Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc


Tỉnh thứ hai Trung Quốc , sau Vân Nam, có biên giới chung với Việt Nam ,cần biết rõ hơn:

Tỉnh Quảng Tây hay  Vùng Tự Trị Tộc Dân Tráng

         G S Tôn Thất Trình




                      Đôi chút lịch sử Quảng Tây 

( phần lớn chiếu theo Britannica .com , ngọai trừ phần liên quan đến sử ký Việt Nam)

           

Từ thuở ban đầu đến khỏang 1900 .

      Quảng Tây – Guangxi được biết thời Tam Quốc  ( 475- 221 trước CN-BC)   là đất  Bách Việt – Baiyue   các tộc dân địa phương  Miền Nam Trung Quốc thuộc  triều đại Đông Chu, Châu – Dong Zhou ( 770 – 256 trước CN )  . Một nhóm phụ  nhỏ của tộc dân Thái – Tai  tên là Tráng – Zhuang   sinh sống ở vùng này  và có nền kinh tế   căn cứ trên  trồng lúa  nước -wet , irrigated rice cultivation.    Miền Đông Quảng Tây    bị  dân Hán ( Tàu miền Bắc )   chiếm cứ  vào khỏang 214 trước CN  vào triều đại Tần – Qin ( 221- 207 trước CN )    Kênh Linh – Ling Canal được đào  ra để nối   các sông Tường – Xiang và sông Quý – Gui  thành một đường sông Bắc Nam Trung Quốc .   Một quốc gia độc lập  tên là Nam Việt - Nan Yue,  Tướng Triệu Đà – Zhao Tuo   thiết lập, với sự trợ giúp của dân Tráng ,   vào cuối thời Tần  và tồn tại mãi cho đến   khi bị trào Hán (   206 trước CN – 220 sau CN )   thôn tính vào   các năm 112 – 111  trước Công Nguyên . Các nhà cai trị Hán  giảm bớt  quyền hành  của dân Tráng   bằng cách  cũng cố chiếm đóng  các vùng như các thị trấn  Quế ( Qúy )Lâm – Guilin ,  Vũ Châu - Wuzhou ,   Hửu Lâm- Yulin . Nhắc lại là Triệu Đà   đánh bại vua An Dương ( Vương )   nước  Âu Lạc – Việt Nam ( chuyện cổ tích nỏ thần  lãng mạn Mỵ Châu – Trọng Thủy)  năm 179 trước CN   và thôn tính từ 179  đến  111  trước CN .      

      Năm  42 sau CN ,   tướng Mã Viện – Ma Yuan   đánh dẹp khởi nghĩa Hai Bà Trưng .    Mã Viện  tổ chức lại  chánh quyền Quảng Tây , cải thiện công trình công cọng,  đào nhiều kênh ,  và khai khẩn đất hoang  tăng gia  sản xuất .  Đền thờ Mã Viện  vẫn còn nhìn thấy nhiều noi ở Quảng Tây . Trái lại,  ở Việt Nam ,   ngay cả trụ đồng Đông Hán Mã Viện dựng lên  với  dòng chữ “ Đồng Trụ Chiết , Giao Chỉ Diệt . Mất Đồng Trụ  thì  Giao Chỉ tên Việt Nam thời bấy giờ  bị diệt tan” củng không còn nữa  vào cuối  thập niên thứ 19 ( “ …Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy, chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương …, thơ của Hòang Cao Khải  ).  Từ cuối thời Hán đến bắt đầu đời Đường- Tang dynasty( 618- 907 )    các tộc dân  Mien ( tên gọi ở Tàu là  Yao hay Mán  theo tiếng Việt )  từ Giang Tây – Jiangxi  và Hồ Nam - Hunan   cọng thêm vào  những căng thẳng tộc dân  của Quảng Tây. Khác với tộc dân Tráng, tộc dân Yao kháng cự lại văn hóa Hán - Tàu .  Vùng núi đồi  Qúy Bình- Guiping ,   Tân Tú- Jinxiu  Tú Nhân ?- Xiuren  ở trung tâm Đông Quảng Tây    ( vùng  Đại Yao Sơn- Dayaoshan )  nơi dân Yao  định cư   trở  thành một  trung tâm bất ổn thường xuyên.       Vào các triều đại kế tiếp ,  lại có thêm nhiều cuộc di cư tộc dân Yao từ  các tỉnh  Hồ Nam   Quý Châu – Guizhou  .  
 
Hai Bà Trưng
      Dưới triều đại Đường,  Quảng Tây trở thành   một phần  của một tỉnh lớn  có tên là Lăng Nam – Lingnan .   Nhà học giả lừng danh là Liễu  Dũng  Nguyên- Liu Zongyuan    chủ tỉnh ở Liễu Châu -  Liuzhou.  Tuy nhiên, bức bội về  dân Hán Tàu nới rộng,   dân Tráng   chuyễn qua hổ trợ  vuơng quốc Thái – Tai  Nam Châu - Nanzhao  ở Vân Nam.  Rồi   Quảng Tây chia hai :   một vùng tổ tiên  là Tráng   phía Tây  từ  Quế Lâm – Guilin  đến Nam Ninh – Nanning và một vùng tổ tiên là Hán- Tàu ở  phía Đông . Sau khi  nhà Đường mất , một quốc gia Tàu  độc lập  có tên là  Nam Hán – Nan Han  thành lập,  nhưng sau đó  bị trìều đại Tống -  Song dynasty ( 960 – 1279 )  hủy bỏ năm 971 .   Sử Việt ghi là  tháng 11 năm 938 , Ngô Quyền đại phá  quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng , Lê Hòan   thắng quân Tống xâm lăng tháng 3  năm 981 lần thứ nhất và tướng Lý Thường Kiệt   nhà Lý  ( 1075 -  1077 )  kháng chiến chống quân xâm lược  Tống lần thứ hai . Lý Thường Kiệt, tên thật là Ngô Tuấn  người làng  An Xá huyện Quảng Đức – Gia lâm Hà Nội là tướng Việt duy nhất  đã đánh Tống ở lảnh thổ Tàu  , chủ động đưa  quân Việt sang đánh  các châu Ung, châu Khâm và châu Liêm : đạo quân Tôn Đản phó tuớng của ông hạ thành châu Ung là Nam Ninh- Nanning  tỉnh Quảng Tây và đạo quân ông chỉ huy trực tiếp  theo đường biển đổ bộ vào châu Khâm , châu Liêm tỉnh  Quảng Đông , phá tan âm mưu địch,   rồi rút về nước  chuẩn bị   sẳn sàng đối phó   cuộc tấn công mới của chúng vào cuối năm 1077 . Lý Thường  Kiệt chiến thắng   ở Nam Bắc sông Như Nguyệt ( sông Cầu Hà Bắc- Việt Nam ngày nay ) , phá tan 10 vạn quân  tác chiến và 20 vạn quân  hổ trợ Tống.                              

   Tống cai trị Quảng Tây bằng cách luân phiên   dùng vỏ lực  và hòa  giải , một chánh sách   không  thỏa mãn  nổi  các nguyện vọng  tốc dân Tráng cũng như   không chấm dứt được   chiến cuộc dữ dội dã man  của tộc dân Yao  chống lại Tàu .  Năm 1052   lảnh tụ Tráng Nồng( –Nùng) Chí Cao  - Nong Zhigao  lảnh đạo   cuộc nổi lọan   và thiết lập   một vương quốc độc lập  ở miền  Tây Nam Quảng Tây .   Nổi lọan bị dẹp tan sau một năm , nhưng  miền này   tiếp tục sôi sục bất mãn .   Triều đại Nguyên ( 1206- 1368 ) thiết lập cai trị trực tiếp ,   và lập ra tỉnh Quảng Tây , nhưng liên hệ giữa   chánh quyền và dân gian cũng không cải thiện gì cả.    Liên hệ  các tộc dân càng phức tạp thêm   khi một tộc dân  địa phương khác là Miêu , Mèo – Miao   ( tự xưng là dân Hmong ) , di   cư đến từ Quý Châu - Guizhou   và nhiều dân Tráng   cũng đến từ Giang Tây – JiangxiHồ Nam – Hunan. Nhà Minh ( 1368-1644 )  đối  diện với tình thế phức tạp ,  đề xướng tích cực  thuộc địa quân sự hóa,   trong cố gắng  phá ngầm   đời sống  bộ lạc .  Minh trào cai trị   dân thiểu số  qua hệ thống    Tử tích – tusi ( các lảnh tụ bộ lạc  phục vụ như thể là   nhân viên  của chánh phủ Tàu ).  Điều này đưa tới  những trận chiến đẩm máu  ơ lịch sử Quảng Tây  , đặc biệt  là chiến cuộc giữa tộc dân Yao   Hẻm Song Mây Khổng lồ - Giant Rattan Gorge  gần Qúy Bình - Guiping , năm 1467 .  Nhà Thanh - Qing ( Mãn Châu ) ( 1644 – 1911/12 )   đặc các tộc dân thiểu số   dưới  quyền cai trị  của  hòang đế  năm 1726 , nhưng cũng không đem lại hòa bình . Tiếp theo  cuộc nổi lọan của tộc dân Yao  năm 1831,  là cuộc Nổi Loạn Thái Bình Thiên quốc – Taiping Rebellion  năm 1850 , cũng gần Qúy Bình   dưới quyền lảnh đạo tộc dân thiểu số  và kéo dài mãi  cho đến giữa thập niên 1860. Trong lúc đó,  nhiều  sự cố, kể cả việc   giết chết một nhà truyền giáo Pháp ở miền Tây Quảng Tây , đem đến liên hiệp  Anh Pháp năm  1857,  chống lại Trung Quốc  tên gọi  là Chiến tranh Nha phiến Thứ hai -Second Opium War( hay Arrow ). Đánh nhau  ngắn ngủi   kết thúc bằng  những hiệp ước nhục nhã Thiên Tân – Tianjin năm 1858 . Rồi đến  cuộc Chiến tranh Trung Pháp – SinoFrench War  từ năm  1883 đến năm 1885. Thế ưu việt Pháp  ở Việt Nam  đã phô bày   Quảng Tây  cho ngọai quốc xâm lấn.   Long Châu - Longzhou   mở cửa cho  thương mãi ngọai quốc năm 1889 , Vũ Châu –Wuzhou năm  1897  và Nam Ninh năm 1907,  trong khi vào năm 1898 Pháp  đạt được  một vùng ảnh hưởng  riêng ,  gồm luôn Quảng Tây .


     Quảng Tây kể từ 1900   

    Cùng với tỉnh Quảng Đông   kế cận , những năm đầu  của thế kỷ thứ 20, Quảng Tây    trở thành  căn cứ của Cách Mạng Quốc Dân Đảng  do Tôn Dật Tiên- Sun Yat Sen  ( hay  Tôn Trung Sơn  - SunZhongshan ) lảnh đạo.  Giữa 1906 ,và 1916 , các lảnh tụ Quảng Tây  hổ trợ thiết lập  một Cộng Hòa, và trong thập niên kế tiếp   họ đóng một vài tyro  tích cực   trong việc tái tổ chức  Quốc Dân Đảng Tàu . Theo sau bừng dậy của  Tưởng Giới Thạch - Chiang Kai –shek ( Jiang Jieshi ) nắm quyền  năm 1927,  các lảnh tụ Quảng Tây là     Trung  Nhân – LiZongren    Cát Thiểm – Li jishen  làm thành nhóm Quảng Tây chống đối Tưởng .   Nhóm  làm  nhiều   cận đại hóa Quảng Tây  và duy trì một  thái độ   coi thường chánh phủ Trung ương .  
  . Dù rằng Tưởng  đáh tan chống đối này năm 1929,  Tưởng không đủ khả năng  để chấm dứt  tình trạng bán độc lập của vùng này . Phần tộc dân Tráng  lại thành lập một  lọat  các sô viết cách mạng  ( là các đơn vị   tổ chức cộng sản được bầu lên )  giữa các năm  1927 và 1931 , gíúp  các lảnh tụ mới cọng sản  nổi lên.  Trong thế Chiến Thứ Hai , Quảng Tây là một mục tiêu chánh của Nhật tấn công . Nhật xâm chiếm  Nam Quảng Tây,  năm 1939  và chiếm cứ Nam Ninh   và Long Châu .  Trong thời gian này ,  Quý Lâm - Guilin  trở thành   căn cứ chánh   cho các lực lượng Tàu và Đồng Minh , cũng như là gia thất   của báo chí yêu nước ,Tin tức Hằng ngày   Cứu Quốc – National Salvation Daily News .    Năm 1944,  Nhật  quyết định tiến vào Quảng Tây dù rằng  Nhật ngắn ngủi chiếm   Guilin , Liu zhou  và Wuizhou , nhưng không đủ khả năng chiếm  giữ vị trí .  Các lực lượng   Tàu sau đó  chiếm lại các thị trấn , thành phố lớn .  Ở Nội Chiến Quốc Cọng   theo sau Thế Chiến  thứ Hai,  các lực lượng cọng sản chiếm Guilin tháng 11 năm 1949  và Quảng Tây trở thành  một tỉnh Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc . Vùng tự trị được thiết lập năm 1958 trong  một cố gắng thỏa mãn nguyên vọng dân gian địa phương.

Phần I :   Tổng quát

 

      Vị trí 

 

Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam 
     Chính thức  kể từ năm 1958 là Vùng  Tự  trị Tráng Quảng Tây – Guangxi Zhuang Autonomous  Region.   Diện tích  là 236 700 km2 ( 91 400 dặm Anh vuông ) , đứng hàng thứ 9  về  diện tích các tỉnh – vùng Trung Quốc, nghĩa là nhỏ hơn Việt Nam.  Tọa độ là 20054’- m26024’ Vĩ tuyến Bắc và 104026’ – 112004’ Kinh tuyến Đông .   Bắc  giáp tỉnh Quý ( Quế ) Châu -  Guizhou,  Đông Bắc  giáp  tỉnh Hồ Nam – Hunan,    Tây Nam  giáp tỉnh Quảng Đông  , và Tây  giáp tỉnh Vân Nam  .Biên giới  tiếp giáp Việt Nam  là ở Tây Nam  tỉnh và Vịnh Bắc Bộ về phía Nam. Năm  1952 , một mảnh bờ biển nhỏ  Quảng Đông được đưa cho  Quảng Tây là một vùng đất liền lục địa  không bờ biển  là Bắc Hải-  Beihai, Quế Châu và  Khâm Châu – Qinzhou ;. Vùng bờ biển này  trả lại cho Quảng Đông năm 1955,  rồi lại  qui hòan Quảng Tây năm 1965.     

     Dân số , thành phần các tộc dân   

 

     Thủ phủ là Nam Ninh – Nanning, dân số năm 2010 là   6 6661 600  người . Lớn hơn  thành phố  Quế Lâm- Guilin  nguyên là thủ phủ cũ  tỉnh  và là trung tâm văn hóa  , chánh trị  lịch sử Quảng Tây;   nay dân số chỉ đứng hàng  thứ ba  của Vùng tự trị, sau cả thành phố đông dân thứ   hai là  Du ( Hửu ? ) Châu -  Yu zhou .   Năm  2010, dân số tòan tỉnh    46 026  000 ( theo Britannica . com ) . Năm  2012 là 46 800 000 người , phân nữa tổng dân số Việt Nam .  

     Nay tộc dân đông nhất Vùng là  Hán ( Hoa ) –Tàu . Nhóm Hán  chánh Quảng Tây nói tiếng Quan Thọai-Mandarin  Tây Nam Tàu và các  lọai tiếng  Tàu  Việt- Chinese Yue varieties . Nhóm Tráng – Zhuang   là nhóm đông dân thứ hai ở  Quảng Tây  , có đến 14 triệu người  .  90% tộc dân Tráng   sinh sống ở Quảng Tây  đặc biệt   chiếm 2/3 dân số  ở các vùng miền  Trung và miền Tây . Và tộc dân Hán   chiếm 1/3 còn lại    .   Hai ảnh hưởng ngôn ngữ Tàu  khác  biệt nhau là Quan Thọai Tây Nam , nói nhiều ở quận huyện  Đông Bắc là Quý Lâm -Guilin   và tiếng Quảng Đông – Cantonese    ở phần Quảng Tây còn  lại.  Ngòai ra còn một số  đáng kể dân Dong –Đông ?  và dân Mèo – Miêu – Miao , và một số nhỏ hơn  làcác tộc dân Yao , Hui , Yi ( Lô lô ), Shui    Gin ( tộc dân Việt Nam – Kinh ) . Như đã biết  , tộc dân Tráng  một tộc dân Thái – Tai  đã sinh sống ở  Quảng Tây từ  2500 năm rồi  . Dân Tráng  sống ở đồng bằng    thung lũng các sông   của đồi núi phía Tây  . Họ  trồng lúa nước   và thực hiện  một nền kinh tế   rất dễ   nhập vào dân Hoa – Hán Tàu  .    Họ thường có tên là “dân sống ở nước -  water dwellers  vì các nơi  họ định cư là gần  nước, xây dựng  nhà sàn trên cột , cọc .  Dân Tráng đã sống chung cùng dân Hán từ 2000 năm nay .  Họ thu nhận văn hóa  Tàu , nói luôn cả hai  thứ tiếng  , ngôn ngữ Tráng và  Quảng Đông – Cantonese.    Ngữ vững La mã hóa tiếng Tráng   đã được sáng tạo ra và là một trong 4 hệ thống viết  đã được in  ở các tờ  giấy  đồng bạc Tàu . Nguồn gốc Dong không rỏ rệt , nhưng Dong lại thường được xem là  một nhánh của  Tráng , vì họ rất giống nhau . Dong sinh sống  ỏ các núi cao  phía Bắc gần  biên giới  tỉnh Quế Châu .  Tuy nhiên dân Miêu - MiaoDao – Mán , từ lâu như đã nói,  kháng cự lại sự đồng hóa văn hóa Tàu .   Ngôn ngữ Miêu - Mán  khác biệt nhau  và liên hệ  chỉ xa xăm với Hán .  Không  một ngôn ngữ Hmong – Miên ( Miao – Yao) nào   viết được  cả , mãi cho đến khi ngữ vững   thích nghi với cách viết la tinh  được du nhập vào thập niên 1950.

      Phân Chia Hành Chánh 

     Quảng Tây chia ra làm 14 Phủ - Huyện ( đối chiếu  ngang hàng  tỉnh ở Viêt Nam ) -  dijishì :
     Số      Tên            Huyện lỵ      Tên hán ngữ Pinyin      Dân số           diện tích ( km2 )
      1       Baise          Youjiang             Baise Shi              3 466 800         36 203. 85
       2      Hechi        Jinchengjiang      HéchiShì              3 369 200          33 487 . 65
       3      Liuzhou        Liubei                Liuzhou Shì           3 758 700         18 616. 54
       4      Guilin             Lingui               Guilin Shì               4 748 000         27 622 .89
        5     Hezhou          Babu                 Hèzhou Shì            1 994 100        11 771 . 54
        6      Chongzuo      Jiangzhou        Chongzuou Shì      1994 300         17 345 . 47
        7       Nanning        Qingxiu            Nánning Shì            6 661 600        22 111. 98
        8       Laibin             Xingbin             Láibìn Shì                2 099 700       13 391 .59
        9       Guigang         Gangbei            Guigang Shùi           4 118800       10 605. 44
        10     Wuzhou         Changzhou      Wuzhou Shì              2 882 200       12 554 .94
        11  Fangchenggang   Gangkou       Fangchenggang       866 900          6 181. 19
        12      Qinzhou           Qinnan          Qìnzhou Shì              3 079 700        10 820 . 95
        13      Beihai             HaiCheng         Beihai Shì                  1 539 300         4 016 . 07
        14      Yulin                Yuzhou            Yùlin Shì                     5 487 400        12 828. 11
        14 phủ  huyện này lại chia  ra  làm   37 quận? - shi xiaqu ( Trì hạ khu ? ) , 8 thị trấn   cấp  huyện - xianjishi (  huyện cát trì ? ) và  53  huyện- xian  và 12 huyện tự trị ( zizhi xian ).
    

         Đôi chút địa lý

 

        Địa hình


         Quảng  Tây là một cao nguyên  thấp dần từ  Bắc và Tây Bắc  xuống Nam và Tây Nam.  Độ cao từ 900 đến 1800m ( 3000 đến 6000 bộ Anh )  trên mặt biển, đạt ở mép bìa  Cao Nguyên  Vân Nam  - Quý Châu ( Yunguei )    ở Tây Bắc ,  các rặng núi   Liễu? Văn-jiuman và Phong Hòang- Fenghuang ở Phía Bắc    các núi Việt Thanh –YueCheng ở Đông Bắc . Đa số  vùng này  gồm các  đồi  núi cao  từ  450 đến 900m (  1500 – 3000 bộ )  . Phía Tây là các núi Đô Dương-  Duyang   cao đến 2000m ( 6500 bộ ) . Ở Đông Nam, các đất thấp ở độ cao chừng 90 – 450m ( 300- 1500 bộ ).   Đá vôi chủ trì  nhiều phần Quảng Tây   làm thành những cảnh quan ngọan mục   Karst  , trong đó các đỉnh núi nhọn – pinnacles  tháp hình chóp xoắn ốc- spires , và các hang động lớn nhỏ  , các hố  đất sụp – sinkholes và các dòng nước ngầm đầy rẫy .  Các đồi núi  đá ngọan mục , những tháp xoắn ốc  hình thù  quái đản và các hang động  hình dáng  lạ lùng   có các thạch nhủ  đủ lọai  ,được tìm thấy nhiều nơi trong vùng , đặc biệt gần Quế, Quý Lâm – Guilin . Nhưng cảnh quan này   song song với những lọai tương tự  tìm ra ở  Quý Châu láng giềng  và ở Vân Nam  đã  đuợc UNESCO xếp chung   thành một vị trí  Di sản  Thế giới – World Heritage  năm 2007 . Núi cao nha6’t Quảngb Tâyb là   Kitten Mountain ở rặng Việt Thanh  cao 2141m ( 7 024 bộ ) .

    Đất đai và thủy văn 

      Các sông  Tân – JinNam Liễu – Nanliu   chảy về Vịnh Bắc Bộ .  Dòng chánh sông  Hương – Xiang  chảy về hướng  Đông Bắc vào tỉnh Hồ Nam. Vô số sông còn lại của Quảng Tây  gồm Hồng Thủy-Hongshui,  Lưu- Liu ,  Cương ? -Qian ,  Hửu-You , Tả-  Zuo ,  Xuân ? XunQúy- Gui   theo hướng nghiêng lệch  Đông Nam  đúng theo  đặc điểm địa hình  phần lớn Quảng Tây .  Chúng  khởi sự từ một lọat nguồn  và chảy vào  nhau  theo một   kế tiếp đồng quy, mãi cho đến khi chúng nhập  vào một sông chánh là sông Tây -  Xi.    Hệ thống sông  mạnh mẽ này   bắt nguồn từ Vân Nam  chảy rộng ngang qua  tòan vùng Quảng Tây     trước khi  đổ vào  biển Nam Hải  ( Biển Đông )  gần Quảng Châu – Guangzhou ( Canton )  tỉnh Quảng Đông .   Vùng đồi núi gồm đất đỏ , trong khi  các đất thấp  lại là phù sa  do các sông đưa tới.

      

 Khí hậu 

       Tòan vùng , khí hậu ấm áp đủ  để bảo đảm  trồng trọt suốt năm . Mùa hè kéo dài từ tháng tư đến tháng 10 ,  rất là nóng nực  điên đầu và ẩm độ cao . Mùa đông dễ chịu và ít khi tuyết rơi .  Nhiệt độ tháng 7   là từ 27 đến 32 độ C (  80- 90 độ F  ).  Nhiệt độ trung bình tháng giêng là từ 4 đến 16 độ C (  40- 60 độ F ).   Vì ảnh hưởng  của gió mùa đem mưa tới,  thổi từ phía Nam  đến  Tây Nam  vào cuối tháng tư  cho đến cuối tháng 9, nên mưa rất nhiều . Vùng Tây Bắc khô hạn  và vùng ẩm ướt là phía Nam và phía Đông .    Lượng mưa trung bình   là từ 1080 mm ( 43 ngón Anh ) đến   1730mm(  68 ngón ) ở  vùng khô hạn và  vùng ẩm ướt  nhận tối đa là  2760 mmm ( 109 ngón ).  Đa số mưa rơi xuống  xảy ra vào tháng 5 và tháng 8 .  Ở cực Nam, mưa to do bảo tố gây nên thường   xảy ra  giữa tháng 7 và tháng 9 .

                Đời sống động vật và thực vật

            Rừng bao phủ gần ¼ Quảng Tây.   Các rừng linh sam – fir , thông đỏ , thông tuyết, bá hương –cedar, long nảo – camphor , gỗ hồng sắc – rosewood  tìm thấy ở phía Bắc và phía Tây vùng ,   cam- quýt mọc nhiều  ở phía Nam , trong khi quế muồng – cassia, cây anít – anise  và cây cọ   trầu – betel palm   phồn thịnh ở nhiều nơi .  Hai lòai  họ thông  Cathaya mọc nhiều ở các rừng  phía Đông  Bắc .  Các rừng gỗ  là dự trữ qúi gía     để khai thác gỗ . Phía Trung  và Nam Quảng Tây,   nay nhiều đồi núi trọc   đã bị cỏ hòa bản -grasses  cao lớn  chiếm cứ , được dùng làm nhiên liệu   hay đồng cỏ  nuôi trâu con . Các động vật   hoang dã nổi bật là bò rừng –bison, heo(lợn ) rừng – boars,  gấu ,  vượn –gibbons ,  nhím – hedgehogs, và  vẹt mào – cockatoos.

  Tài nguyên  khóang chất và  làm thủy điện

          Vùng tự trị có vài trầm tích than đá và sắt  hổ trợ một phát triễn công nghệ khiêm tốn .   Than đá được khai thác  phía Bắc Guilin và  phía Nam Liuzhou và quanh Bise ở phía Tây . Sắt được đào mỏ  ở gần biên giới  Quảng Đông – Hồ Nam,   cũng như ở  Đông Nam Quảng Tây.  Tài nguyên khai thác khóang chất khác là  thiếc   ( Quảng Tây  sản xuất thiếc chánh ở Trung Quốc ) , tungsten , măng gan  và antimony .  Một số ít bismuth , kẻm,  hafnium và chì  cũng được khai  thác .
        Tiềm năng thủy điện Quảng Tây  rất to lớn . Trạm thủy điện  lớn Longtan trên sông Hồng Thủy  phía Đông Bắc Quảng Tây   khánh thành năm 2008 .  Điện cũng được phát ra từ các nhà máy nhiệt điện .  Khí sinh học – biogas  ( nhiên liệu phát sinh từ phế thải con người  động vật )  lan tràn khắp nơi,  dùng cho tiêu thụ gia thất .



 Phần II : Phát triển kinh tế  Quảng Tây 

 

 

   Kể từ năm 1949 ,   Quảng Tây   đã tiến bộ lớn  về phát triễn Kinh tế . Đập , kênh đào ,và hồ dự trữ  đã được xây dựng  lên để tưới tiêu  các đất đai khô hạn,  các trạm thủy điện được xây cất và  các tài nguyên khóang chất được khai thác để khích lệ công nghệ cận đại   và công nghệ nông thôn  cũng được phát triễn   để đa lọai hóa nền kinh tế làng xã .  Quảng Tây đã trở thành tự túc lúa gạo và thật tế đã xuất khẩu gạo  thặng dư  qua Quảng Đông .  Vùng  Kinh tế  Vịnh Bắc Bộ ( Vịnh Bắc Kỳ - Golf of Tonkin) được thiết lập năm 2006 , hầu  đề xướng  Quốc tế tham gia  và phát triễn vùng  Vịnh Bắc Kỳ .    

   Quảng Tây có vài trầm tích than đá và quặng sắt  để hổ trợ cho  một phát triễn   khiêm tốn công nghệ  . Than đá được khai thác ở Quế Lâm  và Nam Liễu Châu  và quanh Bise  ở phía Tây .  Sắt được khai thác ở vùng gần biên giới  Quảng Đông-  Hồ Nam  cũng như ở  Đông Nam  Quảng Tây .Các tài nguyên khóang chất khác khai thác là  thiếc , tungsten , măng gan và  ăng ti moan – antimony .  Cơ sở thủy điện  to lớn   Long tân ?-Long tan hòan tất năm 2008  trên sông  Hồng Thủy – Hongshui   Ở Tây Bắc Quảng Tây . Điện cũng được phát xuất từ các nhà     máy nhiệt điện . Tiêu thụ điện gia thất lan tràn,  nhờ dùng  khí nhiên liệu của các phế thải con người  hay động vật. Mạng lưới điện Quảng Tây sẽ đầu tư 4.6 tỉ yuan  cải thiện mạng lưới  trong thời gian Kế họach Ngũ niên thứ 11  . Đến giữa năm 2007, Quảng Tây đã đầu tư 2.5  tỉ Yuan  , trong số này , 2.3  tỉ   nhắm vào  dự án xây dựng mạng lưới điện chánh.  Cho đến nay   4 trạm phụ biến điện mới   đang ở nhiều giai đọan hòan tất  . Trạm phụ Văn Phủ - Wenfu    đã họat động ở Thành phố Hà Trì - Hechi  tháng giêng năm 2007  và đã trở thành   trung tâm  chánh yếu  cho hệthống điện    quanh 3 phủ huyện. Khi  trạm phụ Cảng vũ – Cangwu  hòan tất  , nó sẽ tăng gấp đôi  khả năng  trạm biến điện địa phương . Tháng 6 năm 2007 ,   trạm phụ Trùng Tả - Chongzuo  đã làm xong thử nghiệm  . Tháng đó ,  Kỳ Long – Quilong  cũng bắt đầu sản xuất , sẽ hổ trợ  hệ thống điện ở Thànhphố Kỳ Long cũng như  miền Bắc Quảng Tây  và làm dễ dải   dự án khắp Trung Quốc chuyễn điện từ Tây sang Đông .

    Nông Lâm Ngư

 

  Chỉ vài  vùng  nhỏ bé Qủang Tây là trồng trọt được . Nông nghiệp tập trung  ở các thung lũng sông và      các đồng bằng đá vôi .   Núi đồi thường làm các ruộng bậc thang những nơi nào làm được .  Kể từ thập niên 1950 ,  chánh phủ  đã mở rộng thêm đất canh tác mới  bằng dẫn thủy nhập điền  và máy cày . Hoa màu chánh là lúa gạo ,  bắp ( ngô )  , lúa mì   và kjoai lang .   Hoa màu thương mãi  chánh là mía và đậu phụng ( lạc )  , mè ,   gai sợi-ramie  ( cỏ Tàu – china grass ), thuốc lá , bông vãi  chàm – indigo .  Quảng Tây cũng  sản xuất nhiều lọai trái cây ( ăn quả )  . Nuôi gia súc tùy thuộc vào nông trang .  Trâu dùng để kéo xe tại các ruộng lúa dù cho có sự cố cơ giới hóa. Heo ( lợn ) , gà , vịt  được nuôi ở nông trang  và dê nuôi trên đồi .  Nhiều vùng trồng dâu nuôi tằm . 

 Lâm nghiệp Qủang Tây ( nếu trùng với  phần I, xin hủy  bỏ  )  sản xuất gỗ kiến trúc  và sản phẩm rừng quan trọng .  Ỏ miền Bắc  khai thác rất nhiều thông .,linh sam – fir và tre khổng lồ ( lồ ô ? ), thông tuyết ( thông bá hương)- cedar  .   Gỗ đàn hương –sandalwood màu đỏ , đen cũng được  sản xuất  ở miền Tây.  Quan trọng hơn nữa là   sandarac  , một lọai nhựa – resin  dùng làm vẹc ni – varnish  và giang ( thang  đèn) – incense,    đại hồi anít Tà                u – Chinese anis,  vỏ quế  bì - quế tàu Cinnamomum  cassia ( Chinese  Cinnamomum  ) có lẽ không tốt bằng  quế Thanh ( quế Sài gòn, quế Qùi,  cannelier royal) mọc ở Trường Sơn từ Thành Hóa vào Nam  vú lá – nutgall   vết sưng trên cây sồi – oak trees dùng làm tannin và long nảo-  camphor .  Dầu tùng , dầu trà ( chè ) và dầu thì là –fennel oil cũng được sản xuất ở Quảng Tây .   Vài loại này và các sản phẩm khác là những thành phần  cốt cán cho Đông Y Tàu ( Thuốc Bắc ? ) . 

    Đánh bắt  thủy sản  cũng phổ thông ở Quảng Tây  . Cả đánh bắt trong lục địa và ngòai khơi   ở Vịnh Bắc Kỳ  là nơi có nhiều  luồng cá đông đảo , giàu có  nhất thế giới .  Đánh bắt  gồm có    nạng –  croaker                ( vì  tiếng cá kêu ộp ọạp – croak ), cá trích – herring , mực , tôm , lươn , cá vượt – perch,  cá thu – mackerel  , cá mập và cá tầm – sturgeon .    Đánh bắt cá con   ở nhiều dòng sông suối    để nuôi thủy sinh – aquaculture   là đặc điểm ngành đánh cá nước ngọt . Nuôi cá  và nuôi tằm   bổ sung nhau :  kén tằm phế thải  dùng nuôi cá  và bùn hồ  nuôi cá  dùng làm phân bón   cho các vườn dâu lá nuôi tằm . Nuôi ngọc trai   quan trọng ở gần Hà Phổ - Hepu, cạnh bờ biển  Vịnh Bắc Kỳ đã nổi tiếng là “ ngọc trai đẹp  miền Nam Trung Quốc “ .  

      Công nghệ

 

      Công nghệ nhẹ sản xuất tơ sợi , bột giấy ,  tơ lụa ,  da thuộc và diêm quẹt , hóa chất  và dược phẩm  cũng như  gôm sandarac , đường mía, thuốc nhuộm , dầu ăn và chất béo . Nhựa thông   là một xuất cảng đáng kể của Vũ Châu. Công nghệ nặng    các ngành sắt và thép  ỏ Liễu Châu,  Hà Trì  và Lữ Giai – Luzhai, sản xuất máy móc ở Nam Ninh và Vũ Châu , xi măng ở Liễu Châu.   Các tiểu công nghệ vô số kể Quảng Tây   gồm  áo quần bông vải và gai sợi , giấy tre ,  giấy rơm rạ lúa  và lược tre .   Kể từ thập niên 1980 ,   nhiều ngành công nghệ phát triễn mau lẹ tỉ như  các nhà máy làm xe hơi – ô tô ,  các động cơ diesel nặng  và phân bón hóa học .

      Đầu tư

 

      Lớn nhất là Đài Loan.  Riêng năm 2007 , có 71 côngty tư bản hiểm nguy Đài Loan  khởi thủy ở Quảng Tây,   đầu tư  149 triệu đô la Mỹ     xuất khẩu ròng – gross exports  trên  1 tỉ đô la . Tinh đến  cuối năm 2006 , Đài Loan đã có 1182 công ty  tư bản hiểm nguy  ở Quảng Tây , đưa tổng số  đầu tư lên đến  4. 25 tỉ $ .  Giữa năm 2007 ,  43 dự án  trị gía 2.6 tỉ RMB  ( 342 triệu $ )  đã  ký kết khế ước   giữa Quảng Tây và các nhà đầu tư Đài Loan . Hợp tác  liên hệ chánh yếu giữa các công ty Quảng Tây và Đài Loan là  chế tạo , các công nghệ  điện tử cao kỷ , nông nghiệp , tài nguyên năng lượng và du lịch .

Nam Ninh
 

    Các Khu công nghệ    thành phố - thị trấn lớn Quảng Tây đáng thăm viếng ngày nay là 

 

     - Khu công nghệ Trung tâm  là Nam Ninh và Liễu Châu
     -  Khu công nghệ Phía Đông là Vũ Châu và Quế ( Quý ) Lâm, gần biên cương  các tỉnh phía Đông Trung Quốc là Hồ Nam  và Quảng Đông
    - Khu công nghệ Phía Nam là Khâm Châu , Bắc Hải,  Phương Thành Cảng
   Năm 1999 , Nam Ninh có 2 859 000 người, GDP là 27.6 tỉ RMB  , và giá trị công nghệ là 18.7 tỉ RMB  .  Đầu thế kỷ thứ  20,  Nam Ninh  là một thị trấn buôn bán tương đối nhỏ , nhưng  phát triễn mạnh  sau năm  1949 . Nay là một thành phố công nghệ phồn thịnh.  Nam Ninh nằm trên sông Dũng –yong, một phụ lưu của  sông Châu ( Pearl river )    hình thành  một thung lũng phì nhiêu,   phía Bắc các núi   dựa trên biên giới Việt Nam. Công nghệ chế tạo gồm có  sắt và thép , aluminium , chế biến thực phẩm , phân bón hóa học và máy móc cơ học .  

  Năm 1999 , Liễu  Châu dân số là 1804 000 người , GDP là 17.5  tỉ RMB , trị giá công nghệ là  27.1 tỉ  RMB .  Liễu  Châu cách  Đông Bắc Nam Ninh  200 km   trong một khúc sông Liễu – Liu  uốn cong ngặt .   Nay Liễu Châu là  trung tâm công nghệ lớn   nhất Quảng Tây ,   dù rằng như mọi thành phố Vùng tự trị , vẫn chưa phát triễn gì mấy năm 1949.  Liễu Châu  có nhiều xa lộ chánh  và đường xe lữa   gíúp cho Thành phố  thành một trung tâm địa phương quan trọng .   Nổi tiếng về máy móc , thiết bị điện tử  và hóa chất . Liễu Châu cũng vang danh về các sản phẩm đồ gỗ và giấy.   Liễu Châu  là một trung tâm  xe hơi  motor  chánh yếu  . Hảng Hoa Kỳ General Motors  có một căn cứ chế tạo   ở đây ,  làm một công ty tư bản hiểm nguy  chung sức tên là  SAIC- GM – Wuling Automobile  . Thành phố  cũng đã có  một  xưởng  thép lớn và nhiêu công nghệ liên quan  . Chánh quyền vùng tự trị hy vọng   sẽ nới rộng thêm   khu vực chế tạo   và trong khi lập   Kế họach Ngũ niên Tàu,  năm 2011  đã  dành riêng 2.6  ngàn tỉ - trillion RMB   đầu tư vào  Khu Kinh tế Vịnh Bắc Bộ ( Bắc Kỳ ) .
Kỹ nghệ hàn xe trong 1 xưởng xe ô tô  ở Liễu Châu (LiuZhou) Quảng Tây 

   Năm 1999, Vũ Châu đã có 2 707 000 người,  nằm dọc theo Sông Châu  và chỉ cách biên giới  Quảng Đông vài km .  GDP năm đó là 11.6 tỉ RMB và trị giá sản xuất công nghệ là 11.4 tỉ RMB .  Từ thế kỷ thứ 18 , đã nổi   danh về thuốc lá và thuốc cây cỏ đông y.  Vũ Châu nằm trên đường nhiệt đới Tropic  of Cancer  cách Nam Ninh đôi chút về phía Bắc .

     Năm 1999 , Quế ( Qúy ) Lâm  đã có  4 792 000 người  ( để so sánh, dân số Sài Gòn năm 1999 là  5 0 73 000 người  và Hà Nội là  2  672 000 người ); Cũng vào năm 1999 , GDP Quế Lâm là 27.6 tỉ RMB và sản phẩm công nghệ trị gía 22,2 tỉ RMB. Quế Lâm nằm về  phía Đông Bắc Quảng Tây , cách biên giới Hồ Nam  chừng 80 km.  Đây là một trung tâm chuyên chở và công nghệ quan trọng , nhưng lại nổi tiếng nhiều hơn nữa,  nhờ  là vị trí cảnh quan  đẹp đẽ    của các đỉnh núi  đá vôi phi thường các nhà thơ và họa sĩ Tàu cổ điễn   đặc sắc trình bày .  Các họat động kinh tế Quế Lâm  gồm đánh cá , chế biến thực phẩm  và chế tạo phân bón hóa học , đồ cao su ,  tơ sợi, máy móc , thiết bị điện tử .  Và khai thác các mỏ thiếc và tungsten kế cận.  

       Năm 1999, dân số Khâm Châu – Qinzhou là 3148 000 người , GDP là 12.8 tỉ RMB và sản phẩm công nghệ trị giá 6.2 tỉ RMB .   Khâm Châu rất gần  bờ biển và cách Nam Ninh chừng 100km  về phía Nam .            Năm 1999, dân số Bắc Hải- Beihai  chỉ là 139 000 người  , nhưng  GDP lên đến 10.8 tỉ RMB và  sản phẩm vông nghệ trị giá 8.8 tỉ RMB .  Bắc Hải nằm   trên một bán đảo   phía Đông Nam  Quảng Tây ,  cách bán đảo lớn hơn là Leizhou tỉnh Quảng Đông khỏang 70km. Bắc Hải nổi tiếng  về ngọc trai đẹp .
     Năm 1999 , Phương Thành Cảng – Fangchenggang  có 771 000 người , GDP là 5.5 tỉ RMB , sản phẩm công nghệ trị gía 3.9 tỉ RMB,nằm trên một bán đảo  còn nhỏ  hơn nữa phía Tây Bắc Hải  , cách Khâm Châu   về  phía Tây Nam , khỏang 50 km.  Đây là một hải cảng ưu tú .   

     Tưỏng cũng không nên quên   vùng kinh tế biên giới  với Việt Nam ( qua  Nam Quan , Đồng Đăng , Lạng Sơn ….) là Bằng Tường - Pin Xiang, thiết lập năm 1992; diện tích  720 ha ( 7.2 km2, 2.8 dặm Anh vuông ) ,   tụ điểm vào   phát triễn các   sản phẩm phần cứng cơ học  và điện , chế biến hóa học cần dùng hằng ngày , dịch vụ,  công nghệ   tồn trữ và thông tin  căn cứ hậu cần- logistics based  .  

      Tuy vậy , những năm gần đây,   nền kinh tế  Quảng Tây đã mất nhuệ khí  , phải đứng sau   tỉnh Quảng Đông , tỉnh giàu có  láng giềng và anh em sinh đôi . Năm 2011, GDP Quảng Tây  là 1171 tỉ   đồng  yuan  ( 185.9 tỉ $ US  ) và chỉ đứng hàng thứ 18  ở Trung Quốc  . GDP mỗi đầu người   Quảng Tây năm đó là  15 800 yuan  ( 2300 $US  )  .   Nên nhớ là năm 1999 GDP    mỗi đầu người  Quảng Tây chỉ đến  4 148 RMB ( chừng    600 $  ,  dân đô thị  5619 RMB ( chừng  800 $ ) và dân nông thôn  2048 RMB (  chừng 300 $ ).   Năm 2000,  lợi tức mỗi đầu dân Sài Gòn  chỉ là 2180 $ và trung bình cả nước là trên 400 $. Năm 2013 , lợi   tức mỗi đầu người  Sài Gòn leo lên đến   4500 $ .     
  
   Ngành du lịch đặc biệt hướng về thành phố Quý ( Quế) Lâm , tăng nhanh chóng vào thập niên 1980  và trở thành một nguồn lợi tức lớn cho Quảng Tây.    Địa hình karst  khác biệt và ngọan mục  gần Quế Lâm   là một nơi du lịch  phổ thông nhất của Trung Quốc .  Đáng kể thêm là đi chơi biển dọc Sông Lý Giang – Li jiang   từ Quế Lâm đến Dương Thạc – Yangshuo phong cảnh giống hệt các bức tranh vẽ cổ điễn Tàu . Cảnh quan đá vôi karst  các đồi núi , các núi hình nón và hình trụ đã là nguồn  cảm hứng   cho nghệ sĩ  và thi sĩ  Trung Quốc từ thời xa  xưa   và cũng được trình bày trên các  tờgiấy   tiền tệ Trung Quốc .  Thác Đức Thiên -Detian   hay thác Bản Giốc ? ( Trung Quốc chiếm một phần của Việt Nam  năm 1979 ?)  nằm ngang  qua biên giới  Trung Quốc và Việt Nam  hình thành từ   các dòng sông suối  độ cao  và kích thước khác nhau chảy xuống rừng theo 3  tầng bậc.  Được xem là  một trong những thác  đẹp nhất Trung Quốc   . Bản Giốc có cảnh quan hay đổi 4 mùa

Chùa Tháp ban đêm ở Quế Lâm
  

     Chuyên chở 

     Hệ thống đường sông  phức tạp Quảng Tây  cống hiến  chuyên chở  thuận tiệ n gần khắp Vùng Tự Trị.   phần lớn  giao thông là  thuyền , dù rằng nhiều  phần sông đi lại được   bằng tàu có động cơ và các tàu chạy hơi nước .  Khi các dự án cải thiện  vài đường sông hòan tất ,  các tàu  chạy hơi nước  1000 tấn  có thể đi từ Nam Ninh đến Quảng Châu  ,thuộc tỉnh láng giềng  Quảng Đông  vào thập niên  2000. 

    Đường xe lữa Hồ Nam – Quảng Tây (còn có tên là   đường Tường- Quế, Qúy – Xianggui Line )    cắt xéo (chéo ) góc suốt Vùng , từ Đông Bắc  đến Tây Nam . Đây là   mạch sống lục địa  khẩn thiết   nối đường  xe lữa  Bắc Bình – Quảng Châu    và ở phía Nam Bằng Tường – Pingxiang  với hệ thống xe lữa Việt Nam . Đương  chạy ngang qua 3 Thành phố lớn Quảng Tây là Nam Ninh , Liễu châu và Quế  Lâm. Đa số  đường xe lữa Quảng Tây khác đều nố vào đường Xianggui.    Một nhánh chạy  từ Lý Đường – litang   đến thành phố  hải cảng  Trường Giang – Zhanjiang  ở tỉnh Quảng Đông .  Đường xe lữa  Quảng Tây – Quế Châu  nối  Liễu Châu  với   Quý, Quế Dương   ( tỉnh Quế Châu )  song song với  đường Liễu Châu -  Chí Thanh (Zhicheng)   khai trương năm 1978  đã  là một động lực thúc đẩy   phát triễn miền Bắc Quảng Tây . Một đường xe lữa mới,  hoàn tất năm 1997, nối Côn Minh ( Vân Nam )  với  Nam Ninh     Bắc Hải - Beihai   trên bờ biển Vịnh Bắc Kỳ , giúp cho   các tỉnh  Tây Nam  một con đường trực tiếp  đến cảng biển này.  

   Hệ thống xa lộ  cũng đã được nới rộng đáng kể , từ năm 1949.  Mạng xa lộ làm ra  một hình chữ nhật   trung tâm , có Nam Đàn- Nandan ( Tây Bắc ) ,Liễu Châu , Nam Ninh và Baise (  Tây )  ở 4 góc , từ đó   tỏa ra các đường khác . Cao tốc  Quế Lâm - Bắc Hải , cắt đôi Quảng Tây   từ Bắc chí Nam , được   khánh thành năm 2000 . Các cao tốc  từ Đông Bắc Nam Ninh đến Liễu Châu , phía Nam  đến  Phương Thành Cảng- Fangchenggang  và phía Tây Nam  đến Hữu Nghị Quan – youyiguan sát cạnh biên  giới Việt Nam , cũng được khánh thành  đầu thế kỷ thứ 21 .   Đường hàng không  , trọng tâm   là Nam Ninh , Liễu Châu và Quế Lâm, phần lớn là  bay đến  các thành phố Trung Quốc khác , với vài chuyến  bay đi ra ngoại quốc quanh Vùng .
                                      


               ( Irvine , Nam Ca Li,  ngày 11 tháng 10 năm 2015 )

          

                          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét