Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Tỉnh Hà Nam

         Lạm bàn về Hà Nam, một tỉnh ít dân nhất Đồng Bằng, áp chót về diện tích chỉ trên Bắc Ninh đôi chút và  phát triển kém cỏi nhất miền Đồng Bằng Sông Hồng .

                                       G S Tôn Thất Trình


                                                                …Sông Đuống trôi đi
                                                                   Một dòng lấp lánh
                                                          Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ.
                                                                 Xanh xanh bải mía bờ dâu,   
                                                                      Ngô khoai biêng biếc
                                                               Đứng bên này sông, sao nhớ tiếc
                                                                 Sao xót xa như rụng bàn tay.
                                                                … Mình đi có nhớ những ngày,
                                                                      Những nàng dệt sợi,
                                                                      Đi bán lụa mùa
                                                                     Những người thợ nhuộm
                                                                       Đồng Tỉnh Huê Cầu
                                                                    Bây giờ đi đâu về đâu?
                                                                    Những cô nàng cắn chỉ môi trầu
                                                                    Những em xột xọat quần nâu
                                                                    Bây giờ đi đâu về đâu ?...
                       ( trong bài thơ “ Bên Kia Sông Đuống” của Hoàng Cầm 1922- 1988 ? , nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã bị chế độ độc đảng miền Bắc trù yểu nặng nề với nhiều nhà trí thức miền Bắc yêu nước khác… )        
                                                                                       

                Vị trí , lãnh thổ


                 Hà Nam là một tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Hồng ĐBSH. Bắc giáp Hà Tây ( nay là TP Thủ đô Hà Nội nới rộng ), Đông giáp Hưng Yên, Thái Bình, Đông Nam giáp Nam Định, Nam giáp Ninh Bình ,Tây giáp Hòa Bình. Diện tích tòan tỉnh  năm 2001 là 85.1 km2. Năm đó , diện tích Bắc Ninh là 80.4 km2, TP Hà Nội  chưa nới rộng là 92.1 km2  và Hưng Yên là 92. 3 km 2.  Dân số Hà Nam  năm 1995 chỉ là 763700 người  it hơn cả Ninh Bình năm đó 855 500 người,  Bắc Ninh  916 000 người và Thủ đô Hà Nội  đã trên 2431 000 người rồi. Năm 2000, dân số Hà Nam là 805 800 nguời tăng thêm trên 42 000 người.  Năm 2004,  dân số Hà Nam là 820 000 nguời.  như vây cuối năm 2012, Hà Nam có thể đã  có gần  900 000 người .  Các tộc dân Hà Nam đa số là Kinh ( Việt), một ít người Tày, Mường và Hoa. Điểm đáng nói là tỉ lệ tăng dân số Hà Nam trung bình các năm 1991- 1999 thấp hơn mức trung bình cả nước; năm 1999 chỉ còn 1,5 %, các thị xã Phủ Lý các huyện Thanh Liêm, Duy Tiên có độ gia giảm lớn nhất tỉnh. Cơ cấu dân cư giới tính Hà Nam đặc biệt là nữ nhiều hơn nam. Từ năm 1990 đến năm 1999 , dân Nam chiếm 45.9 – 48.6% , trong khi dân nữ  chiếm  41,5 đến  54.1 % . Sở dĩ như vậy , có lẽ là vì sau thời gian “đi B” đánh Việt Nam Cọng Hòa , đa số dân Nam Hà lại bị động viên đi chống Trung Quốc Đặng tiểu Bình xâm lăng  các tỉnh biên giới miền Bắc gọi là “ trừng phạt” Việt Nam đã giám trả đủa  Việt Nam  chiếm đánh Khmer Đỏ, Trung Quốc Đăng Doanh  Chiêu, vợ Chu Ân Lai đặc biệt  hổ trợ, kể từ tháng 2 năm 1979. Xu hướng này nay đã thay đổi: tỉ trọng nam tăng lại và tỉ trọng nữ giảm .  
             

                 Giao thông


  Hà Nam có quốc lộ 1A là cửa ngõ phía Nam của ĐBSH, cách thủ đô Hà Nội gần 60 km là tuyến đường giao thông xuyên Bắc Nam quan trọng bậc nhất nước ta, chạy qua địa phận Hà Nam từ cầu Giẽ đến cầu Đoan dài 36 km ; đường xe lữa Xuyên Việt  Bắc Nam  ở lảnh thổ Hà Nam  dài hơn 30km  ( năm 2000 vẫn còn khổ đường hẹp 1m, có 4 ga trong tỉnh nhưng đều là ga xép ( lọai 4 hay lọai 5 ), nối Văn Điễn, Thường Tín  rồi Phủ Lý,  ngoặc phía Đông tới Nam Định rồi ngoặc lại phía Tây đến Ninh Bình, Tam Điệp , Bỉm Sơn …xuôi Nam ( ngòai ra  có gần 10km đường sắt   chuyên dùng nối từ ga Phủ Lý đến khu mỏ đá Kiện Khê ); quốc lộ 21A nối thị xã Phủ Lý và thị xã Nam Định;  đường 21 B ( ? ) qua các huyện lỵ Quế ( Kim Bảng ), Duy Tiên tỉnh nhà  đến HưngYên ( Phố Hiến xưa cũ ) rồi nối tiếp quốc lộ 39 đi Hưng Yên, Thái Bình;  quốc lộ 21 B  đọan Chợ Dầu- Ba Đa dài 16.8 km; các đường 60A và 60B nối  với đường quốc lộ 1A  tại Đồng Văn …Không rỏ cầu Yên Lệnh phía nam thủ đô nay đã thực hiện xong chưa ? Giúp Hà Nam có  cơ hội thuận  lợi giao lưu kinh tế, văn hóa, tiếp nhận văn minh đô thị (hiện còn rất kém cõi …) của hai miền đất nước, nhất là từ thủ đô Hà Nội và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nhắc lại là ở quan niệm 5 vùng kinh tế lớn Việt Nam  vào đầu thập niên 1990,  Hà Nam thuộc về  Tây Nam Bắc Bộ  gồm 29 TP, quận lỵ và thị xã  và 129 huyện: TP Hà Nội, Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang …  Hà Tây, Hòa Bình … Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa.  Quan niệm xưa cũ đã trên 30 năm cần  sửa đổi,  chiếu theo những tiến bộ ở ĐBSH ngày nay mô phỏng phát triễn Nhật trước năm 2000 và Nam Hàn (Hàn Quốc) từ thập niên 1980 đến hôm nay ( xem các bài liên hệ đã đang ở Blog the Gift www.tonthat-tonnu.blogspot.com ).   

           Các đường sông Hà Nam rất phong phú, dài hơn 200km, gần 100 km là 2 con sông chánh Bắc Bộ sông Hồng và sông Đáy. Các sông khác là sông Châu, sông Nhuệ … tổng cọng gần 100 km của 10 con sông lớn  phân bố ở hầu hết các huyện.  Sông Đáy là một chi lưu bên phải sông Hồng, chảy từ đập Phùng huyện Đan Phượng - Hà Tây qua thị xã Phủ Lý, rồi ra cửa Đáy  phía Nam Nam Ninh Bình. Sông Nhuệ dài 74 km cũng là một chi lưu Sông Hồng, chảy phần lớn  qua thị xã Hà Đông tỉnh lỵ Hà Tây cũ.  Sông Phủ Lýsông Nam Định nối sông Hồng và sông Đáy. Các đường sông các huyện tuy nhiều, nhưng tác dụng vận tải rất hạn chế vì vướng các đập, các cống như: đập Vĩnh Trụ, đập Trung, đập Phúc, cống Phủ Lý, cống Điệp Sơn.

   Năm 2000, Hà Nam vẫn chưa có chánh thức cảng  sông do ngành giao thông quản lý. Hiện nay chỉ  mới có các cảng, bến bải chuyên dùng như cảng Đọ Xá, cảng Kiện  Khê, cảng nhà máy xi măng  Bút Sơn, bến Vĩnh Trụ, bến An Bài, bến Điệp Sơn.   Không rỏ các cảng sông lớn hơn dự trù  như cảng Như Trác ( 800 000 tấn/năm )  và cảng Đọ Xá ( cũng 800 000 tấn / năm )  nay đã tiến tới đâu ?

               Phân chia hành chánh


              Tỉnh Hà Nam được thành lập năm 1890. Năm 1913, Hà Nam nhập vào tỉnh Nam Định. Năm 1923, Hà Nam trở thành tỉnh riêng biệt. Tháng 4 năm 1965, Hà Nam lại sáp nhập với Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Tháng 12 năm 1975 sáp nhập Nam Hà với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Tháng 11 năm 1996, tỉnh Hà Nam được tái lập. Ngày nay, Hà Nam gồm 5 huyện ( nay đã bỏ danh từ phủ hay huyện lớn và danh từ tổng gồm nhiều xã ) và 1 thị xã : thị xã  tỉnh lỵ Phủ Lý, các huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục. Hà Nam có 7 thị trấn, thị trấn lớn nhất tỉnh là thị xã Phủ Lý, tỉnh lỵ Hà Nam  gồm 4 phường, 2 xã. Các thị trấn khác là Hòa Mạc, Đồng Văn ( huyện Duy Tiên ), Quế ( huyện Kim Bảng ), Vĩnh Trụ ( huyện lý Nhân), Bình Mỹ ( huyện Bình Lục), Kiện Khê ( huyện Thanh Liêm ). Hà Nam có cả thảy là 104 xã. Hà Nam là một trong những tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng có tỉ lệ dân cư đô thị rất thấp, năm 1999 là 6.1 %  so với các con số cả nước là 23% và ĐBSH khỏang 21 %. Đông dân nhất là thị xã Phủ Lý,  một thị trấn nhỏ bé chỉ mới khỏang 50 000 người, tiếp đến là Lý Nhân, Bình Lục; thưa nhất là 2 huyện bán sơn địa Kim Bảng và Thanh Liêm.        



                 Lạm bàn phát triển Hà Nam

                                                               Hôm nay đi Chùa Hương,
                                                               Cây cỏ mờ hơi sương
                                                          … Sau núi Ỏan , Gà , Xôi
                                                               Bao nhiêu là khỉ ngồi
                                                               Tới núi con Voi Phục
                                                                Có đủ cả đầu đuôi.
                                                                Chùa lấp sau rừng cây
                                                                ( Thuyền ta đi một ngày)
                                                                Lên cửa chùa em thấy
                                                                Hơn một trăm ăn mày ….
                               ( Trích bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, 1914- 1938)                

        Năm 1991 GDP bình quân đầu người Hà Nam khỏang 75- 80 đô la Mỹ - USD ở mức đói kém không khác gì  mấy một số nước Phi Châu hay Bắc Hàn ngày nay. Năm 1999 đạt 197 USD, đứng vào hàng thứ 43 trong số 61 tỉnh và thành phố Việt Nam. Tuy GDP đầu người đã tăng gần gấp 3 lần trong vòng 10 năm, nhưng như vậy đời sống dân Hà Nam  vẫn còn khốn khổ  nhiều.          

               Nông nghiệp

 
Trái Hồng Hà Nam 
              Diện tích cho họat động nông nghiệp  Hà Nam là 50 000 ha. Bình quân đất nông nghiệp vào năm 2000 tính theo đầu người  là 650m2/người, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của ĐBSH  là 960 m2/ người và cả nước là 1100 m2/ người .  Đất canh tác trồng trọt Hà Nam chỉ  có  44 800 ha  hay là 53.3 %  đất nông nghiệp, bình quân mỗi đầu người Hà Nam chỉ  có 335 m2 đất canh tác, gieo trồng. Diện tích trồng lúa cả năm  tỉnh nhà gia tăng đôi chút, từ  từ 72 900 ha,  năm 1995 lên 75 100 ha năm 1999 ( các năm 2000, 2001, 2002… không còn gia tăng được nữa, chỉ ở mức 75 000 ha (phân nữa làm vụ lúa Đông Xuân, phân nữa làm vụ lúa Mùa), trong khi các tỉnh ĐBSC như Long An , Đồng Tháp, Kiên Giang  gieo trồng lúa tăng thêm trên 100 000 ha thời gian này , nhờ cải thiện thủy nông, chống lũ,  rữa phèn và tăng vụ , làm 2 vụ thay một vụ lúa nổi dài ngày vv… ). Dù rằng sản lượng lúa ở Hà Nam cũng gia tăng, nhờ gieo trồng các giống lúa cao năng ( từ năm 1987, năng xuất đã trên 5 tấn / ha ngay cả ở một số hợp tác xã thường na)ng xuất kém hơn “tư nhân” ? ) hay siêu năng hơn như lúa lai- hybrid rice đời F1 kỷ thuật Trung Quốc ( phổ biến ở miền Bắc từ đầu thập niên 1990 ) … đã tăng hơn 100 000 tấn lúa , từ  299 400 tấn năm 1995 lên  400 700 tấn năm 2002. ( xin xem chi tiết kỷ thuật lúa lai F1 ở bài  Phát triễn tỉnh Nam Định,  tiếp theo các lúa Thần Nông IR phổ thông các năm 1964- 75, viết tháng 11 năm 2011, đã lên mạng Internet và đã đăng ở Blog the Gift ) . Sản lượng  bình quân cây lượng thực  có hạt ( hột )  Hà Nam cũng đã tăng từ 312 900 tấn năm 1995 lên đến  420 000 tấn năm 2002; bình quân đầu người Hà Nam năm 1995 là 409 700 Kg và 521 200 kg năm 2002. Từ năm 1999, bình quân này đã trên mức đói kém ước lượng cho Việt Nam  trung bình phải trên 500 Kg lương thực  mỗi đầu người một năm . Tuy lúa trồng ở mọi huyện và ven thị xã, nhưng vùng trồng cây lương thực  tập trung ở 3 huyện Bình Lục, Duy Tiên và Lý Nhân. Muốn tiến thêm năng xuất lúa. Ngòai giống má,  phải cải tổ, săp xếp lại  cách  phân phối  sở hửu ruộng đất hiện còn mánh mung quá độ, không cải thiện thủy nông được nữa, khó lòng chuyễn thóc lúa về sân nhà , khó lòng cơ giới hóa tiểu điền,  nay có nhiều khí cụ mới sẽ rẽ hơn là thuê mướn nhân công,  nếu mở thêm  hay đắp đất, đổ đá, có khi đổ bê tông, trải nhựa … nhiều đường nông thôn , tốt hơn. Hà Nam  hiện đã có trên 4000km  đường nông thôn là đường từ huyện lỵ đến đường ngỏ xóm và đường ra đồng ruộng. Chương trình  “ cải cách điền địa “ “đổi chác” - remembrement sở hửu đất ruộng đã được thực thi ở 28 xã  và sẽ áp dùng cho  104 xa tỉnh nhà,nếu chương trình dẫn đạo thành công mỹ mãn.  Kết quả sơ khởi cho biết thành quả đầu tiên là giảm bớt 30 % nhập sản và được nông dân hoan nghênh  ( theo Lê Thơm và Trần Hằng, Nông nghiệp tỉnh Hà Nam  tháng 10 năm 2012 ). Chẳng hạn Trần Văn Thành , một tiểu nông ở xã Vụ Bản huyện Bình Lục trước đây chỉ có chưa đến 1 ha đất ruộng, mà lại chia ra làm năm lô - mảnh nhỏ rải rác ở nhiều nơi khác nhau. Có lúc ông và bà vợ phải gieo đến 4 giống lúa khác nhau trong một vụ lúa và cần đến 2 tuần lễ mới gặt và thu gom xong lúa ở  ở nhiều nơi  xa nhau. Trao đổi 5 lô ruộng xa nhau thành hai mảnh liền nhau,  nhờ chương trình tái phân trao đổi điền địa,  giúp ông  thuê máy gặt chỉ tốn 7 đô la Mỹ ( thay vì tốn 14 đô la thuê nhân công ), gặt 360 m2 ruộng lúa. Nhưng ông còn phải chở thóc lúa về nhà xay chà . Nếu có thêm đường vào làng xã , thì thuê xe chuyên chở sẽ ít tốn hơn thuê người gánh .      

       Hà Nam có thể tăng gia thêm lợi tức và tận dụng nhân công hơn , nếu chuyễn hướng thêm qua các cây công nghiệp  như mía làm nước ép giải khát không phải làm đường( diện tích từ 603 ha, chỉ còn 100 ha năm 1999, năng xuất kém, chưa đến 46 tấn thân cây mía /ha so với trung bình 100t/ha trên thế giới), đậu nành – đổ tương ( năm 2002 chỉ là 2000 ha, năng xuất cũng thấp 1.5t/ ha ), dâu tằm, đay ?, các rau đậu- rau hoa thực phẩm ( cà chua , bắp cải , cà rốt , dưa chuột … ), các lọai cây ăn trái ( ăn quả ) nhiệt đới và “bán ôn đới”.  Hà Nam có lợi thế về thị trường, gần các đô thị ĐBSH, đất đai có vùng gò đồi, khí hậu có mùa khá lạnh thỏa mãn phần nào yêu cầu lạnh- chilling requirement cây trái, rau hoa ôn đới ( xem bài phát triễn tỉnh Vĩnh Phúc tháng 8 năm 2013, để  ý niệm rỏ hơn về các cây hoa trái có cơ thích hợp cho Hà Nam ngày nay). Vùng cây ăn trái nằm ở các huyện Lý Nhân, Duy Tiên, Kim Bảng, có thể tăng gấp đôi diện tích, chỉ mới đạt 2000 ha năm 2000. Liên đới với mở rộng  cây ăn trái là nghề nuôi ong lấy mật , một nghề đầu tư ban đầu không lớn , chăm sóc đở vất vả có lợi nhuận cao,  trước năm 2000, có năm Hà Nam sản xuất được 2 600 tấn mật ong.

     Một thế mạnh khác Hà Nam chưa khai thác đúng mức là nuôi trồng thủy sản. Diện tích mặt nước nuôi trồng được thủy sản Hà Nam năm 2000  là 4 400 ha . Sản lượng nuôi trồng thủy sản  đã tăng hơn hai lần, từ 2666 tấn năm 1995 lên  6065 tấn năm 2002. Phần lớn là nuôi cá ( 5838 tấn năm 2002 ), rất ít nuôi tôm …So với các tỉnh ĐBSCL  cũng  không có bờ biển  phát triễn thủy sản  còn kém xa, như Đồng Tháp năm 2002 đã đạt 37 534 tấn và An Giang  92 917 tấn ...  Hà Nam phải theo cho kịp đà phát triễn tôm- cá- cua nghêu sò hào nước ngọt như đã phát triễn phần nào ở các huyện tỉnh Nam Định kế cận. Ngòai rau đậu bán ôn đới, cần kết hợp thêm một vụ cá tôm  thứ ba vào hệ thống hai vụ lúa  và cố  tăng gia sản xuất tôm càng xanh nước ngọt hay lọai tôm  nước ngọt ( tôm thẻ chân trắng ? ) trong lúa tương đương , ở số 50 000 ha đất  lọai đồng bằng úng trũng Hà Nam , sau   “ cải cách điền địa- đổi chác ruộng đất” và kiện tòan thủy lợi, thủy nông ?  Các chăn nuôi giống mới khác như bò Kô bê , heo Kagoshima …cũng đã đề cập đến ở bài Vĩnh Phúc nói trên. Không có lý do gì Hà Nam và ĐBSH lại không có vựa thủy sản  thêm vào thúng lúa như ĐBSCL ngày nay .  ( xem bài  Phát triễn tỉnh Kiên Giang tháng 11 năm 2013 ).

              Phát triển công nghệ.


         Đất nông lâm nghiệp  hạn hẹp,  nhưng  năm 2000 đã chiếm 82. 2 % tổng số dân  lao động, công ngiệp chỉ mới chiếm 4.9 % và dịch vụ  6.9 % .  Phải cố gắng chuyễn đổi mau lẹ hơn thế cơ cấu bất lợi này,  bằng cách nâng cao hơn nữa trình độ học vấn, trang bị cho dân Hà Nam  thêm nhiều kiến thức cơ bản nhất, tạo  ra nhiều cơ sở thuận lợi cho việc nâng cao kiến thức và trình độ tay nghề .

          Chuyển đổi cơ cấu sản xuất công nghiệp  phải  đi xa hơn chiều hướng  tỉ trọng khu vực Quốc Doanh- Nhà Nước  (giảm từ 23 %  năm 1990 xuống còn 15,8 % năm 1999 ) và tăng kinh tế ngòai quốc doanh ( năm 1990 chiếm77 %, năm 1999 lên đến 84.2 % ).  Đặc biệt tiến  vào các lảnh vực điện tử, điện lạnh, kim khí, đồ điện dân dụng, vật liệu nội thất truyền thông, viễn thông, y khoa , dược khoa, cơ khí, lắp ráp  hay chế tạo các bộ phận ti vi , xe gắn máy , ô tô và  ngay cả công nghệ quốc phòng ( tại sao không ?)    … cận đại  vươn ra trên  các ngành đã “ cổ truyền” là khai thác mỏ (  chủ yếu khai thác đá )  và  biến chế thực phẩm, biến chế sản phẩm từ gỗ , tre , sản xuất bàn ghế, giường, tủ , dệt … ( xin xem bài viết tháng tư 2013, lạm bàn về mô hình -khuôn mẩu Phát triễn Văn hóa Văn minh Nhật trước năm  2000,  đã lên mạng trực tuyến ở Khoahoc.net- Đức và Blog the Gift – Hoa Kỳ…). 

           Tuy công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm có điều kiện phát triễn  nhờ nguồn nguyên liệu dồi dào, từ tập đòan câylương thực, rau đậu cho thị trường nông thôn Hà Nam rộng lớn và vùng Hà  Nội nới rộng còn rất cần thiết tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn đông đúc, thừa mứa, khiếm dụng nhiều, nên cần phải duyệt xét, nâng cao kỷ thuật hay mức độ mỹ thuật,  kiểu mốt mới  mở thêm thị trường nội ngọai … cho các làng nghề một số đã nổi danh khá lâu rồi như thêu ren Thanh Hà, nghiền đá- nung vôi ở các phố thị trấn Kiện Khê…;  và  thuộc các xã các huyện như Duy Tiên ( dệt lụa ở xã Mộc Nam, thêu ở  các xã Tiên Phong  và Yên Bắc, có lẽ chưa nổi danh bằng  làng Vạn Phúc tỉnh Hà Tây cũ hay làng Triệu Khúc – Hà Nội, làng Mẹo Thái Bình ?  và đan mây tre ở xã Hòang Đông),  như Thanh Liêm ( như làm nón ở các xã Thanh Hương, Thanh Phong, Liên Sơn,  đóng thuyền ở xã Liên Phong, thêu ren ở xã Thanh Hà, nghiền đá, nung vôi ở thị trấn Kiện Khê ), như Kim Bảng ( như nuôi tằm ở xã Ba Sao, mũ nan giấy ở xã Vạn Xá, thêu ren ở các xã Kim Bình, Nguyễn Úy, đan mây tre ở xã  Hòang Tây, hoa cảnh - cây mộc -cây cảnh ở xã Phù Vân không biết có theo kịp  làng hoa Vị Khê - Nam Trực Nam Định chưa ?, làm gốm mỹ nghệ ở thị trấn Quế tiếp nối tài hoa của người thợ gốm Đặng Huyền Thông thế kỷ thứ 16  và gốm men “ Chiếc lọ hoa lam”  chế tạo  từ thế kỷ thứ 15 hiện được trưng bày ở viện Bảo tàng vật cổ  Topkapu – Thổ nhĩ Kỳ ?, xay xát lương thực ở xã Lê Hồ),  như  Lý  Nhân (dệt vải ở Hòa Hậu, làm cát ở Đảo Lý, đan song mây ở Chỉnh Lý, làm bánh tráng – bánh đa nem ở Nguyên Lý , Hòa Lý), như Bình Lục (  xay xát gạo ở Đinh Xá, làm sừng ở An Lão, thêu ở Hưng Công, làm dũa cưa ở An Lão ) hay tỉnh lỵ Phủ Lý (thêu ren ở Thanh Châu, làm đậu phụ, tàu hủ -tofu  ở Liêm Chính, máy tuốt lúa ở Lương Kháng, công ty bia và nước giải khát Phủ Lý) …

      Công nghệ chủ yếu Hà Nam là ngành vật liệu xây dựng; xi măng các lọai đá chẻ , đá vôi, gạch ngói. Nguồn khóang sản  đá vôi Hà Nam ở phía Tây sông Đáy thuộc hai huyện Kim bảng và Thanh Liêm.  Trử lượng năm 2000 khỏang 7.4  tỉ m3, chất lượng khá tốt, đủ tiêu chuẩn sản xuất xi măng cao phẩm ( mác cao ), phân bố tập trung ở Bút Sơn ( Kim bảng ) và Kiện Khê ( Thanh Liêm ). Đến năm 2000, Hà Nam có 4 cơ sở sản xuất xi măng  tổng thiết kế là 1, 61 triệu tấn/năm. Cơ sở xi măng Bút Sơn, khá cận đại, áp dụng  trang bị lò quay - rotary kiln  công  xuất 1, 4 triệu tấn. Ba cơ sở khác  công xuất nhỏ bé theo công xuất trung bình nhà máy xi măng quốc tế ( 1,4 – 1.8 triệu tấn / năm)  và trang bị lò đứng cổ lỗ xỉ, tổng công xuất 213 000 tấn / năm: Công ty xi măng X77 công xuất 108 000 tấn / năm ; Xí nghiệp xi măng Nội thương 20 000 t/ năm ; Xí nghiệp xi măng Kiện Khê 85 000 t/năm . Theo Hiệp hội Xi Măng VN  VINACA- 2008, cả nước năm 2001 sản xuất 1, 951 triệu tấn,  thua xa Thái Lan năm đó đã sản xuất trên 30 triệu tấn. Nhưng năm 2006 , Việt Nam đã sản xuất 25,7 triệu tấn và năm 2010  trên 60 triệu tấn hơn hẳn Thái Lan . Nhưng đồng thời cũng vượt nhu cầu nội địa, ước lượng là  47 triệu tấn, bắt buộc phải xuất khẩu sang Lào  và Căm Bốt 12- 13 triệu tấn. Khuynh hướng thặng dư xi măng tiếp diễn các năm 2015  và năm 2020,  sẽ  sản xuất 68- 70 triệu tấn ? ( xem bài xi măng VN viết năm 2008). Cho nên các năm 2010 -2012 , chánh quyền trung ương đã ra lệnh cấm các tỉnh, trong đó có Hà Nam, không được  chấp thuận đầu tư thêm làm nhà máy  xi măng !

        Khai thác và chế biến đá xây dựng do tỉnh hay do trung ương quản lý gồm 6 cơ sở  chủ yếu ở  xã Thanh Thủy huyện Thanh Liêm , tổng sản xuất chừng 1. 19 triệu m3 /năm( lớn nhất là công ty vật tư giao thông 2 , công xuất 500 000 m3/năm.. ). Phải cố gắng quảng bá thêm các đá trang trí Hà Nam là đá vân hồng tím lợt ở Thanh Liêm và Kim Bảng, đá vân mây, đá da báo tập trung ở Thanh Liêm, đá đen tập trung ở Bút Sơn ( Kim Bảng ), đá trắng tập trung ở Thung Mơ, Quàn Cả ( Kim Bảng ). 6 cơ sở quốc doanh sản xuất gạch ngói năm 2000 đã có năng lực khỏang 46 triệu viên/năm  với xí nghiệp  gạch Mộc Bắc của Công ty Xây Dựng Sông Đà   sản xuất bằng lò  tuy nen.  Nhưng ngòai quốc doanh, các sở tư nhân lại có khả năng sản xuất cao hơn  khỏang 100 triệu viên/ năm, tuy vẫn còn phải nung gạch trong lò đứng hay lò Hopman.
           

           Du lịch Hà Nam

Chùa Trúc Lâm
 
Lối vào đền Trúc 
Trước sân đền Trúc


       Không gian du lịch Hà Nam phát triển theo hướng Đông Tây, gắn thị xã Phủ Lý – Kim Bảng với khu du lịch Hương Tích ( “ Chùa Hương ) một thắng cảnh du lịch hấp dẫn của Trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận. Tuyến du lịch chánh Hà Nam  dọc theo  quốc lộ 21  đã khai thác điểm du lịch Đền Trúc, điểm du lịch Hương Tích (thuộc tỉnh Hà Tây  cũ ) và các điểm du lịch quốc tế Nam Định. Đền Trúc cách thị xã Phủ Lý khoảng 8km, được xây dựng từ thế kỷ thứ 12- 13 thờ danh tướng Lý Thường Kiệt. Lễ hội Đền Trúc kéo dài  cả tháng mỗi năm từ 6-1 đến 10-2  âm lịch . Kiến trúc mỹ thuật thời nhà Lý,  thế kỷ thứ 11 và thứ 12, bao gồm  lâu đài , cung điện thành lũy và phổ biến khắp nơi  là chùa –tháp, đặc biệt là Chùa Phật Tích (1057 ) có pho tượng Phật A Di Đà  nguyên vẹn  cùng nhiều chân cột đá chạm tuyệt đẹp ; ở  huyện Duy Tiên Hà Nam thì nên kể ra tháp chùa Long Đọi cao đến 13 tầng. Chùa Long Đọi  trên Núi Đọi, thờ Phật, thờ vua Lê Đại Hành, Nguyên Phi Ỷ Lan và vua Lê Thánh Tông; lễ hội diễn ra  ngày 21 tháng 3 âm lịch.  Đề tài tượng trưng chạm khắc thời nhà Lý, giữa những mây , sóng , sen , cúc, vũ nữ …. có hình tượng  con Rồng  tượng trưng cho  thiên nhiên nông nghiệp với ước mong về mưa gío thuận hòa ( chiếu theo Thái Bá Vân , 1989 ). Kiến trúc  của đền lại mang dáng dấp kiến trúc thế kỷ thứ 17 – 19 . 

Bậc thang lên Chùa  
trong chùa Long Đọi 
Chùa Long Đọi, Hà Nam  


Nghệ thuật điêu khắc  chùa tháp các thế kỷ trước, ở thế kỷ thứ 16 – 17 đã chuyển qua  điêu khắc gỗ ở các đình làng, thay cái không khí nghiêm trang học thức  thẩm mỹ cổ điễn bằng âm điệu rộn ràng cuộc sống  làm ăn, hạnh phúc nơi thôn mạc. Hình tượng  tôn giáo đã nhường chỗ cho cảnh đi cày, bế con, bổ củi, chọi gà, đánh vật, bơi thuyền, tình ái, say rượu …  Danh thắng Đền Trúc rộng 10 ha,  thuộc thôn Quyển Sơn , xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng trên quốc lộ 21 A. Truyền thuyết khi Lý Thường Kiệt  dẫn quân đi chinh phạt phương Nam, qua đây gặp một trận cuồng phong cuốn bay cờ đại lên đỉnh núi. Khi chiến thắng trở về Lý Thường Kiệt  cho quân dừng ở đây, tế lễ ăn  mừng. Sau  đó nhân dân lập đên thờ ông là Đền Trúc ở chân núi Cấm.  Viếng Đền Trúc du khách không thể không ghé thăm Ngũ Động Sơn kế cận, có hệ thống 5 hang nối liền nhau  thành một dãy động liên hòan , chiều sâu từ ngòai vào trong dài hơn 100m. Đối diện Ngũ Động Sơn,  ở tả ngạn sông Đáy  còn có Núi NgọcChùa Ba Đanh. Ngoài ra phải kể thêm ở Hà Nam động Cô Đôi ( thiên cung đệ nhất động) ở Ba Sao , Ao Tiên , đầmTiểu Lục Nhạc, du thuyền trên sông Đáy, sông Châu, núi Nguyệt Hằng ở xã An Lão, huyện Bình Lục, Kẻ Non và các ngọn núi ở xã Liêm Sơn , huyện Thanh Liêm, danh thắng Kẻ Trống xã  Thanh Hải huyện Thanh Liêm, nơi dòng sông Đáy chảy xen giữa hai núi đá vôi, tạo thành một cảnh sơn thủy đầy thơ mộng. Du lịch văn hóa văn minh sông Hồng ở Hà Nam  được thể hiện qua  các làn điệu chèo , hát chầu văn, hầu bóng, ả đảo, đặc biệt là hát dậm ( nghĩa là vừa hát vừa giậm chân theo lối người chèo thuyền ) cùng nhiều hội làng truyền thống: hội vật võ Liễu Đôi đã nổi tiếng cả nước, hội đền Trần Thường ở xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân  3 ngày 18 đến 20-8 âm lịch ở đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, ngòai phần tế lễ còn có hội bơi trải và nhiều trò vui khác,  hội làng Duy Hải ở huyện Duy Tiên ở đền thờ tướng Trần Khánh Dư,  hội làng Võ Giàng xã Thanh Thủy  huyện Thanh Liêm thờ Vũ Cố một tướng  vua Lê Lợi…Hội vật võ Liễu Đôi, khai hội bằng “ Động Thổ đường cày”  ném mấy hột giống xuống  rãnh cày cho cây mọc cả năm, tiến hành vào ngày mồng hai Tết. Làng chiếu sổ gọi hai em trai nhỏ tuổi nhất làng ra vật 5 keo trình làng, lễ Thánh. Nếu các em còn bé  chưa vật được thì cha phải thay.  Tục “ Cầu May” , hình thức “ Thi hát Trống Quân” , người hát thắng một câu thì lập tức  người khác nêu lên một câu khó hơn và cứ thế  mọi người cùng ra câu đối, cùng tìm câu hát. Truyền thống yêu nước,  tinh thần chống xâm lăng , gìn giữ giang sơn gấm vóc biểu tượng qua các nghi lễ : “ Rước thánh vào dóng” , “ Lễ phát hỏa”, “ Lễ trao gươm và thắt khăn đào”  “Múa cờ tụ nghĩa”.  Điều đặc biệt ở hội Liễu Đôi  là phụ nữ  cũng đua tài  đọ sức bình đẳng với giới mày râu  trong các môn đao - kiếm- côn- quyền( có phần hơn ?  cả tiếng đồn  con gái làng Tây Sơn “ Rủ nhau lên núi mà coi, con gái Bình Định cầm roi đi quyền” xa xưa ?  Hội Liễu Đôi còn có tục lệ thi món ăn đặc sản phần dự thi  tuy chỉ là lươn, măng, gà đồng, xôi, cá rô, rượu tăm, bún đường bùa… nhưng rất ngon nhờ tài chế biến của  người đất đồng chiêm trũng.      

            Tuy  những ngành công nghệ, làng nghệ tiểu công nghệ cần luôn luôn cải tiến thêm kỷ thuật trang bị cận đại hơn, giáo dục  đào tạo nhân công giỏi hơn, đa lọai hóa và mỹ nghệ hóa hơn ( đặc biệt các ngành mới như nhựa dẽo, dệt sợi v.v…  dựa trên hóa học dầu khí vừa khởi sự Phức tạp ở Nghi Sơn –Thanh Hóa, công xuất còn lớn hơn cả  Dung Quất- Quảng Ngãi ; như khí cụ viễn  thông  vệ tinh, thông tin ( kỷ thuật nanô ? ) Tam Đảo – Việt Trì, Hà Tây, hầu chen chân thắng lợi ở  các thị trường quốc tế  nhất là Âu Châu và Nhật Bổn …  Ngành du lịch cũng cần cũng cố thêm hạ tầng cơ sở theo trục hướng Chùa Hương nơi đừơng xá còn lầy lội , tàu thuyền còn quá chậm chạp đến nơi tham quan, dân gian  chưa thấm nhuần nhiều văn minh văn hóa đón mời vồn vã lịch thiệp du khách thay vì còn thói  ăn mày như ở bài thơ Nguyễn Nhược Pháp ( và hình như  tái diễn ở chùa  to lớn  Bái Đính – Ninh Bình  ? ).  Tóm lại cần một qui họach  phát triễn tân thời hơn trước , cố gắng tăng Chỉ số Canh Tranh – PCI,  ít nhất cũng súyt soát tương đương Vĩnh Phúc phía Bắc tỉnh nhà, nếu không bằng nổi Bình Dương miền Nam, Đà Nẳng miền Trung, đô thị hóa mạnh hơn các thị trấn , huyện lỵ Hà Nam thì mới mong đạt được con số  đã đề ra  là 40 % dân đô thị - thị trấn năm 2020  và lợi tức đầu người trung bình Hà Nam là 1250 USD, Vĩnh Phúc đã đạt được từ năm 2008.


                   ( Irvine Nam Ca li – Hoa Kỳ,  ngày 7 tháng 11 năm 2013 )


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét