sư  họa kiểu những thiết  bị và phần mềm thử nghiệm sản phẩm phức tạp. Nhưng định hướng thật sự cho nhóm  là những cách  sáng tạo để tra tấn  và phá hủy những gì công ty làm ra. Các thử nghiệm la bô, tên gọi là “  Phòng của Diệt Vong – The Room of Doom” gồm luôn cả soong nồi, các linh kiện y khoa và các sản phẩm khác .phô bày ở những nhiệt độ quá xá và áp đảo chúng dưới điện 8 000 volts , hầu bắt chước tiếng sét đánh. Gammage  nói rằng  thử nghiệm ông yêu chuộng  là để dò ra sự yếu kém trong các thùng trị nước, liên quan đến  tăng áp lực , cho đến khi nào  chúng nổ tan. Ông giải thích:  “ Bạn có thể nghe nó và nhìn nó  khi nó nổ tan bên trong  bao bảo vệ nó. Nhiều lần, các  khách mời  được  trao danh dự làm như thế  và làm tăng dần áp lực. Điều này luôn luôn  làm nở trên mặt họ  một nụ cười  tươi.
      Và sau đây là  những công ăn việc làm tệ hại :

3-      Kỹ sư “ đường  Tàu hầm “ – subway engineer



Đường  tàu hầm - subwayThành phố Nữu Ước – New York City chuyên chở mỗi ngày 5.4 triệu, người ngang qua 660 dặm Anh (# 1062 km )  phần lớn ở sâu  dưới thành phố ở những đường hầm – tunnels  ẩm thấp , đầy sâu bọ. Những người di chuyễn  đi qua những ngã đường không ngờ đến, và một  đám nhỏ kỷ sư  chuyễn vận công tác mệt nhọc, đang thử nghiệm  các tín hiệu , bảo đảm là các đường tàu chạy đã được đặt chính chắn.  Dù  Cơ Quan  Chuyễn vận Đô thành – Meropolitan Transportation Authority ( MTA )  đã huấn luyện họ rộng rải, sâu đậm, không có cái gì  sửa sọan tốt cho các kỷ  sư họat động ở đường hầm cả.  Mùa hè nhiệt độ  có thể trên100 độ F ( 40 độ C ). Chuột cũng như những kẻ vô gia cư , trốn chạy khắp nơi.  Rồi  đến các  câu chuyện đường sắt thứ ba,  nguồn điện cho  xe tàu đường hầm, chuyễn dịch  cao thế đến  600 volt DC ( điện một chiều ), đủ điện để làm tổn thương hay giết người. Các tàu  nặng 400 tấn  và chạy liên hồi tốc độ 30 dặm Anh ( 48km ) một  giờ hay mau hơn nữa.  Joe Leader, quyền  phó chủ tịch Cơ quan Chuyễn dịch  TP- ban  đường hầm, nói : “  khi tuyễn dụng ai  đó  chưa bao giờ biết một môi trường tương tự , bạn phải mở to mắt,  đưa họ xuống đường hầm  và giải thóat họ khỏi lo sợ trước đã .
      

4-      Giải phẩu Nai sừng tấm Bắc Mỹ




 Rất ít nhà khảo cứu trên thế giới lại có  bao tử mạnh mẽ hơn John Vucetich. Ông là phó giáo sư  sinh học của Viện  đại học kỷ thuật Michigan và  đang nghiên cứu dân số động lực học  giữa chó sói xám  và nai Bắc Mỹ  ở Isle Royal , một công viên quốc gia,  ngay khi vừa rời khỏi phía Đông Bắc TP Minnesota ở Đại Hồ - Lake Superior. Dù có vẽ lãng mạn, công việc Vucetich  thường là một nhiệm vụ  tàn nhẫn, tìm kiếm các thịt thối rữa của nai sừng tấm. Điễn hình, săn bắt khởi sự bằng mùi ngửi thấy:  mùi bệnh tật của thịt thối rữa.  Khi họ tìm ra một xác chết, Vucetich và nhóm ông bắt đầu chặt  xác với  búa hay dao ( Vucetich khuyên nên lấy hàm ra  khỏi sọ, như vậy dễ mang đi  hơn ).  Hầu muốn đến  tận xương,  họ phải đi qua hàng đàn ruồi bu và ve – bét.  Một thây xác có thể  mang theo hơn 50 000 con bét ,  thảy mọi bét đều tìm kiếm một gia cư máu nóng mới .
Rồi còn phải chuyên chở. Các nhà khảo cứu phải kéo lê 40 cân Anh xương , thường  dưới cả mét tuyết, đến la bô để phân tích. Họ cũng phải thu thập gần như một  lô phẩn chó sói cho các nghiên cứu di truyền và sỉ số dân  cư. Vucetich nói : “ bạn giống như Ông Già Noel vậy. Khi  bàn làm xong,  bạn có cả bao tạ rác rưới này  chứa đầy đồ tặng phẩm ?”  Khi đã đến la bô ở công viên, các nhà khảo cứu sửa sọan  tồn trữ vĩnh viễn  cất xương, bằng cách xối lên chúng một thùng nước sôi lớn , đốt tan hết thịt và lông nai sừng tấm  hầm còn sót lại. Dữ liệu Vucetich thu thập,  giúp các nhà sinh học hiểu biết cách nào ăn uống thiếu thốn thuở ban đầu, có cơ làm cho nai sừng đủ khả năng  tránh khỏi các thú bắt mồi giết chết, những thời sau .

5-      Nhà thu thập dữ liệu thị trường thịt thú rừng- bush meat



 Chắc chắn là có nhiều người thích khỉ. Nhưng ít ai thử nghiệm yêu thương này cho bằng  được Jake Owens.  Là một thí sinh  cấp bằng tiến sĩ ngành  khoa học môi sinh, viện đại học Drexel University,  nghiên cứu  cư xử và sinh học của khỉ mặt xanh – drill monkey . Điễn hình là những chuyến viếng thăm đảo Bioko ngòai khơi vùng bờ biển Ghi nê nhiệt đới, nơi ông nơi ông phải bò  qua những đám cây cỏ đầy rắn để thu thập phẩn khỉ.  Năm 2010, Owens phải nghiên cứu một thị trường thịt thú rừng bất hợp pháp  ở nước Phi châu Ghi nê Nhiệt đới , nơi  các thương gia bán thịt các linh trưởng đang bị nguy cơ tuyệt chủng.  Giữa mùi hôi thối thịt thối rữa, ông lấy hàng trăm mẩu lông và mô ( tissues ) khỉ, để phân tích đồng vị phóng xạ -  isotope analysis .  
Owens sử dụng dữ liệu này để  định vị trí những nơi  săn thú trộm nóng hổi.  “ Đa số dân gian  ở thị trường thù ghét tôi  hay cố gắng chận đứng săn thú  trộm mà tôi đại diện và họ không che dấu vụ  thù ghét này”.   Các thương gia thường xuyên dùng chổi  đánh đập ông, nhỏ nước bọt ở chân ông , xoay qua xoay lại  bó đuốc và dao rựa  đuổi ông đi.  Phần thưởng  kiên trì của ông là một tháng trời  đau ốm,  khiến tóc ông rụng hết.

6-      Kẻ làm kiểu mẫu hệ thống tiêu hóa



       Cho rằng công việc của Glenn Gibson thối hoắc là một lời nói còn dè dặt.  Gibson là giáo sư vi trùng học của viện  đại học Vương Quốc Anh Reading và ông nghiên cứu các vi khuẩn tìm thấy trong ruột con người,  hầu phát triễn những phép chửa trị những rối lọan tỉ như hội chứng ruột bị  khó chịu, đau rát.  Muốn làm khảo cứu này, Gibson phải đổ  vào mỗi khúc  mô hình tiêu hóa con người, một chất lỏng  làm từ các mẩu  cứt- phẩn người thiện nguyện . Rồi giáo sư  phải quan sát các mẩu vi khuẩn  theo phép sắc ký lỏng – liquid chromatography.  Mùi hôi thấm đầy la bô , luôn cả tòan thể khu xây cất và vùng chung quanh . Gibson  cố hết sức tự bảo vệ mình khỏi bị  nhiễm trùng, đeo găng tay và miệng  bịt mặt nạ  , nhưng không tránh hết được mọi đụng nhằm.  Có khi ông bị tạt đầy  phẩn chứa máu, khi mở một gói thư đưa tới  la bô.  May mắn thay, không phải mọi  sự cung cấp đều  phiền hà như thế, ít nhất là đối với ông . Ông cho biết: “ cách đây vài năm ,  chúng tôi đang chờ đợi giao hàng hàng trăm mẩu phẩn  từ Hoa Kỳ, nhưng thay vì nhận mẩu phẩn , chúng tôi lại nhận một hộp thịt sườn heo.  Tôi hy vọng là người  chờ đợi thịt heo sẽ không nhận được hộp phẩn  đánglý phải gửi đến chúng tôi” .

7-      Nhà thiên văn học  Mùa Đông Nam Cực


        Năm 2005, Cynthia Chiang- Tưởng, một thạc sĩ vật lý học tốt nghiệp  ở đại học Caltech, Bang Ca Li Hoa Kỳ (năm 2013 vừa được xếp  hạng nhất về giáo dục thế giới trên hẳn đại học kỷ thuật MIT và đại học Harvard, đaihọc Oxford … )  có một lựa chọn   họat động trên một viễn vọng kính tại Hawaii hay ở Nam Cực- Antartica . Bà nói : khỏi cần suy nghĩ vì bạn có thể mua vé máy bay từ Nam Cực đến Hawaii bất cứ lúc nào .”  Thế cho nên  từ trạm Amundsen –Scott  Nam Cực, bà  trải qua một mùa hè  nhiệt độ -40 độ F( - 14 độ C  ) đến -10 độ F ( - 8 độ C ). Ăn những bửa ăn hạn chế và nhiều ngày dài nghiên cứu  phóng xạ vũ trụ phía sau , xuyên qua  viễn vọng kính “ Hình ảnh Phía sau  của Phân cực Vũ trụ Ngọai Thiên hà-  Backgrond Imaging of Cosmic Extragalactic Polarization. “   Các điều kiện   rất cực nhọc nhưng không ghê rỡn.  Rồi năm 2012, Cynthia Tưởng trở lại đây vào mùa Đông.

         Ở Nam Cực, mặt trời hiện ra ngày 21 tháng ba và  và không hiện lại,  mãi cho đến tháng chín. Nhiệt độ mùa Đông là  từ -70 đến - 90 độ F (# -20  đến – 30 độ C ) nhưng thường xuống dưới – 100 độ F ( # - 40 độ C ). Các nhà khoa học vẫn thường xuyên phải ra ngòai trời để sóat lại thiết  bị  và cho dầu mỡ vào các  hộp số nâng viễn vọng kính . Khi ra ngòai, các lông mì thường đông gía  lại với nhau, khi nhíu mắt. Vì không khí lạnh  không thể nào giữ lại nhiều hơi nước; khí hậu  ngay cả bên trong trạm quá khô, nên mũi Tưởng chảy máu cam ( mủi)  và da đầy gàu. Và vì chỉ có  chừng 50 nhà khảo cứu và nhân viên hổ trợ được lựa chọn mùa Đông  Nam Cực ( so với 170 người mùa hè ), đóng đô tại đây  có phần cô đơn hơn.  Một vòi hoa sen nóng có cơ giúp chịu đựng thiếu thốn, nhưng dù sỉ số người bé nhỏ mùa đông,  cư dân  bị giới hạn chỉ được dùng vòi hoa sen hai lần mỗi tuần lễ, hai phút mỗi lần. May thay,  không có giới hạn nào dùng  phòng tắm hơi – sauna của trạm .

8-      Người bốc bùn- mud logger



         Kurt Vanderyt  phải trải qua một năm sau khi nghiên cứu địa chất học ở một trường đại học – cao đẳng  cho biết là  ai đó bốc bùn là làm một công việc  bạc bẻ ,vô ơn .  Trong mọi công việc  trên một giàn khoan dầu, kẻ bốc bùn  đứng hạng chót ở dây chuyền thực phẩm . Và không ai làm cho bạn quên hết chuyện đi.  Công việc tự mình rỏ ràng dữ tợn: thu thập  và  và xem xét các  mẩu đá  từ một giếng đang  khoan bị buộc đưa lên  và ghi chú  mọi thành phần kim lọai mọi mẩu và tiềm năng hydrocarbon.  Đúng vậy, lần này qua lần khác : 12 giờ  nhìn vào một kính hiển vi, nhiều tuần lễ cho đến cuối. Các tay bốc bùn làm  việc từng cặp  đôi, cho nên khi một kẻ bốc bùn thì kẻ kia đi ngũ. Điển hình  họ thay phiên nhau ngũ  một giường.               
     Làm thân trâu ngựa  cũng có thể chịu nổi. Nhưng  bùn nghẹn có thể đòi hỏi  các tay bốc bùn  nghiêng vai sâu  vào trong thùng chứa bùn khoan gọi là bụng thú đuôi quấn- possum  để làm  sạch nó. Vanderyt nay là Phó chủ tịch thám hiểm tại hảng Brigadier Oil & Gas , cũng đã thấy  những nguy hiểm bất trắc ở công việc khác. Ông nhớ lại “ Có khi tôi tìm thấy một lớp bùn  còn thiếu nhiều trăm mét đáng giải thích .  Tôi sóat lại khu thảo luận  và tìm ra mô tả tình huống là “ bò đã ăn mất mẩu rồi”.      
….
( chiếu theo Doug Cantor,  Khoa học Phổ thông – Hoa kỳ số tháng 11, 2013)

                       ( Irvine , Nam Cali,  ngày 27 tháng 10 năm 2013 )                



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét