Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2015

SINGAPORE

Người Việt nên hiểu rõ  hơn nữa:  

              Singapore ngày nay

                                  G S Tôn thất Trình


  Lịch sử  Singapore


Singapore,  tiếng Pháp là Singapour, có khi được Việt hóa là Tân Gia Ba, có một lịch sử bắt đầu từ thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên.  Sau đó vương quốc Singapura  trở nên quan trọng  vào thế kỷ thứ 14  dưới trào  của Srivijayan hòang tử Parameswara  và Singapore trở thành một hải cảng quan trọng,  mãi cho đế khi bị giặc cướp biển Acehnese tàn phá năm 1613,   Lịch sử cận đại Singapore khởi sự  năm 1819 khi  huân tước người Anh Sir Stamford Raffles thiết lập hải cảng Anh  trên đảo . Dưới quyền Anh Quốc cai trị như một  thuộc địa Anh , Singapore  càng thêm phần phát triễn  tăng trưởng,  thành  một trung tâm  cho cả hai nền thương mãi Ấn Độ và Trung Hoa và là một kho buôn bán cất giữ và phân phối hàng hóa  cho Đông Nam Á, mau lẹ biến thành một thành phố- hải cảng chánh yếu.
 
 Trong Thế Chiến thứ Hai, Singapore  bị Đế Quôc Nhật chinh phục và chiếm cứ, từ năm 1942 đến năm 1945.  Khi chiến tranh chấm dứt, Singapore  trở lại duới quyền  Anh kiểm sóat, với  các mức tự trị  mỗi ngày mỗi  được phép tăng, mà đỉnh cao là  lúc Singapore sáp nhập vào  Liên Bang Mã Lai , thành Mã lai Á - Malaysia  năm 1963. Tuy nhiên,  bất ổn xã hội  và tranh chấp  giữa  Đảng  Hành Động Nhân Dân - People’s  Action Party  cai quản Singapore và Đảng Liên Hiệp  Mã Lai Á  - Malaysía‘s  Alliance Party,  có  thành quả làm Singapore  tách rời  khỏi Malaysia.  Singapore  trở thành một Cộng hòa - Republic độc lập ngày 9 tháng 8 năm 1965.  
   Đối diện một thất nghiệp nặng nề và một khủng hỏang gia cư, Singapore bắt tay ngay  vào một chương trình cận đại hóa  khởi sự cuối thập niên 1960 đến  thập niên 1970, tụ điểm  trên công nghệ chế tạo, phát triễn những  gia cư đồ sộ  công cọng và đầu tư mạnh mẽ về giáo dục công cộng. Kể từ khi độc lập, nền kinh tế Singapore  tăng thêm trung bình mỗi năm là 9%  . Đến thập niên 1990,  Singapore đã trở thành một trong số quốc gia phồn thịnh nhất thế giới, có một nền kinh tế  thị trường tự do phát triễn cao, những liên kết  thương mãi quốc tế vững vàng  và  sản phẩm lợi tức ròng nội địa mỗi đầu người  cao nhất Á Châu, ngọai trừ Nhật Bổn.  

Phần I :

Từ “ Cù lao  Cuối Pu luo  Chung ( thế kỷ thứ 3 ) “ đến  “Thành phố Sư Tử Singa pura ” ( thế kỷ thứ 13)  , rồi đến quốc gia “ Cộng Hòa Singapore” năm 1965


       Singapore xưa cũ


 Ghi chép xưa nhất  về Singapore  là tài liệu Tàu vào thế kỷ thứ ba, mô tả  đảo Cù Lao Cuối ( Trùng ), Pu luo Chung ( ? )  phỏng theo tên Mã Lai là Pulau Ujong , có nghĩa là đảo cuối Bán Đảo Mã Lai. Các sử biên niên Mã Lai  Seraju Melayu - Malay Annals  chứa một câu chuyện  của hòang tử  của Srivijaya  Sri Tri Buana - Sang Nila Utama , đổ bộ lên đảo trong thế kỷ thứ 13 . Khi hòang tử thấy sư tử,  ông gọi nơi này là  -  Singa pura Thành phố SưTử ( Lion City )  theo tiếng Mã Lai .  Tuy nhiên, Singapore không bao giờ có sư tử cả, mà chỉ có đầy cọp, hổ -tiger mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới thôi. Vì là thành phần của Đế quốc  Sri Vijaya , vào thế kỷ thứ 1 , Singapore  bị  Hòang đế  Nam Ấn Độ  Rajendra Chola I,  Đế quốc Chola xâm chiếm.
 Năm 1320,  Đế Quốc  Mông Cổ gửi  một  sứ mệnh thương mãi đến một nơi  gọi là   Long Ya ( Nha ) Men   -  Dragon ‘s Tooth Straits   có  thể là  hải  cảng Keppel Harbour  phía Nam đảo . Nhà du lịch Vương  ( Uông ) Đại  Viên ( Viên ? )- Wang Dayuan  viếng thăm  đảo, khoảng năm 1330 , một khu định cư nhỏ  gọi là Đan Ma Xi theo tên Mã Lai là Tamasik, có cư dân là Mã Lai và Tàu. Những khai quật  mới đây ở Fort Canning  tìm ra chứng cớ  Singapore là một hải cảng quan trọng vào thế kỷ thứ 14.        
  Trong thế kỷ thứ 14, Singapore bị lọt vào giữa sự tranh dành giữa Xiêm ( nay là Thái Lan ) và Đế quốc  Majapahit căn cứ ở Java , để  kiểm sóat  Bán Đảo Mã Lai. Theo biên niên Seraju Melayu,  chỉ một tấn công Majapahit là Singapore đại bại.  Majapahit cai trị  đảo nhiều năm, trước  khi  vị đuổi về Malaka , nơi ông thiết lập quốc vương đạo hồi -sultanate of Malacca.  Vào đầu thế kỷ thứ 15, Singapore là chư hầu Thái Lan, nhưng vuơng quốc đạo hồi  Malacca mau chóng  mở rộng quyền hành trên đảo.  Sau khi Bồ Đào Nha xâm chiếm Malacca năm 1511, đô đốc Mã Lai  chạy trốn đến Singapura và thành lập thủ đô mới Johor Lama , cử một sĩ quan  cai trị Singapore . Bồ Đào Nha  phá hủy các khu định cư  ở Singapore năm 1587  và đảo này chìm trong bóng tối suốt hai thế kỷ kế tiếp .

Một phố xưa Singapore

     Thiết lập Singapore Cận đại ( 1819 )

        
    Giữa thế kỷ thứ 16 và thứ 19, Quần Đảo  Mã Lai  dần dần  bị các cường quốc Âu Châu  thu phục, bắt đầu bằng  việc  Bồ Đào Nha đến Malacca năm 1509 . Ngự trị ưu thế  của Bồ Đào Nha bị  Hà( Hòa ) Lan  thách thức  trong thế kỷ thứ 17 để  kiểm sóat đa số  các hải cảng trong vùng. Hòa Lan thiết lập một độc  quyền buôn bán  trên quần đảo, đặc biệt về gia vị - spices , lúc bấy giờ là sản phẩm quan trọng nhất của Vùng.  Các cường quốc thuộc địa, khác tỉ như dân Anh,  chỉ hiện diện  tương đối giới hạn.
    Năm 1818,  Huân tước Sir Stamford  Raffles,  được bổ nhiệm là  Phó Thống Đốc thuộc địa Anh ở Bencoolen.  Ông cương quyết là Đại Anh Quốc - Great Britain   sẽ thay thế Hòa Lan    như thể là một cường quốc ưu thế  ở quần đảo, vì lẽ con đường thương mãi  giữa Trung Hoa và Ấn Độ Anh  quan trọng   khẩn thiết  quan trọng với việc  thành lập buôn bán thuốc phiện với Trung Hoa, đi ngang qua quần đảo. Hòa Lan đã cản trở  buôn bán Anh trong vùng, cấm đóan dân Anh họat động  ở các hải cảng Hòa Lan kiểm sóat hay bắt họ đóng thuế cao.  Raffles hy vọng thách thức  Hòa Lan bằng cách  thành lập một hải cảng mới  dọc theo Eo Biển Malacca, con đường chánh tàu bè  đi  qua  cho buôn  bán Trung Hoa - Ấn Độ.  Ông thuyết phục Công tước Lord Hasting, Tòan Quyền Ấn Độ và Cấp Trên ông ở Công ty  Đông Ân Độ Anh- British East India Company tài trợ một viễn chinh, tìm kiếm một căn cứ Anh mới cho vùng. 
   Raffles đến  Singapore ngày 28 tháng giêng 1819 và  rồi nhìn nhận đảo này là một lựa chọn  tự nhiên cho một hải cảng mới.   Đảo nằm  chóp Nam bán đảo Mã Lai , gần Eo Biển Malacca., và  có một  cảng biển sâu thiên nhiên, các nguồn cung cấp nước ngọt - fresh water  và gỗ sửa chửa tàu bè .  Raffles tìm ramột khu định cư  Mã Lai nhỏ bé , dân số khỏang 1000 người   ở cửa sông Singapore  do Temenggong Abdu’ r Rahman điều khiển. Đảo  do tiểu vương - Sultan of Johor  cai quản trên danh nghĩa - hư vị, dưới quyền  kiểm sóat của Hòa Lan và Bugis. Tuy nhiên, vương quốc hồi giáo này yếu kém vì chia rẽ bè phái và Temenggong Abdu’r Rahman  và các chức quyền của ông trung thành  với ông anh lớn tuổi hơn là Tengku Hussein ( hay Tengku Long )Raffles  sống lưu đày ở Riau.  Nhờ  Temenggong giúp đở,  Raffles đưa lén lút  Hussein trở về lại Singapore.  Ông  cống hiến nhìn nhận Hussein là tiểu vương hồi gíáo  của Johor  và trả lương hàng năm cho Hussein . Ngược lại, Hussein  sẽ cho không, tặng  dân Anh quyền hạn   thiết lập một đồn buôn bán tại Singapore.  Một hiệp ước chánh thức  được ký kết ngày 6 tháng 2  năm 1819  và Singapore cận đại ra đời. Nhắc lại là năm 1623, nghĩa là gần 200 năm trước , vua Chân Lạp Chey Chetta II đồng ý nhượng khu dinh điền Mỗi Xuy - Mô Xòai  gần Bà Rịa ngày nay  cho Việt Nam khai khẩn và năm1665 đã có 1000 người Việt (tương đương dân số Singapore năm 1819)  lập nghiệp ở vùng này và Chúa Sải Nguyễn Phúc  Nguyên đã  đóng đồn ở Prey Nokor - Sài gòn ( ? )  và Kras  Krobei ( quận 1 - Bến Nghé ) bảo đảm an ninh cho Mỗi Xuy. Như đã  nói, truớc khi đến, có chừng 1000 người  sinh sống ở Singapore, đa số là Mã Lai và vài chục dân Tàu .  Đến năm 1869 , nhờ di cư từ Malay và các nơi khác Á Châu , dân số Singapore đã lên đến 100 000. Rất nhiều dân di cư Tàu và Ấn Độ đến Singapore  để họat động ở các đồn điền cao su và các mỏ thiếc, các con cháu họ  sau đó làm thành  khối lựợng lớn dân số Singapore.

    Tăng trưởng sớm sủa ( 1819- 1926 )       


Sir Thomas Stamford Bingley Raffles
    Raffles trở lại Bencoolen  sau khi ký kết thỏa hiệp  và lưu Thiếu tá William Farquhar đặc trách khu định cư mới, cùng  vài đại bác và một tiểu đòan lính Ấn Độ . Thiết lập một cảng buôn bán  từ số không là một công cuộc chán ngấy. Chánh quyền Farquhar  có đầy đủ  tài chánh và bị cấm không được thâu thuế cảng  để tăng lợi tức , khi Raffles đã quyết định  là Singapore sẽ trở thành một hải cảng tự do.  Farquhar đón mời dân đến Singapore định cư và đặt  một sĩ quan Anh  ở đảo Saint John ‘s,  mời các tàu đi qua ngưng lại ở Singapore . Khi tin tức  hải cảng tự do lan tràn khắp quần đảo , Bugis, Tàu Peranakan và các tay buôn Ả Rập  ồ ạt đến đảo,   tìm cách tránh các hạn chế  thương mãi của Hòa Lan.  Trong năm đầu  họat động , 400 000 đô la Tây Ban Nha   là thể thức  thương mãi đi ngang qua Singapore . Đến năm 1821, dân số Singapore đạt khỏang 5000 người   và thể tích thương mãi là 8 triệu $. Năm 1825 , dân số lên đến  10 000 và thể tích  thương mãi là 22 triệu $ . Lúc này, Singapore  đã vượt mặt hải cảng Penang thiết lập từ lâu.
    Raffles trở lại Singapore năm 1822   và chỉ trích nhiều quyết dịnh của Farquhar , dù Farquhay đã  lảnh đạo thành công  việc định cư,  qua những khó khăn các năm đầu tiên.  Chẳng hạn,  hầu tạo thêm lợi tức cần thiết , Farquhar đã bán môn bài  cho cờ bạc và bán thuốc phiện, Raffles xem đó là các tệ đoan xã hội.   Chấn động vì  thuộc địa  xáo trộn, Raffles sọan thảo ra mộtlọat các chánh sánh mới  cho  công cuộc định  cư.  Ông tổ chức Singapore  thành các phân chia phụ chức năng và chủng tộc,  dưới tên là  Kế họach Raffles cho Singapore - the Raffles Plan of Singapore.   Ngày nay, cái còn lại của tổ chứcnày  vẫn  tìm thấy  ở các ngọai ô  các tộc dân . William Farquhar bị bải nhiệm; sau đó  Farquhar chết ở thị trấn Perth tại Tô Cách Lan- Scotland.
    Ngày 7 tháng 6 năm 1823 , John Crawfurd ký một hiệp ước thứ hai với tiểu  vương hồi giáo  và Temenggong,  đã nới rộng thuộc địa Anh  qua gần khắp đảo . Tiểu vương hồi giáo  và Temenggong đã trao đổi đa số quyền hạn hành chánh của đảo , kể luôn cả việc thâu thuế   cảng bằng tiền  trả lương hàng tháng lâu dài là 1500 $ và 800 $ . Thỏa  hiệp này đưa đảo   thuộc quyền Luật lệ Anh,   với  điều khỏan là  để tâm tới phong tục, thói quen và tôn giáo Mã Lai . Raffles thay thế Farquhar bằng John Crawfurd , một  nhà hành chánh hửu hiệu và  căn cơ  ở chức vụ thống đốc  mới.  Tháng10  năm1823,  Raffles trở về Anh  và không bao giờ còn trở lại Singapore nữa  vì ông chết năm 1826 , khi mới 44 tuổi.  Năm 1824 , tiểu vương hồi giáo nhượng  Singapore  vĩnh viễn cho Công ty Đông Ấn Độ.

    Singapore Thuộc địa ( 1819- 1969 ):


    Các Định Cư ở Eo biển (  1826 - 1867 )


   Tình trạng tiền đồn Singapore  thọat tiên , tuồng như  bấp bênh,  khi chánh phủ Hòa Lan phản kháng  Anh là đã vi phạm   vùng ảnh hưởng  Hòa Lan . Thế nhưng Singapore mau chóng  trổi dậy như là một vị trí thương mãi quan trọng  và Anh Quốc cũng cố  thêm  tuyên bố  chiếm cứ đảo.   Thỏa Hiệp  Amnh- Hòa Lan năm 1824 , đóng xi măng  tình trạng Singapore là một thuộc địa Anh,  phân chia quầnđảo ra  là hai giữa hai cường quốc thuộc địa : vùng  phía  Bắc S826 Singapore thuộc nhóm Công Ty Anh Đông Ấn Độ,  cùng Penang và Malacca   hình thành  Những  Định Cư Eo Biển - Straits  Settlements do Công Ty Anh Đông Ấn Độ cai quản .  Năm 1830,  các Định Cư Eo Biển này  trở thành một Dinh Thống Đốc ( hay Tòa Khâm sứ )- residency   hay  một phần phụ của  Tổng thống Phủ Bengal ở Ấn Độ Anh. 
      Những thập niên kế tiếp,  Singapore tăng trưởng  để trở thành một hải  cảng quan trọng trong vùng. Thành công có nhiều lý do ,  gồm luôn cả việc mở rộng  thị trường Hoa Kiều ,  việc tàu chạy đại dương bằng hơi nước ,  và việc sản xuất cao su và thiếc ở Malaya .  Tình trạng một hải cảng tự do,   cống hiến một ưu thế đặc biệt  so với các thành phố hải cảng thuộc địa  khác như Batavia ( nay là Jakarta )   và Manila  nơi thuế cao ; và  đã hút dẫn nhiều thương gia  Tàu , Mã Lai , Ấn Độ và  Ả Rập   họat động ở Đông Nam Á đến Singapore.  Đến năm 1880 , đã có trên 1.5 triệu tấn hành hóa  di ngang qua Singapore mỗi năm ,  80 % chuyên chở bằng các tàu chạy hơi nước.  Họat động thương mãi chánh là thương mãi kho trữ hàng,  phồn thịnh nhờ  không thuế khóa và rất ít giới hạn.  Rất nhiều nhà buôn ở Singapore là các hảng buôn Âu Châu , nhưng cũng có  nhiều thương gia Do Thái, Tàu, Ẩ Rập, Armenian, Hoa Kỳ và Ấn Độ. 
     Đến năm 1827,  Hoa kiều trở thành nhóm tộc dân  đông nhất Singapore , Họ gồm có Tàu Peranakan là  con cháu kiều dân định cư  àu lúc ban đầu  và các cu li Tàu ồ ạt đến Singapore  cố  tránh thóat kinh tế khó khăn miền Nam Trung Hoa lúc đó.  Số  dân Tàu này càng tăng thêm nhiều   với rối lọan  Chiến Tranh Nha Phiến Thứ Nhất - First Opium War  ( 1839 - 1842 )  và Thứ Hai ( 1856 - 1860 ) gây ra.  Nhiều dân Tàu đến Singapore  là dân lao động nghèo khổ, theo khế ước.   Dân Mã Lai là nhóm đông thứ hai mãi cho đến năm 1860,  họat động  làm dân đánh cả , tiểu công nghệ   và   lảnh lương, trong khi vẫn  ở phần lớn tại các làng xóm Mã lai -  kampungs .  Đến năm 1860 , dân Ấn  trở thành tộc dân đông thứ hai. Dân Ấn  làm lao động không lành nghề , buôn bán,  và tội đồ  gửi tới làm  các dự án công cọng tỉ như dọn sạch rừng  hay mở đường . Họ  cũng là lính Ấn -Sepoy troops do  Anh gửi đến trú đóng Singapore.
      Dù tầm quan trọng Singapore tăng lên, hành chánh cai trị đảo rất thiếu nhân viên , không hữu hiệu và không lưu tấm đến  lợi ích cho dân chúng. Các nhà cai trị  thường từ Ấn gửi tới  và không  quen thuộc văn hóa,  ngôn ngữ địa phương.  Trong khi dân số  t(ng gấp bốn từ 1830 đến 1867, kích thước công chức ở Singapore  không thay đổi . Đa số dân gia không hề được các y tế công cọng săn sóc  và bệnh như thổ  tả - cholera đậu mùa -smallpox  gây ra các vấn đề y tế nặng nề, đặc biệt  ở những vùng  dân lao động qúa đông đúc .  Thành quả của  hành chánh không hửu hiệu và  phần lớn đàn ông, tạm thời ngự trị  và dân chúng vô  học, xã hội trở thành  không luật lệ và hổn lọan.  Năm 1850,  Singapore chỉ  có 12 sĩ quan cảnh sát cho gần 60 000 người. Mãi dâm, bài bạc  và hút sách ( đặc biệt là thuốc phiện )  tràn lan. Các hội kín tội ác Tàu   ( tương tự các  hội tay ba-triads buôn ma túy ngày nay )  rất uy vũ , và nhiều  hội có đến hàng chục ngàn hội viên . Chiến tranh kiểu cá ngựa - turf wars ( ?) giữa các  hội đối thủ   thỉnh thỏang làm chết  hàng trăm người  và những cố gắng  bài trừ chúng chỉ thành công giới hạn.  
   Tình trạng  tạo ra lo lắng  sâu đậm cho  dân Âu Châu trên đảo . Năm 1854,  Báo chí Tự do Singapore Free Press   than phiền là Singapore là  “một đảo nhỏđầy cặn bả - dregs “ của dân số  Đông Nam Á .

     Định Cư Eo Biển Thuộc Địa Vương Miện Anh ( 1867 - 1942 )


     Khi Singapore  tiếp tục tăng trưởng , khiếm khuyết  hành chánh  trên các Định Cư Eo Biển -Straits Settlements trở thành nghiêm trọng và cộng đồng  buôn bán Singapore bắt đầu  xáo động chống lại nền cai trị của Ấn Độ Anh.   Chánh phủ Anh Quốc  đồng ý  thiết lập Các Định Cư Eo Biển  như thể là một  Thuộc Địa Vương Miện-Crown Colony riêng rẽ, ngày 1 tháng tư 1867.  Thuộc địa mới này do một Thống đốc cai quản dưới sự giám sát  của Cơ Quan Thuộc Địa tại London  Một Ủy Ban điều hành  và một Ủy Ban lập pháp  giúp đở Thống Đốc.  Dù thành viên của các Ủy Ban  không phải do dân bầu lên, nhiều đại diện  cho dân địa phương hơn,  dần dần   tăng thêm   trải qua nhiều năm tháng.    
    Chánh phủ thuộc đia   thực thi nhiều biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội trầm trọng của Singapore.  Một nền Bảo hộ Tàu dưới quyền Pickering  được thiết lập năm1877  hầu giải quyết  những yêu cầu của cộng đồng Tàu , đặc biệt để kiểm sóat  các lạm dụng tệ hại nhất cho buôn bán  cu li và bảo vệ  đàn bà Tàu khỏi bị bắc buộc làm đĩ điếm. Năm 1889, Thống Đốc Huân tước Sir Cecil Clementi Smith  bải bỏ các hội kín, khiến chúng phải đì vào vòng bí mật. Tuy nhiên, nhiều vấn đề  xã hội vẫn tồn tại cho đến thời kỳ sau chiến tranh , gồm  cả một  thiếu hụt gia cư , sức khỏe  yếu đuối  và  một mức sống thấp kém.  Năm 1906,  Đồng ( ? )Minh Hội- Tongmenghui  một tổ chức cách mạng  quyết lật đổ triều đình nhà Thanh do Tôn Dật Tiên- Sun Yatsen lảnh đạo , thành lập nhánh Nam Dương- Nanyang ở Singapore , trụ sở  tổ chức ở Đông Nam Á . Hội viên nhánh này gồm có Bác sĩ  Vương ( ? ) Hồng Quế  - Wong Hong Kui ,  các nhà biến chế cao su  Chan Cho Nam,  Cheung Wing Fook,   Chan Po Yin   là  ba  người thành lập   nhật báo Chấn Hưng ( ? )  - Chong Shing ngày 20 tháng 8 năm 1907  phân phối 1000 tờ mỗi ngày và nhà sách Khai Minh - Kai Ming bookstore .  Dân di cư Tàu ở Singapore  tặng dữ vô số cho Tongmenghui đã tổ chức  Cuộc Cách Mạng Tân Hợi - XinHai Revolution,  năm 1911,   đưa tới  thành lập Cộng Hòa Trung Hoa - Republic of China
   Thế Chiến Thứ Nhất ( 1914 - 1918 )  không ảnh hưởng gì mấy đến Singapore, vì chiến tranh này không lan tràn ở Đông Nam Á .  Sự cố đáng kể nhất là cuộc nổi lọan năm 1914  của bính lính - sepoys Ấn Độ Anh theo hồi giáo  trấn giữ Singapore, khi có tin đồn là  họ  phải đi đánh nhau ở Đế Quốc Thổ Nhĩ Kỳ - Ottoman Empire . Sau Thế Chiến, chánh phủ Anh chi tiêu  nhiều tài nguyên để  xây dựng  căn cứ hải quân ở Singapore, cốt để ngăn chặn  tham vọng mỗi ngày mỗi mạnh mẽ thêm của  Đế Quốc Nhật Bổn.  Căn cứ hòan thành năm 1939 với  tổng phí cao ngất trời lúc đó là 500 triệu $ . Căn cứ khoe khoang là có một nơi sửa chửa tàu dưới nước  - dry dock lớn nhất thế giới ,  một xưởng đóng tàu nổi- floating dock lớn hàng thứ ba  thế giới   và  kho thùng trữ nhiên liệu, đủ hổ trợ tòan thể hải quân Anh  trong 6 tháng.  Căn cứ được đại bác 16 ngón ( gần 375 mm ) và  những phi đòan không quân Hòang gia Anh,  đóng tại căn cứ không quân Tengah Air base, phòng vệ . Nguyên thủ tướng Winston Churchill  cũng đề cao đó là  “  Pháo Đài Gibraltar  miền Đông” . Tiếc thay, đó cũng là một căn cứ hải quân không có hạm đội. Hạm đội Hòang gia Anh  đóng ở Âu Châu và dự tính là sẽ di chuyễn  mau lẹ tới Singapore khi cần thiết .   Tuy nhiên  khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ năm1939 , Hạm đội Anh mắc lo chống giữ Anh  Quốc. Trung tướng- Lieutenant General  Huân tước Sir William  George Shedden Dobbie  được cử làm Thống Đốc  Singapore  và tướng  Tổng chỉ  huy Quân sĩ MaLaya  ngày 8 tháng 11 năm 1935,  đóng tại Istana, mãi cho đến  khi sắp xảy ra Thế Chiến Thứ Hai năm 1939 .

      Trận Chiến Singapore  và Nhật Chiếm đóng ( 1942 - 1945 )   


    Tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Châu Cảng - Pearl Harbor ( bang Hạ Uy Di - Hoa Kỳ )  và bờ biển Miền Đông Malaya,   gây ra Cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương. Hai tấn công xảy ra cùng ngày , nhưng vì  cách nhau nhiều kinh tuyến  nên tấn công Honolulu  là ngày 7 tháng 12 , trong khi tấn công  Kota Bharu lại là ngày 8 tháng 12 .   Một trong những mục tiêu   Nhật  là chiếm cứ Đông Nam Á và bảo đảm  nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên  giàu có hầu   nuôi nấng quân đội và  nhu cầu nền công nghệ Nhật.  Singapore, căn cứ chánh của Đồng Minh trong vùng, lẽ đương nhiên là một mục tiêu quân sự,  vì thương mãi phồn thịnh và  dân chúng giàu sang.  Các chỉ huy quân sự Anh  ở Singapore  đã tin tưởng rằng  tấn công Nhật sẽ đến từ biển  phia Nam,  vì rừng rậm Malaya  phía Bắc  sẽ làm  ra một rào cản  thiên nhiên chống lại xâm lăng. Dù họ  đã vẻ ra một kế họach chống trả  tấn công từ phía Bắc Malaya, các sửa sọan chưa bao giờ  hòan tất cả.   Giới quân sự tin cậy là “ Pháo Đài Singapore”  sẽ chống lại được  bất cứ một tấn công Nhật nào và niềm tin này càng vững mạnh thêm  khi được  Lực  lượng Z đến nơi . Lực lượng này gồm  chiến hạm   Prince of Wales  và  tuần dương hạm - cruiser  Repulse .   Tóan tàu chíến này sẽ còn thêm hàng không mẩu hạm  - aircraft  carrier   Indomitable,  nhưng  hàng không mẩu hạm này bị  ngừng dọc đường , khiến tóan tàu chiến không có phi cơ bảo vệ .
    Ngày 8 tháng 12 năm 1941 , các lực lượng  Nhật đổ bộ  lên Kota Bahru , ở miền Bắc Malaya. Chỉ 2  ngày sau khi khởi sự xâm chiếm  Malaya,  hai chiến hạm Prince of WalesRepulse bị đánh chìm  ở ngòai khơi, cách bờ biển  Kuantan tại Pahang 50 dặm Anh (hơn 80 km ) do các máy bay thả bom và  phóng thủy lôi  lực lượng Nhật, một  thất trận hải quân  Anh tệ hại nhất Thế Chiến Thứ Hai. Hổ trợ  không quân Đồng Minh không tới kịp đúng giờ, để bảo vệ hai tàu chiến chánh yếu này .  Sau sự cố , Singapore và  Malaya bị oanh kích hằng ngày , kể cả  các mục tiêu  cơ cấu dân sự  như bệnh viện,  tiệm buôn bán. làm chết cả chục - cả trăm người mỗi lần.  
    Quân đội Nhật tiến mau lẹ   đến phía Nam ngang qua Bán đảo Mã Lai, đè bẹp hay  tắt rẽ khỏi kháng cự Đồng Minh .  Các lực luợng Đồng Minh không có xe tăng , vì họ cho là không thích hợp với rừng rậm nhiệt đới và bộ binh  Đồng Minh đã tỏ ra không có sức lực chống lại các xe tăng nhẹ của Nhật.   Khi việc chống cự tiến binh Nhật  thất bại, các lực lượng Đồng Minh bị bó buộc rút  lui về phía  Nam, hướng Singapore.  Ngày  31 tháng giêng 1942, chỉ 55 ngày sau khởi đầu cuộc xâm chiếm, Nhật đã chiếm cứ hòan tòan Bán đảo Mã Lai và sẳn sàng đánh Singapore.
   Đường đắp cao qua đầm lầy , nối liền Johor và Singapore, bị các lực lượng  Đồng Minh phá hủy , hy vọng chận đứng quân đội Nhật .  Tuy nhiên, quân Nhật đã vượt  qua Eo Biển Johor bằng các tàu  bơm phồng - inflatable boats, những ngày sau.  Nhiều chiến đấu xảy ra  giữa các lực lượng Đồng Minh  và  các tình nguyện dân cư Singapore,  chống quân Nhật tiến binh , tỉ như  Trận chiến - Battle  Pasir Panjang . Tuy nhiên,  khi đa số  phòng vệ bí dánh nát tan và cung cấp tiêu hao hết,  lực lượng Đồng Minh Trung tướng Arthur Percival  đầu hàng Tướng Nhật Tomoyuki Yamashita  của quân đội Thiên  Hòang  vào ngày đầu năm âm lịch, 15 tháng hai 1942.  Khỏang 130 000  lính Ấn Độ, Úc và Anh trở thành tù binh  chiến tranh. Nhiều người   sau đó được chở tới  Miến Điện, Nhật , Đại Hàn   hay Mãn Châu  làm lao động nô lệ  bằng các    “tàu địa ngục - hell ships” . Sụp đổ Singapore là cuộc đầu hàng  các lực lượng Anh dẫn đạo lớn nhất trong lịch sử , Báo chí Nhật huênh hoang  tuyên bố  thắng trận này là quyết định  cho tình trạng tổng quát chiến tranh .    

Yamashita (người ngồi giữa ) nắm chặt tay trên bàn nhấn mạnh: đầu hàng vô điều kiện. Percival ngồi giữa các sĩ quan, tay nắm lại đưa lên miệng (Ảnh Wiki)
   Nhật đổi tên Singapore thành Syonan-to hay  Ánh sáng đảo Nam  - Light of South Island, Nhật chiếm đóng từ năm 1942 đến năm 1945 ,  Quân đội Nhật  áp dụng nhiều biện pháp hà khắc chống lại dân địa phương, đặc biệt là hiến binh Nhật - Kempetai   rất tàn nhẫn với dân Tàu .  Tàn bạo khủng khiếp nhất là  tàn  sát  dân sự Tàu Sook Ching, trả thù chống lại  cố gắng dân Tàu giúp  chiến đấu ở nguyên quán Trung Hoa .  Xử tử khỏang từ 25000 đến 50 000 người   ở Malaya và Singapore .   Dân  số còn lại  khổ sở trăm điều, suốt ba năm rưỡì  Nhật chiếm đóng.  Dân Mã Lai và Ấn Độ bị bắt buộc  xây dựng  “ Đường Sắt tử thần - Death Railway” ( không phải thi vị hóa như trong phim Cầu sông Kwai ? với tù binh Anh ), giữa Thái Lan và Miến Điện. Đa số  dân lao động nô lệ  chết, khi làm đường  xe lữa.  Dân Âu ( Tây ) lai  cũng bị bắt làm tù binh.

    Thời Hậu Chiến 1945 - 1955


    Sau khi Nhật đầu hàng  Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945 , Singapore rơi vào  tình trạng vô danh - anomie một thời gian ngắn ;  cướp bóc và giết trả thù tràn lan . Binh lính Anh do Công tước Lord Louis Mountbatten, tổng chỉ huy  Đồng Minh cho Đông Nam Á, trở lại Singapore để   đón nhận  lực lượng Nhật  trong vùng đầu hàng chánh thức  từ Tướng  Itagaki Seishiro, dưới danh nghĩa  của Tướng Hisaichi Terauchi ngày 12 tháng 9 năm 1945 ,và một Nền Hành chánh Quân sự Anh thành lập để  cai trị đảo cho đến tháng 3 năm 1946. Đa số hạ tầng cơ sở đã bị phá hủy trong thời gian chiến tranh  gồm các hệ thống điện và cung cấp nước sạch, các dịch vụ điên thọai, cũng như các tiện nghi cảng  ở Hải Cảng Singapore. Thiếu thốn thực phẩm  đem tới  thiếu dinh dưỡng, bệnh tật  và tội ác và hung bạo,  không kiềm  chế nổi.  Giá thực phẩm cao, thất nghiệp  và nhân công bất mãn, đạt đỉnh cao biến thành  một lọat đình công năm 1947, gây ra ngưng đọng  khối lượng  cho chuyên chở công cọng và  các dịch vụ khác. Đến cuối năm 1947, nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhờ yêu cầu tăng mạnh của  thiếc và cao su  khắp thế giới, nhưng phải cần nhiều năm nền kinh tế mới trở lại được các mức độ tiền chiến.
  Thất bại của Anh Quốc bảo vệ Singapore  đã phá tan niềm tin tưởng vào các nhà cai trị không bao giờ thua trận, trước mắt dân Singapore. Những thập niên sau thế chiến  đã hiện ra một thức dậy chánh trị  ở quần chúng  địa phương  và nổi dậy những cảm tình  chống thuộc địa và yêu nước , lược thuật  trong  khẩu hiệu “ Độc  Lập - Merdeka”  theo tiếng Mã Lai.  Dân Anh, cũng đã  sửa sọan tăng dần  tự cai trị -self governance   cho Singapore và  Malaya. Ngày 1 tháng 4 năm 1946,  các Định Cư Eo Biển bị giải tán  và Singapore trở thành  một Thuộc Địa Vương Miện - Crown Colony,  có một nền Hành Chánh  dân sự  do một Thống Đốc lảnh đạo,  Tháng 7 năm 1947, các Ủy Ban Điều Hành và Lập Pháp được thiết lập và việc bầu  lên 6 hội viên của Ủy Ban Lập Pháp được  dự trù cho năm tới.

   Ủy Ban Lập Pháp đầu tiên (1948- 1951 )        


   Bầu cử lần đầu tiên ở Singapore, tháng 3 năm1948,  giới hạn  cho 6 ghế sẽ phải bầu trong số 25 ghế  tại Ủy Ban Lập Pháp.  Chỉ có công dân Anh mới được quyền bỏ phiếu  và chỉ 23 000   hay 10 % số này  ghi tên đi bầu. Các hội viên khác  của Ủy Ban  do Thống Đốc hay các phòng thương mãi lựa chọn .  3 trong số ghế đắc cử,  thuộc đảng mới thành lập   là Đảng tiến bộ Singapore Progressive Party - SSP, một đảng  bảo thủ  các lảnh tụ là doanh gia và chuyên nghiệp, ít muốn  tự cai trị ngay. 3 ghế khác  thuộc các đắc cử độc lập.
       3 tháng sau bầu cử, một cuộc nổi lọan do  các nhóm cọng sản ở Malaya “ Khẩn Cấp Malaya” , bùng nổ .  Anh áp đặt các biện pháp cứng rắn  để kiểm soát các nhóm thiên tả,  cả ở Singapore lẫn Malaya,  và  ban hành   Đạo Luật  Nội An - Internal Security Act , rất tranh cải  cho phép bắt giữ vô thời hạn không xét xử  những ai bị tình nghi  là “ đe dọa cho an ninh”. Vì rằng các nhóm thiên tả  là những nhà chỉ trích mạnh mẽ hệ thống thuộc địa,  tiến bộ cho chánh quyền tự trị bị ngưng trệ nhiều năm.

  Ủy Ban Lập Pháp thứ hai ( 1951 - 1955 )


   Bầu cử Ủy Ban  Lâp Pháp thứ hai  năm 1951 ,  số ghế phải  bầu tăng lên đến 9 ghế . SSP môt lần nữa thắng cử, chíếm 6 ghế.  Dù cho vụ này giúp hình thành  một chánh phủ địa phương đặcbiệt   cho Singapore , hành chánh thuộc địa vẫn còn chủ trì.  năm 1953. khicọng sản   ở Malaya đã bị bài trừ, và tệ hại Khẩn Cấp đã kết liễu,  một Ủy Ban Anh do huân tước Sir George Rendel  lảnh đạo , đề nghị  một   hình thức chánh phủ tự trị cho Singapore .  Một  Quốc Hội Lập Pháp mới  có 25 ghế phải bầu trong tổng số 32 ghế sẽ thay thế Ủy Ban Lập Pháp . Quốc Hội  sẽ lựa chọn một thủ tướng -Chief Minister  và Hội đồng Tổng trưởng, Nội các- Cabinet. Anh vẫn giữ các bộ khác như  nội an  và ngọai giao , cũng như quyền hạn phủ quyết - veto trên lập pháp. 
 Bầu Quốc Hội  Lập Pháp  thực hiện ngày 2 tháng 4 năm 1955  là một sự việc  tranh dành gần gủi và sống động , nhiều đảng phái mới tham gia . Khác những bầu cử trước,  các người đi bầu  được ghi  danh tự động , tăng số người đi bầu lên đến  khoảng 300 000 người.  SPP thất cử  rỏ rệt, chỉ chiếm đựoc 4 ghế .  Mặt Trận  Lao Động - Labour Front  khuynh tả  mới thành lập thắng cử vẽ vang chiếm 10 ghế và thành lập một chánh phủ liên hiệp với Liên minh - UMNO-MCA Alliance chiếm 3 ghế. Một đảng mới Đảng Hành Động Nhân Dân - People ‘s Action Party , PAP ra đời, cũng chiếm 3 ghế .

          Chánh Phủ Tự trị  ( 1955 - 1963 )


         Chánh phủ nội bộ tự trị bán phần ( 1955-1959)


David Marshall
       David  Marshall, lảnh tụ Mặt trận Lao Động , trở  thành thủ tướng , tổng trưởng chánh - Chief Minister  của Singapore.   Ông chủ tọa một chánh phủ bấp bênh , rất ít hợp tác  với Chánh quyền thuộc địa hay các đảng phái địa phương. Xáo trộn xã hộI tăng gia và tháng 5 năm 1955  xảy ra nổi lọan xe búyt Hock Lee bus riots , giết  chết 4 người và  làm  chánh quyền Marshall mất uy tín nặng nề. Năm1956, nổi lọan  Trường Trung Học Tàu bùng nổ, càng làm cho căng thẳng thêm lên, giữa chánh quyền địa phương và các học sinh trung học Tàu   và các nghiêp đòan được xem là  có cảm tình với Cọng sản .

   Tháng tư năm 1956, Marshall hướng dẫn một phái đòan đến London để điều đình  một nền tự trị hòan tòan ở Thảo Luận Merdeka Talks,  nhưng đàm phán thất bại  khi Anh Quốc ngần ngại bỏ quyền nội an kiểm sóat Singapore. Anh Quốc  lo ngại  về  ảnh hưởng cọng sản  và các   đình công lao động  phá hại ngầm ổn định kinh tế  Singapore , cảm giác là chánh quyền địa phương không hửu hiệu, khi dàn xếp các cuộc nổi lọan  trước đó.  Marshall từ chức  tiếp theo thảo luận thất bại.
Tổng trưởng Chánh - Chief Minister  mới  Lim Yew Hock, tung ra một trừng phạt gay gất   cọng sản và  các nhóm tả phái , bỏ tù nhiều lảnh tụ nghiệp đòan  và nhiều đảng viên  thân cọng của PAP , chiếu theo Đạo Luật  Nội An . Chánh phủ Anh Quốc  chấp thuận  đường lối cứng rắn  của Lim chống lại các tay xúc động cọng sản và ở một phiên thảo luận mới  được triệu tập tháng 3 năm 1957, Anh  thỏa thuận cấp  quyền tự trị  nội địa hòan tòan -   complete internal self - government.  Một quốc gia Singapore  sẽ được tạo dựng  với chính ngay các công dân mình . Quốc Hội Lập Pháp  sẽ được nới rộng  đến 51  ghế,  hết thảy phải đựơc bầu lên  và Thủ tướng - Prime Minister   và Nội Các sẽ   kiểm sóat mọi  khía canh chánh quyền, ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao. Tổng trấn cũng bị Chủ tích nước Yang di - Pertuan Negara thay thế .Tháng 8 năm 1958 ,  Đạo luật  Quốc  gia Singapore - State of Singapore Act đuợc Quốc Hội Vương Quốc Anh  thông qua,  thiết lập   Quốc Gia Singapore.

    Chánh phủ tự trị nội địa hòan tòan ( 1959- 1963 )


 Bầu cử  Quốc Hội Lập Pháp mới tổ chức tháng 5 năm1959 . PAP tòan thắng rộng rải, chiếm 43 trong tổng số 51 ghế.  PAP thực hiện thắng lợi này,  bằng cách vuốt ve đa số dân nói tiếng Tàu, đặc biệt những người trong các nghiệp đòan và các tổ chức sinh viên cấp tiến.  Lảnh tụ là Lý Quang Diệu - Lee Kuan Yew, một luật sư trẻ tuổi  tốt nghiệp Đại học Cambridge, trở thành Thủ tướng Singapore . 

Lý Quang Diệu
  Thắng cử  thọat tiên bị các lảnh tụ doanh nghiêp ngọai quốc và địa phương nhìn hỏang sợ  vì  khá nhiều  thành  viên đảng  thân cọng . Rất nhiều doanh thương  mau lẹ  dời trụ sở Singapore đến Kuala Lumpur.  Dù  những điềm xấu này,  Chánh quyền PAP   thực thi một chương trình vạm vỡ,  hầu giải quyết  các vấn đề kinh tế và xã hội Singapore . Phát triễn kinh tế  do Tổng trưởng Tài chánh mới Goh Keng Swee điều khiển, chiến lược là  khuyến khích đầu tư ngọai quốc và địa phương  cùng những biện pháp  từ các khích lệ thuế khóa  đến việc  thiết lập  các khu công nghệ to lớn ở Jurong. Hệ thống giáo dục  được  tu chính  để huấn luyện một lực lượng lao động lành nghề  và tiếng  Anh đề xướng lên trên ngôn ngữ Tàu,  như thể là một ngôn ngữ giáo dục .  Để lọai trừ  bất ổn  lao động, các nghiệp đòan lao động hiện hửu được  củng cố lại , đôi khi  bó buộc , thành một  tổ chức dù che duy nhất, tên là  Đại hội  Nghiệp đòan Thương Mãi Quốc gia - National  Trades  Union Congress , NTUC , chánh phủ  giám sát mạnh mẽ. Trên trận tuyến xã hội, một  chương trình gia cư công cộng tài  trợ tốt đẹp, được phóng ra để giải quyết vấn đề gia cư có từ lâu ngày.  Hơn 25 000  căn  hộ cao tầng và gía rẽ  đã được xây cất trong 2 năm đầu chương trình.

   Chiến dịch cho hợp nhất


   Dù các thành công cai trị Singapore, các lảnh tụ PAP kể cả Lee và Goh , tin tưởng là tương lai Singapore  nằm trong Malaya . Họ cảm tưởng là các mối thắt chặc lịch sử và kinh tế  giữa  Singapore và Malaya  quá mạnh để cả 2 nước tiếp tục là những quốc gia riêng biệt. Hơn nữa , Singapore  thiếu thốn  tài nguyên thiên nhiên  và  phải đối diện  cả ở khu dự trữ hàng hóa thương mãi đang suy thóai lẫn  tăng gia dân số,  đòi hỏi phải có công ăn việc làm.  Họ nghĩ rằng hợp nhất  sẽ có lợi cho  nền kinh tế,   bằng cách  tạo dựng một thị trường chung, bải bỏ thuế thương mãi và như thế hổ trợ  những công nghệ mới  giải quyết những  đau xót thất nghiệp đang  xảy ra . 
   Dù lảnh đạo PAP vận động mạnh mẽ cho một hợp nhất , cánh  thân cọng đáng kể của PAP  chống đối  mạnh  hợp nhất, lo ngại mất ảnh hưởng khi đảng cai trị  Malaya,  là Tổ chức Quốc gia Malay Thống nhất - United Malays National Organisation- UMNO , rất  chống Cọng và sẽ hổ trợ  các phe phái PAP không  Cọng sản chống lại họ. Các lảnh tụ UMNO rất nghi ngờ  ý kiến hợp nhất, vì họ  không tin cậy chánh quyền PAP và lo ngại là  dân Tàu đông đúc ở Singapore  sẽ làm nghiêng cán cân chủng tộc, căn bản cho quyền lực chánh trị của họ.  Vấn đề trở thành cơn đau đầu  năm1961, khi tổng trưởng  PAP thân cọng  là Ong Eng Guan đào ngũ  và đánh bại một  ứng cử PAP  ở một cuộc bầu cử thứ yếu , một di chuyễn  đe dọa làm rơi rụng Chánh phủ Lee .
   Đối đầu viễn cảnh các nhà thân cọng  chiếm đọat đảng, UMNO thay đổi thái độ về hợp nhất.  Ngày 27 tháng 5 năm1961, thủ tướng Malaya  Tunku Abdul Rahman  xem xét  ý kiến  lập một Liên bang Mã Lai Á -  Federation  of Malaysia , gồm có Liên bang Malaya hiện hửu, Singapore , Brunei  và các lảnh thổ Borneo Anh  Sabah và Sarawak . Các lảnh tụ UMNO  tin rằng thêm vào dân Malay  của  các lảnh thổ  Borneo ,sẽ bù chì  sỉ số dân Tàu  Singapore. Chánh phủ Anh   phần mình,  tin rằng hợp nhất  sẽ ngăn ngừa Singapore trở thành một nơi ẩn náu cho chủ nghĩa cọng sản .
 Ngày 9 tháng 7 năm 1963 , các lãnh đạo Singapore, Malaya, Sabah và Sarawak ký kết   Thỏa Hiệp Malaysia, thiết lập  Liên Bang Malaysia - Mã Lai Á .                  
    

     Singapore ở Mã Lai Á ( 1963 - 1965 )


     Hợp nhất


  Ngày  16 tháng  năm 1963 , Malaya , Singapore , Bắc Borneo , và Sarawak  hợp nhất , làm ra Mã Lai Á - Malaysia .  Hợp nhất tỏ ra khập khểnh lúc ban đầu . Trong các cuộc bầu cử  ở Singapore, năm1963,  nhánh địa phương của UMNO   tham gia bầu cử, dù ở  một thỏa hiệp trước đó,  UMNO đã thỏa thuận với PAP  không tham gia  chánh trị  xứ sở trong những năm đầu hình thành Malaysia . Dù UMNO thất bại mọi nơi, liên hệ giữa PAP và UMNO  tệ hại đi . PAP, ăn miếng trả miếng, thách thức các ứng cử UMNO  ở bầu cử liên bang  1964   như thể là  thành phần của  Công Ước   Đoàn kết Mã lai Á - Malaysian Solidarity Convention, chiếm  một ghế ở Quốc  Hội Ma Lai Á .

     Căng thẳng chủng tộc


     Căng thẳng chủng tộc  tăng thêm  khi dân Tàu ở Singapore  khinh khi  bị   kỳ thị  ở hành động tán thành-affirmative action của các chánh sách liên bang, cấp  nhiều ân huệ đặc biệt cho dân Mã Lai bảo đảm theo điều khoản 153  Hiến Pháp Malaysia .  Còn có thêm  những lợi ích tài chánh và kinh tế  đặc biệt  cho dân Mã Lai . Lý Quang Diệu và các lảnh tụ chánh trị khác  bắt đầu đề xướng  cho một cách đối xử  đúng lẽ phải và bình đẳng cho mọi chủng tộc ở Mã Lai Á , với khẩu hiệu  tập hợp “Malaysian Malaysia -  Mã Lai Á  cho dân Mã Lai Á “  
    Trong khi đó , dân Malay ở Singapore  mỗi  ngày càng bị  kích thích  thêm  với những tố cáo chánh phủ liên bang  là PAP  bạc đải dân Malay . Tình trạng chánh trị  bên ngòai cũng rất căng thẳng . Tổng thống Sukarno của Inđônêxia tuyên bố một tình huống  “Đối mặt Konfrontasi - confrontation”  chống lại Malaysia  và  khởi sự những hành động quân sự và hành động khác  chống lại quốc gia mới, kẻ cả ném bom   tiệm MacDonald ở Singapore , ngày 10 tháng 3 năm  1965, với  quân biệt kích, giết chết  3 người .   Inđônêxia cũng làm những họat động  xúi dục nổi lọan khiêu khích dần Malay chống lại dân Tàu.  Rất nhiều bạo động  chủng tộc  là  thành quả và lệnh giới   thường được  ban bố hầu  tái lập trật tự. Nổi lọan đáng chú ý nhât   là Nổi loạn Chủng tộc - Race Riots  vào ngày sinh nhật của   Tiên tri - Prophet Muhammad ngày  21 tháng7 , làm chết  23 người và hàng trăm bị thương.  Khi bất ổn xảy ra, giá thực phẩm lên cao tận trời xanh  khi hệ thốngchuyên chở gián đọan , làm đời sống dân chúng cơ cực thêm. 
     Các chánh phủ xứ và klên bang cũng  tranh chấp nhau trên   trận tuyến kinh tế.  Các lảnh tụ   UMNO  lo ngại    sự chủ trì kinh tế của Singapore , sẽ mặc nhiên  thay đổi quyền lực chánh trị ra khỏi tay Kuala Lumpur.  Dù  có thỏa hiệp trước đó thiết lập một thị trường chung,  Singapore vẫn tiếp tục đối diện giới hạn   khì làm thương mãi  với phần Malaya còn lại . để trả đủa , Singapore từ chối không cung cấp  cho Sabah  và Sarawak  tòan thể các  tiền vay nợ đã thỏa thuận  làm phát triễn kinh tế hai xứ miền Đông này.  Chi nhánh Ngân Hàng Trung Hoa  bị Chánh Phủ Trung Ươngở Kuala Lumpur đóng cửa , vì bị nghi  là tài trợ cho cọng sản. Tình trạng leo thang   đến nổi đàm phán giữa  UMNO và  PAP tan vỡ ;   diễn thuyết và diễn văn  tàn tệ  đầy rẫy cả hai phe . Các tay quá khích UMNO  kêu gọi bắt giữ Lý Quang Diệu .

       Chia lìà - rời bỏ


 Không thấy lựa chọn nào khác để tránh thêm đổ máu, thủ tướng Mã Lai Á  Tunku Abdul Rahman  quyết định đuổi  Singapore ra khỏi liên bang. Goh Keng Swee , đã trở thành nghi ngờ  các lợi ích  kinh tế hợp nhất , thuyết phục Lý Quang Diệu là rời bỏ- chia lìa  nên  thi hành .  Các đại diện  UNMO và PAP họat động hết sức bí mật , làm ra các từ ngữ chia lìa - separation,  hầu đặt đặc biệt cho Chánh phủ  A nh trước sự đã rồi - fait accompli  .
   Sáng ngày 9 tháng 8 năm1965,  Quốc Hội Malaysia  bỏ phiếu 126 trên số zêrô, tu chỉnh Hiến Pháp đuổi Singapore ra khỏi liên bang . Vài giờ sau , Quốc Hội Singapore  thông qua Đạo Luật  Cộng hòa Singapore Độc lập-Republic of Singapore Independence Act  , thiết lập Đảo  thành một cọng hòa độc lập, quyền hạn  tối cao .  Lý Quang Diệu,  mắt  đẩm lệ, tuyên bố trong môt  phiên họp báo ti vi là Singapore đã trở thành một quốc gia quyền hạn tối cao và độc lập . Ông nói “  đối với tôi  đây là một thời gian đau xót . Cả đời tôi , tôi đã tin tưởng  vào hợp nhất và thống nhất hai lảnh thổ”. Quốc gia mới  có tên là Cộng Hoà Singapore  và Yusof Ishak  được bổ nhiệm làm tổng thống đầu tiên .


Phần II :

                                               Cộng Hòa Singapore (  1965 đến nay )


     1965 - 1979  


    Sau khi đột ngột  nhân độc lập, Singapore đối diện một tương lai đầy những điều chưa biết rỏ .  Đối mặt Konfrontasi   tiếp diễn  và phe phái UMNO  bảo thủ  chống đối cực kỳ  chia lìa- tách rời;  Singapore đối diện các hiểm nguy  quân sự Inđô nêxia   tấn công  và cuộc tái hội nhập bó buộc  vào Liên Bang Mã Lai Á,   theo  các từ ngữ  không thuận lợi . Đa số báo chí truyền thông quốc tế  đều nghi ngờ  viễn ảnh  của Singapore sống sót . Ngòai khía cạnh  chủ quyền  tối cao , các vấn đề cấp bách  là thất nghiệp, gia cư, giáo dục, thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Thất nghiệp  từ 10 đến 12 %, đe dọa  kích động bất ổn dân sự.
    Singapore tức tốc  tìm kiếm  quốc tế nhìn nhận   chủ quyền tối cao - sovereignty . Quốc gía  mới mẽ  gia nhập  Liên Hiệp Quốc ngày 21 tháng 9 năm  1965 , trở thành hội viên   thứ 117 và gia nhập  Khối Thịnh Vượng Chung - Commonwealth   tháng 10 nắm đó.  Ngọai trưởng Sinnathamby Rajaratnam  cầm đầu bộ ngọai giao  mới, giúp cho Singapore  khẳng định  nền độc lập của Singapore và  thiết lập quan hệ ngọai giao với các quốc gia khác. Ngày 22 tháng 12 năm 1965,  Đạo luật Tu chỉnh Hiến Pháp được thông qua và Chủ tịch nước  trở thành Tổng thống và  Quốc gia  Singapore  trở thành Cộng Hòa Singapore.  Sau đó, Singapore là đồng thiết lập viên của  Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN  ngày 8 tháng 8 năm 1967 và được gia nhập  Phong trào các Quốc gia Không liên kết- Non Aligned Movement , năm 1970. 

Các nước hội viên Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á
    Ủy Ban  Phát triển Kinh tế đã được thànhlập năm 1961, để  họach định và thực thi  các chiến lược kinh tế quốc gia, tụ điểm  trên đề xướng  khu vực chế tạo của Singapore. Các  công ty công nghệ -Industrial estates được thiết lập, đặc biệt ở Jurong  và đầu tư ngọai quốc  được  hút dẫn vào  Singapore bằng các khích lệ thuế khóa.  Công nghệ  biến khu vực chế tạo thành một khu vực hàng hóa giá trị thêm  to cao hơn và thâu đạt lợi tức cao hơn. Công nghệ dịch vụ   cũng  tăng gia vào thời gian này,  thúc đẩy yêu cầu dịch vụ bằng tàu bè ghé hải cảng, và làm tăng thương mãi. Tiến bộ này giúp  giảm bớt khủng hỏang thất nghiệp. Singapore cũng hút dẫn các công ty dầu lữa lớn  tỉ như Shell,  và Esso  thiết lập nhà máy lọc dầu  ở Singapore và đến giữa thập niên1970,  trở thành  trung tâm  lọc  dầu đứng  hàng thứ ba thế giới . Chánh phủ đầu tư mạnh mẽ  vào hệ thống  gíao dục  và chấp nhận Anh ngữ  là một ngôn ngữ  học vấn và nhấn mạnh  đến huấn nghệ thực tiễn hầu phát triễn một lực lượng lao động thông thạo thích nghi cho công nghệ .
   Thiếu thốn  gia cư- nhà ở  công cọng, thiếu vệ sinh  và thất nghiệp cao  đem tới các vấn đề xã hội, từ tội hình đến các khía cạnh sức khỏe.  Các khu định cư chiếm đất công -  squatter settlements   có thành quả là  các cơ nguy an tòan  và gây Cháy lớn  ở khu Bukit Ho Swee Squatter Fire năm 1961,  giết chết 4 người và   làm cho 16 000 người vô gia cư. Ủy ban Phát triễn Gia cư- Housing Development Board , HDB , thiết lập trước độc lập, tiếp tục thành công   lớn lao và các dự án  xây cất đồ sộ  mọc  lên  nhiều để  cung cấp nhà  ở công cộng rẽ tiền  để cấp cho những kẻ chiếm đất công. Trong vòng một chục năm,  đa số dân đã đến ở các  nhà này . Kế Sách   Gia cư  Tài trợ  ngân khoản Trung Ương - Central Provident  Housing Scheme   , đưa vào năm 1968, giúp các  cư dân  sử dụng  các trương mục  tiết kiệm bắt buộc mua các cư gia HDB,  tăng dần dần   thành  gia chủ ở Singapore . 
   Quân lính Anh  vẫn còn đóng ở Singapore  sau độc lập, nhưng năm 1968, London  tuyên bố quyết đinh  rút  hết  mọi lực lượng vào năm1971. Với sự  giúp đở bí mật của các cố vấn quân sự từ  Israel, Singapore mau lẹ thiết lập  Lực lượng Quân đội Singapore, nhờ  giúp đở của một chương trình  quân dịch quốc gia đưa vào năm1967. Kể từ độc lập, quốc phòng Singapore  chiếm khỏang 5 % GDP.  Ngày  nay , Lực Lượng Quân đội  Singapore có tiếng là một  trong những quân đội trang bị tốt nhất ở Á Châu .

    Các thập niên 1980s và 1990s   


   Thành công kinh tế tiếp tục  suốt thấp niên 1980 , với thất nghiệp  chỉ còn 3% và tăng trưởng thật  sự của GDP  trung bình là 8% mãi cho đến năm 1999    Trong thập niên 1980 , Singapore bắt đầu nâng cấp  vào các công nghệ cao kỷ  tỉ như khu vực chế tạo xi mảnh ( ? )- wafer  fabrication, hầu  cạnh tranh với các nuớc láng giềng  nay  có gíá nhân công lao động rất rẻ. Phi trường  Tràng (Trường) tế ( kế , cát )- Changi  khai trương năm 1981  và hảnh Hàng Không Singapore Airlines  phát tiễn thành một hảng lớn thế giới . Hải cảng Singapore   trở thành một cảng rộn rịp nhất thế giới, các công nghệ dịch vụ và du lịch cũng  tăng gia  lớn lao trong thời gian này. Singapore trổi dậy như thể là  một điểm trọng tâm chuyên chở quan trọng và là một nơi du lịch chánh yếu. 
Wafer fabrication Singapore
  HDB tiếp tục  đề xướng  gia cư công cộng ở các thị trấn mới  tỉ như  Ang Mo Kio - Hoành Mậu Kiều  được họa kiểu và  xây cất.  Các khu gia cư mới có những căn hộ  rộng hơn, lớn hơn, tiện nghi tốt hơn. Ngày nay, 80- 90 % dân số  sống trong các căn hộ  HDB. Năm 1987, Đường  Chuyễn dịch Khối lượng Cao tốc Mau lẹ - Mass  Rapid Transit , MRT   đầu tiên bắt đầu họat động , nối  phần lớn các khu gia cư với trung tâm thị trấn. 
     Tình trạng  chính trị vẫn do  đảng PAP chủ trì  . PAP đoạt  mọi ghế Quốc Hội ở mỗi cuộc bầu cử  giữa các năm1966 và 1981.  Nền cai trị của PAP được  vài tay tích cực và chánh trị gia đối lập   xem như là độc đóan,  vi họ nhin các điều hòa nghiêm khắc  họat động  chánh trị và báo chí truyền thông   của chánh phủ là một vi phạm quyền hạn chánh trị. Kết án chánh trị gia  đối lập Chee Soon Juan  vì các phản đối   bất hợp pháp  và các kiện cáo-tố tụng bôi nhọ J. B.  Jeyaretman  được các đảng đối lập   kể ra làm những thí dụ cho  độc đóan này . Thiếu phân chia quyền hạn  giữa  hệ thống tòa án và chánh phủ,  cũng làm  các đảng đối lập  xem như là  một lỗi lầm tư pháp . 
      Chánh phủ Singapore  thực thi nhiều  thay đổi đáng kể.   Các Hội viên không là thành phần Hiến Pháp   Quốc Hội đượcc đưa vào năm 1984 , giúp cho 3 ứng cử viên  đối lập thất cử trở thành Hội viên Quốc Hội - member of Parliament, MP.   Nhóm  Đại diện Cử tri-  Group  Representation Constituencies , GRC   được đưa vào  năm 1988,   để  tạo dựng  các phân chia  bầu cử   đa ghế  - multi seat , có mục đích  là bảo đảm một đại diện thiểu số ở  Quốc Hội. Nghị viên chỉ định Quốc hội  - Nominated Members of Parliament  cũng được đưa vào  năm 1990, gíúp  làm ra các MP không bầu cử, không  bè phái .  
   Hiến Pháp  cũng được tu chỉnh năm 1991,  cung cấp một Tổng thống được bầu lên , có quyền kháng  quyết - veto power  về cách sử dụng các  dự trữ  quốc gia  và các bổ nhiệm công chức.   Các đảng đối lập than phiền  là hệ thống GRC,làm họ khó lòng  dành được ghế ở bầu cử quốc hội Singapore và  hệ thống bầu cử  đa phương -plurality voting system  có khuynh hướng  đào bỏ  các đảng thiểu số ra ngoài.
       Năm 1990, Lý  Quang Diệu trao quyền lãnh đạo  cho  Goh Chok Tong (Ngô Tác Đống),  trở thành thủ tứơng  thứ hai Singapore.  Goh  đại diện một  phương cách lảnh đạo cởi mở  và tư vấn hơn,  khi Singapore  tiếp tục cận đại hóa . Năm 1997, Singapore bị ảnh hưởng của Khủng hỏang tài chánh Á Châu  và nhiều biện pháp cứng rắn, tỉ như cắt bớt góp phần  CPF, đem ra  thi hành.  Các chương trình của Lý  ở Singapore , có một ảnh hưởng  sâu đậm  đến lảnh đạo cọng sản Trung Quốc , đặc biệt  dưới thời Đặng Tiểu Bình - Deng Xiaoping, một cố gắng thi đua  các chánh sách của Lý  về tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp và đàn áp tế nhị  đối lập. ( Xin xem  bài số IV và số  V năm 2011 về Trung Quốc Đặng Tiểu Bình,  ở blog ton that - ton nu ).  Hơn  22 000 chức quyền Tàu được gửi đến Singapore  học hỏi các phương pháp của Lý Quang Diệu .

    2000  đến nay


   Đầu thiên niên 2000


   Đầu thiên niên 2000,  Singapore trải qua  vài  khủng hỏang hậu -độc lập, kể cả bùng nổ  SARS năm 2003  và khủng bố đe dọa.  Thàng 12 năm 2001, một  mưu kế  cho nổ bom các tòa đại sứ và các hạ tầng cơ sở khác  ở Singapore được khám phá , và có đến  36  hội viên nhóm Jemaah Islamiyah  bị bắt giữ theo điều khoản  Đạo Luật Nội An. Các biện pháp chánh chống khủng bố  được đặt ra  để dò tìm và ngăn  ngừa  khủng bố tiềm thế, tối thiểu tai hại lỡ khi chúng xảy ra. Nhấn mạnh nhiều hơn đến  đề cao hội nhập  xã hội quốc gia  và  lòng tin cậy giữa các cộng đồng khác nhau. 
   Năm  2004 , Lý Hiển Long  - Lee Hsien Loong , con trưởng Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng Singapore thứ ba. Loong  đưa vào   nhiều thay đổi chánh trị , gồm cả gỉam bớt thời gian đi quân dịch quốc gia từ 2 năm rưỡi xuống 2 năm  và hợp pháp hóa  đánh bạc casinô. Các cố gắng khác  cố nâng cao uy tín hình dạng tòan cầu của Singapore  như tái lập  Singapore Grand Prix năm 2008, và tổ chức Thế Vận Hội Thanh Niên Hè 2010.
 
   Tổng tuyễn cử năm 2006 là một  bầu cử cột mốc, vì sử dụng chánh yếu Internet và Blogging  để  bao  quát và  tranh biện về bầu cử , khỏi  tay báo  chí truyền thông chánh thức . PAP trở lại nắm chánh quyền , đoạt 82  ghế trong số 84 ghế Quốc Hội   và chíếm 66 % số  người đi bầu .  Năm 2005 , hai  cựu Tổng thống Wee Kim Wee (Hoàng Kim Huy) và Devan Nair chết.

   2010 - 2020        

   
Tổng tuyễn cử năm 2011,  cũng là một bầu cử phân thủy  khác, vì lần đầu tiên PAP  thất bại, mất đi GRC cho đảng đối lập WP. 4 năm sau,  Lý  Quang Diệu, cha gìà  quốc gia và  là thủ tướng đầu tiên Singapore chết, ngày 23 tháng 3 năm  2015 .


    Phần III : Kinh tế Singapore


   Tổng quát


    Nhắc lại Singapore là một nền kinh tế  thị  trường  hướng về thương mãi  phát triển rất cao.  Nền kinh tế này  xếp hạng   là mở cửa rộng nhất thế giới , đứng hàng thứ 7 về ít tham nhũng - least corrupt , ủng hộ đoanh nghiệp nhất,   tỉ xuất   thuế khóa thấp, ( 14.2 %  GDP)  và  GDP mỗi đầu người   đứng hạng 3 thế giới, tính theo Sức Mua Tương Đương-  Purchasing Power  Parity, PPP .  PPP mỗi đầu người  ước luợng năm 2015 là 85 427$ , trên 4 lần hơn năm 2001 là 20 767 $ . Các công ty liên kết với Chánh phủ  đóng một vai trò thực tế vạm vỡ ở kinh tế Singapore  làm chủ nhân xuyên qua qủy   tài chánh  chủ quyền tối cao  Tài sản  Temasek Holdings  chiếm đa số trên nhiều công ty lớn  nhất nước, tỉ như Hàng Không Singapore Airlines, SingTel , ST Engineering  and MediaCorp.   Nền kinh tế  Singapore cũng là nhà lượng chảy tài chánh chánh yếu của  Đầu tư Ngọai quốc Trực tíếp - Foreign  Direct Investment, FDI   thế giới. Singapore đã thừa hưởng lợi ích cuả dòng chảy hướng bên trong của FDI  từ các nhà đầu tư và  thể chế tòan cầu, nhờ  không khí đầu tư hút dẫn cao độ và một môi trường chánh trị ổn định.                


   Xuất khẩu. đặc biệt về đồ điện tử, hóa chất và dịch vụ  gồm tình huống Singapore là  trọng tâm vùng  cho  xử lý tài lợi- giàu có  cung cấp nguồn  lợi tức chánh cho kinh tế, cho phép  mua các tài nguyên thiên nhiên và  nguyên liệu thô Singapore rất thiếu thốn.  Hơn nữa,  nước rất   khan hiểm  ở Singapore, cho nên  nước được định nghĩa là một tài nguyên quí báu  song song với khan hiếm đất đai ; phải giải quyết bằng  lấp đổ đầy đất ở Pulau Semakau  ( có khi bằng cát bùn nạo vét các lòng sông miền Nam Việt Nam ? , Căm Bốt ? ). Singapore cũng  không có đất trồng trọt, có nghĩa là phải dựa  vào  công viên  kỷ nông- agrotechnology park   để sản xuất  và tiêu thụ nông nghiệp. Tài nguyên con người  là một  vấn đề sinh tử khác  cho  sức khỏe  kinh tế  Singapore. Kinh tế Singapore  đứng thứ hai  theo cách xếp hạng của  Kỷ Sinh học Khoa học Hoa Kỳ, năm 2014,  với đặc điểm của  khu Phố Kỷ Sinh- Biopolis
  Như vậy, có thể nói rằng Singapore  trông cậy vào một khái niệm nới rộng của  thương mãi trung gian thành một thương mãi Kho trữ hàng - Entrepôt trade , mua nguyên liệu thô rồi tinh luyện  chúng để tái xuất khẩu, tỉ như chế tạo  mảnh xi - wafer fabrication  và lọc dầu lữa .   Singapore đã có một hải cảng chiến lược  làm cảng cạnh tranh hơn là  nhiều cảng các nước láng giềng chuyên chở các họat động  kho trữ hàng. Tỉ xuất  thương mãi trên GDP  Singapore cao nhất thế giới, trung bình chừng 400%  trong thời  gian 2008 - 11. Cảng Singapore rộn rịp đứng hàng thứ ba   thế giới về số hàng hóa  chở  tàu thủy - cargo tonnage . Thêm vào đó, hạ tầng cơ sở cảng Singapore và lực lượng lao động lành nghề  do chánh sách giáo dục  quốc gia đầy thành công  đào tạo ra nhân công lành nghề , cũng rất căn bản cho khía cạnh này, vì  chúng cung cấp đường vào dễ dàng hơn đến  các thị trường cho  nhập khẩu lẫn xuất khẩu  và cũng cung cấp  thông thạo cần thiết tinh luyện nhập khẩu để xuất khẩu.
  Chánh phủ Singapore  đề xướng các mức tiết  kiệm và đầu tư cao theo các chánh sách  tỉ như Quỷ  Cung cấpTrung ương - Central Provident Fund  dùng để tài trợ săn sóc sức  khỏe dân gian  và các yêu cầu nghĩ hưu.   Tiết kiệm Singapore đã duy trì là  nằm trong số  cao nhất thế giới từ thập niên 1970 .  Đa số công ty  ở Singapore đã đăng ký  như thể các công ty   trách nhiệm pháp lý hửu hạn  tư - private limited-  liability   ( thường gọi la “ công ty  tư hửu hạn”)  một công ty tư hửu hạn  ở Singapore là một  thể nhân  hợp pháp riêng biệt - separate legal entity, và các cổ đông - shareholders  không chịu trách nhiệm cho các nợ của công ty  lớn hơn số lượng cổ phần tư bản họ đã góp vào .         
    Hầu giữ vững thế đứng quốc tế và tiến lên thêm  phồn thịnh  kinh tế  ở thế kỷ thứ 21, Singapore đã  ban hành nhiều biện pháp  đề cao sáng kiến,  khuyến khích tính doanh nghiêp  , tái huấn  nghệ lực lượng lao động mình, ngay cả hút dẫn các tài năng ngọai quốc . Hầu hút dẫn tài năng ngọai quốc, chánh phủ Singapore đã  ban hành  các Thẻ Nhân dụng - Employment Pass , EP theo 3 hạng : Thẻ P1 cho những  ai có lợi tức  từ 8000$ hay hơn nữa, P2 cho các cá nhân   lương tháng  từ 4500 $ đến 7999 $, và Q1  cho ai lợi tức hàng tháng dưới 3000$.   Các chuyên gia ngọai quốc lương trên 18 000$ hay  những ai đang có  thẻ EP  lương trên 12 000$ có thể  được cấp một Thẻ Nhân Dụng Cá nhân hóa - Personalized  Employment Pass,  PEP , cung cấp mềm dẽo lớn hơn  EP  thường lệ.  Bộ  Nhân công - Ministry of  Manpower , MoM ,   giám sát  các vấn đề liên quan tới  lao động di cư.  Các biện pháp này có mục đích bổ sung hiệu năng Singapore, để Singapore luôn luôn duy trì cạnh tranh và sẳn sàng đối phó mọi thách thức  nền kinh tế thế giới  do thông tin thúc đẩy.

     Lịch sử kinh tế Singapore  


    Khi rời khỏi Mã Lai Á thành quốc gia độc lập năm 1965, Singapore đã phải đối diện một thị trường nội địa bé nhỏ, những mức cao thất nghiệp và nghèo khổ .  70 % gia thất  Singapore   sinh sống  trong những điều kiện quá đông đúc  tệ hại . Và một phần ba dân gian  cư trú trên đất công  với những khu ổ chuột  quanh các bìa rìa  thị trấn , thành phố.  Thất nghiệp đến  14 %,  GDP mỗi đầu người là 516$ US  và phân nữa dân chúng vô học , không biết chữ. Tuy vậy cũng không mấy kém GĐP mỗi đầu người Thành phố  phát đạt miền Nam Cần Thơ năm 1994 chỉ mới  681 $ .Để  trả lời, chánh phủ Singapore thiết lập Ủy Ban Phát triển Kinh tế - Economic Development Board  để làm giáo đầu cho  một thúc đẩy đầu tư , và làm cho Singapore trở thành một nơi hấp dãn   đầu tư ngọai quốc .  Dòng chảy bên trong FDI   tăng mau trong những  thập niên kế tiếp ; và đến năm 2001  các công ty ngọai quốc chiếm 75%  sản lượng chế tạo và  85%  xuất khẩu chế tạo. Trong lúc đó , tỉ xuất tiết kiệm và đầu tư  Singapore tăng vọt lên đến các mức cao nhất thế giới, và tiêu thụ  gia thất  cùng phần chia sẽ lương bổng của GDP trụt xuống các mức thấp nhất .
  Thành quả  của thúc đẩy đầu tư này  là  cổ phần tư bản  Singapore tăng  lên 33 lần đến năm 1992 ,  10 lần tỉ xuất tư bản - lao động. Đời sống tăng đều đặn , nhiều gia đình di chuyễn từ  tình trạng lợi tức kém lên an ninh trung lưu  với lợi  tức gia thất cao hơn.   Trong  diễn văn Ngày Quốc Khánh 1987 , Lý Quang Diệu ,  tuyên bố , căn cứ trên tiêu chuẩn  chủ nhân nhà cửa , 80% dân Singapore  nay có  thể xem là thuộc giới trung lưu.  Tuy nhiên,  không giống các chánh sách  Hy Lạp-Greece  và phần Âu Châu còn lại, Singapore theo đuổi  một chánh sách   cá nhân hóa một  mạng lưới an toàn  xã hội  . Điều  này đưa tới  những tỉ xuất tiết kiệm trung bình  cao  hơn  và trong dài hạn một nền kinh tế rất vững bền.  Không có một loại an sinh xã hội  hay điều tương tự đè nặng,  Singapore đã phát triển một lực lượng lao động lành nghề  tự tín -sành sỏi  cho kinh tế toàn  cầu.  
     Chánh sách kinh tế Singapore đã sản xuất   tăng trưởng thật sự trung bình  8%  từ 1960 đến 1999. Kinh tế lên lại năm 1999, sau khủng hoảng tài chánh vùng, với  tỉ xuất tăng trưởng là 5.4% và tiếp theo là 9.9%  năm 2000. Tuy nhiên, kinh tế chậm lại ở Hoa Kỳ, Nhật,  và Hiệp Hội Âu Châu  cũng như đình trệ điện tử khắp thế giới, đã làm giảm tăng trưởng kinh tế ước lượng năm 2001 trở nên âm tính - 2.0 % . Năm sau, kinh tế tăng lại  thêm 2.2%  và 1.1 % năm 2003, khi SARS  bùng nổ. Năm 2004, phục hồi đáng kể  tăng 8.3%, dù rằng tăng trưởng thấp hơn mức dự trù  hơn phân nữa, chỉ 2.5%. Năm  2005, mức tăng kinh tế  là 6.4% và năm 2006 là  7.9 %.
   Đến  ngày 8 tháng 6 năm  2013, tỉ lệ thất nghiệp  Singapore là  khoảng 1.9 % và kinh tế quốc gia  có một  tỉ xuất  tăng trưởng kém hơn , chỉ là 1.8 % so với 14.8 % năm 2010. 

Vài thí dụ về vật giá ở Singapore từ 1990 tới 2012. Trung bình vật giá tăng theo đà 10 năm.  

  Đầu tư và Doanh vụ quốc doanh


    Lãnh vực công được sử dụng vừa là một đầu tư vừa là  một xúc tác  phát triển kinh tế và sáng kiến.  Chánh phủ Singapore nắm hai qủy tài sản -giàu có -wealth funds  chủ quyền tối cao, Temasek Holdings và GIC Private Limited dùng để xử lý các dự  trữ quốc gia.  Thoạt tiên vai trò quốc gia được hướng về  xử  lý  công nghệ giúp cho phát triễn, nhưng những thập niên gần đây, mục đích các quỷ tài sản  tối cao Singapore  chuyển qua một căn bản thương mãi .
       Các tổ hợp liên kết với chánh quyền- GLC  đóng một vai trò đáng lưu ý  trong nền kinh tế nội địa Singapore.  Tính đến tháng11 năm 2011,  6 GLC Singapore liệt kê ở chóp bu, chiếm 17%  tổng  số tư bản hóa của Thị Trường Hối Đóai- Singagore Exchange, SGX. Các  công ty quốc doanh hay bán phần quốc doanh này họat động  theo căn bản thương mãi  và không được trợ cấp gì hơn các công ty tư cả thảy .  Quốc doanh  chủ trì các khu vực kinh tế chiến lược, gồm luôn cả viễn thông, báo chí truyền thông, chuyên chở công cọng, quốc phòng, hải cảng các họat động  phi cảng  cũng như ngân hàng, chuyên chở tàu thủy, hàng không, hạ tầng cơ sở và  gia cư .
    Năm 2014, Temasek nắm giữ  69 tỉ đô la Singapore  tích sản ở Singapore, chiếm 7% tổng số tư bản  của các công ty liệt kê.

    Khu vực


     Hầu giữ vững vị trí cạnh tranh dù giá nhân công lên cao, chánh phủ cố tìm kiếm  đề cao  các họat động  giá trị thêm cao hơn ở các lảnh vực  chế tạo  và dịch vụ. Chánh phủ cũng đã mở hay sắp mở  các dịch vụ tài chánh, viễn thông,  phát điện và bán lẽ cho các nhà cung cấp dịch vụ ngọai quốc  và cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Chánh phủ cũng đã  cố gắng thực thi vài biện pháp  tỉ như hạn chế lương bổng  và giải tỏa các xây cất không sử dụng,  trong một cố tâm   kiểm sóat gíá  cho thuê thương mãi tăng gia, với nhãn quan là  hạ thấp  phí tổn làm doanh nghiệp tại Singapore, khi giá cho thuê ở quận  thương mãi trung ương tăng lên gấp ba vào năm 2006.
        

    Ngân Hàng


       Singapore là môt trung tâm chánh yếu tài chánh tòan cầu , có các ngân hàng Singapore cống hiến  những tiện nghi trương mục ngân hàng   tổ hợp công ty  hạng nhất thế giới.  Những tiện nghi này bao gồm  đa tiền tệ-multiple currencies , ngân hàng internet,  ngân hàng điện thọai , trương mục  ngân phiếu, trương mục tiết kiệm  , các thẻ tín dụng số dư nợ - creditdư có - debit   cards , tiền  ký qủy kỳ hạn cố định - fixed term deposits  và các dịch vụ xử lý tài sản    Theo Human Rights  Watch, nhờ vai trò  là trung tâm chánh yếu tài chánh  cho vùng , Singapore luôn luôn bị chỉ trích  là đã chứa  chấp nhiều trương mục ngân hàng  những tài sản các lảnh đảo tham nhũng  và  đồng bọn  thu nhập bất chính ; kể cả hàng tỉ đô la  lợi tức khí dầu thiên nhiên Miến Điện dấu diếm không ghi vào  các trương mục kế tóan quốc gia. Singapore đã hút dẫn các tích sản  trước đây ở Thụy Sĩ vì nhiều lý do , kể luôn cả thuế  vừa đánh vào các trương mục Thụy Sỉ   và sự bí mật ở ngân hàng Thụy Sĩ  yếu kém đi . Credit Suisse  hảng lớn đứng thứ hai ngân hàng Thụy  Sĩ   chuyễn tổng giám đốc  ngành ngân hàng quốc tế tư dến Singapore năm 2005 .
     Trốn thuế là  bất hợp pháp ở Singapore , tuy nhiên,  theo  Tổ chức  Hơp tác và Phát  triễn OECD , các chức quyền Singapore  có khuynh hướng hợp tác  với chức quyền thuế khóa các quốc gia khác,   chỉ khi nào  liên quan đến trốn thuế Singapore mà thôi .    

    Kỷ thuật Sinh học ( Sinh kỷ )


     Singapore năng nổ đề xướng và phát triễn  một công nghệ  kỷ thuật sinh học , sinh kỷ - biotechnology của  mình. Hàng trăm triệu đô la được đầu tư  vào lảnh vực này  để xây đắp  hạ tầng cơ sở, tài trợ khảo cứu  và phát triễn và tuyển chọn  các nhà khoa học quốc tế hàng đầu cho Singapore. Các hảng chế tạo thuốc Tây dẫn  đạo  tỉ như GlaxoSmithKline( GSK ) , Pfizer và Merck & Co.  đã  thiết lập nhà máy ở Singapore . Ngày 8 tháng 6 năm 2006 , GSK tuyên bố   là đầu tư thêm  300 triệu $ Mỹ nữa,  để xây cất một nhà máy khác sản xuất các thuốc chủng  trẻ em - paediatric vaccines, cơ sở kiểu này đầu tiên ở Á Châu.  Chế tạo Dược Phẩm  nay chiếm hơn  8%  sản xuất chế tạo quốc gia .

    Năng lượng và Hạ tầng cơ sở


     Singapore  là   trung tâm chánh yếu buôn bán  thương mãi và định gíá dầu lữa ở Á Châu. Công nghệ dầu lữa chiếm 5% GDP Singapore  và Singapore  là một trong ba trung tâm lọc dầu   hàng đầu xuất khẩu thế giới .  Năm 2007,  Singapore đã  xuất khẩu 68.1 triệu tấn dầu. Ngành công nghệ dầu lữa đã đem tới  đề xướng công nghệ hóa học cũng như chế tạo thiết bị  dầu lữa và khí dầu.  Singapore có 70%   thị trường thế giới cho các giàn khoan  kết cấu tự nâng -  jack-up rigs   và cho các đơn vị hóan chuyễn giảm tải  Tồn trữ Sản xuất Nổi-  Floating Production Storage  Offloading units .   Quốc gia này cũng  có 20%  thị trường thế giới cho sửa chửa  tàu và năm 2008  công nghệ biển và ngòai khơi  sử dụng 70 000 người .

     Thưong mãi, Đầu tư và Viện trợ


      Năm 200 , tổng số thương mãi Singapore  đạt 373 tỉ $US, tăng 21 % từ năm 1999.  Dù kích thước bé nhỏ , nay Singapore  đứng hàng thứ 15 buôn bán với Hoa Kỳ.  Năm 2000. Singapore nhập khẩu tổng cọng  135 tỉ $US  và xuất khẩu  138 tỉ $US.   Malaysia là nguồn nhập khẩu chánh  của Singapore, cũng như là  thị trườhg xuất khẩu lớn nhất, hấp thu 18% xuất khẩu Singapore, với Hoa Kỳ  theo đuôi sát cánh. Malaysia  là bạn buôn bán lớn nhất với Singapore. Tổng số  thương mãi song phương lên đến   91 tỉ $US, năm 2012 , chiếm 1/5   tổng số thương mãi ASEAN.  Buôn bán  Singapore với  Malaysia,  Trung Quốc , Inđônêxia và Nam Hàn  tăng năm 2012, trong khi buôn bán  với EU27, Hoa Kỳ , Hong Kong và Nhật  lại giảm năm 2012 .      
      Tái xuất khẩu  chiếm 43 % tổng số bán  của Singapore đến các nước khác  năm 2000.      Xuất khẩu chánh của Singapore là  các sản phẩm dầu lữa,  thực phẩm- thức uống, hóa chất,  tơ  sợi- áo quần, các bộ phận điện tử, dụng cụ  viễn thông  và thiết bị chuyên chở. Nhập khẩu chánh là máy bay,  dầu thô, và các sản phẩm  dầu lữa, các  bộ phận điện tử, rađiô,  và các máy hay bộ phận  ti vi, xe hơi, hóa chất,  thực phẩm- đồ uống, sắt-thép, các  chỉ tơ sợi - vãi vóc .   
    Buôn bán ở Singapore đã  thừa hưởng  mạng lưới  rộng lớn những thỏa hiệp thương mãi Singapore đã ký kết . Singapore  tự do thương mãi  với toàn thể mạng lưới ASEAN , thuế nhập khẩu  gia gỉam khi buôn bán với  Inđônêxia,  Malaysia, Phi Luật Tân, Thái Lan,  Brunei, Miến Điện, Căm Bốt,  Lào  và Việt Nam.
     EDP Singapore tiếp tục  hút dẫn  ngân qủi  đầu tư  kich thước đại trà  cho Quốc gia, dù rằng Singapore  là thành phố tương đối có môi trường họat động phí tổn cao.  Hoa Kỳ dẫn đạo đầu  tư ngoại quốc , chiếm  40%  các  cam kết mới ở công nghệ chế tạo năm 2000 . Tính đến năm 1999, đầu tư tích lũy cho chế tạo và dịch vụ  của các công ty Mỹ  tại Singapore  đạt  gần 20 tỉ $US  tổng số tích sản.  Khối lượng lớn  đầu tư Hoa Kỳ  là ở chế tạo điện tử , lọc và tồn trữ dầu lữa và công nghệ hoá chất.  Hơn 1000 công ty US  họat  động ở Singapore.
   Chánh quyền   Singapore phần lớn sạch- không tham nhũng, lực lượng lao động lành nghề , hạ tầng cơ sở  tiên tiến và hửu hiệu  đã hút dẫn  hơn  3000 Tổ hợp Công ty  Đa quốc gia- Multi ational Corporations , MNC  từ Hoa Kỳ, Nhật và Âu Châu. Các hảng ngọai quốc hiện diện gần như ở mọi lảnh vực kinh tế.  MNCs chiếm hơn ⅔  sản xuất chế tạo  và bán ra  trực tiếp xuất khẩu, dù cho  vài lảnh vực dịch vụ  vẫn còn  do các tổ hợp  liên kết chánh quyền ngự trị. 
   Chánh phủ  cũng đã khuyến khích các hảng đầu tư  ngoài Singapore ,và tổng số đầu tư trực tiếp ở ngọai quốc  đạt 39 tỉ $ US, cuối năm 1998.  Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc  là  nơi đến chánh, chiếm 14%  tổng số đầu tư ở ngọai quốc , tiếp theo là Malaysia ( 10% ), Hong Kong ( 8/9 % ) , Inđônêxia ( 8.0%)  và Hoa Kỳ (4%). .Nền kinh tế  Ấn Độ đang tăng trưởng mau lẹ, đặc biệt  ỏ lảnh vực cao kỷ,  đang trở thành một nguồn nới rộng đầu tư  ngọai quốc cho Singapore.  Hoa Kỳ  không viện trợ song phương  cho Singapore , nhưng tuồng như Hoa kỳ  tỏ vẽ muốn cải thiện  thương mãi song phương và đã ký kết Thỏa Hiệp Tự do Thương mãi  Hoa Kỳ - Singapore.   Thuế tổ hợp  Singapore là  17% .  
             

                          ( Irvine, Nam Ca Li, Hoa  Kỳ ngày 16 tháng 8 năm 2015 )


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét