Thứ Năm, 6 tháng 8, 2015

Thái Lan

Biết rõ hơn đôi chút về:


                                         Nước Thái Lan ngày nay

                                            G S Tôn Thất Trình 
 
Nhà cao tầng ở Bangkok


      Mãi cho đến  giữa cuối thế kỷ thứ 20, Thái Lan  ( tiếng Anh là Thailand) cơ bản là một nước nông nghiệp, sinh sống ở nông thôn , nhưng kể từ thập niên 1960  nhiều dân cư  di chuyễn  đến thủ đô Bangkok ( có lúc dịch là Vọng Các ) và  nhiều  thị trấn- thành phố khác. Dù rằng vùng  thủ đô Đại Bangkok - Greater Bangkok metropolitan area   vẫn là  trung tâm  đô thị  lớn nhất, Thái Lan  đã có những  thành phố kích thước đáng kể  tỉ như Chiêng- Chiang Mai ở miền Bắc,  Nakhon Ratchasima hay Khorat  , Khon Kaen Udon Thani  ở Đông Bắc, Pattaya  ở  Đông Nam và  Hatya ở cực Nam . 

      Nước Xiêm ( Siam , Xiêm La ) là tên gọi của Thái Lan mãi cho đến năm 1939 ,  chưa bao giờ  bị thực dân Âu Châu đô hộ cả. Xiêm độc lập   do môt nền quân chủ  chuyên chế  ngự trị mãi cho đến một cuộc cách mạng xảy ra năm 1932 . Kể từ lúc đó, Thái Lan là môt nền quân chủ lập hiến , và những hiếp pháp tiếp theo nhau  cung cấp  một quốc hội  dân bầu .Tuy nhiên,  quyền hạn chánh trị  thường do  quân sự nắm giữ , xuyên qua  các cuộc đảo chánh . Trong hai thập niên cuối cùng thế kỷ thứ 20 và thập niên thứ nhất thế kỷ thứ 21,  nền dân chủ nghị viện  càng ngày càng được dân gian ủng hộ rộng lớn hơn. Dù có một khủng hỏang trổi dậy năm 2006 ,  khi giới quân sự đứng  cùng  nền quân chủ, lật đổ  chánh phủ dân bầu, những  cuộc bầu cử quốc hội mới, do chánh phủ lâm thời hứa hẹn, được tổ chức năm 2007 .  
  

       Địa lý


       Đất đai


 Diện tích Thái Lan  là 513 120 km2 , khỏang bằng Tây Ban Nha ( I Pha Nho)   hay Pháp,  lớn hơn Việt Nam diện tich chỉ là 331 114 km2 , gồm  hai vùng địa lý  rộng lớn :  môt khu vực chánh yếu lớn hơn ở phía Bắc  và một  nới rộng bán đảo nhỏ hơn  ở  phía Nam .  Phần thân thể chánh xứ sở  do Myanmar - Miến Điện, Burma  bao bọc   phía Tây , Lào  phía Bắc và phía Đông , Căm Bốt phía Đông Nam và Vịnh Thái Lan phía  Nam. Bán đảo  Thái Lan trải dài  hướng về  Nam từ góc  Tây Nam nước nhà ; Myanmar  dọc theo  mép bìa Đông  bán đảo Mã Lai- Malay Peninsular, nới rộng dọc theo phần Tây  bán đảo xuống  xa mãi  đến gần Eo biển   - Isthmus Kra ; sau đó  Thái Lan chiếm  tòan thể bán đảo cho đến khi gặp  biên giới phía Nam  với Mã lai Á ở  6 0 vĩ tuyến Bắc .

        Đia hình


   Cảnh quan  Thái Lan biến đổi  từ các núi thấp đến các đồng bằng phù sa phì nhiêu  các  đồng ruộng lúa nước  điểm chấm đến các bải biển cát nằm chính giữa các  vĩ tuyến xích đạo hệ thống các gió mùa Châu Á .  Thái Lan chia ra  làm 5  vùng địa văn học  - physiographic  regions khác biệt nhau :  các  núi nằm ngang  các phía Bắc và Tây , Cao nguyên Khorat  phía Đông Bắc, lưu vực  sông Chao Phraya  ở trung tâm, góc biển  vùng trung tâm phía  Đông Nam , và một phần bán đảo dàì, mảnh dẽ   phía Tây Nam. 

   Các núi miền Bắc  là một tiếp  tục Đông Nam của  tiến trình nâng cao  làm ra Hy Mã Lạp Sơn - Himalayas, trải dài thêm về hướng Nam  dọc theo biên giới Thái - Myanmar  , và đến tận  Bắc Mã Lai Á .  Những dãy thạch cương  dài này  thành hình, khi khối lượng  đá tảng  nung chảy   buộc  chúng phải  lên cao   xuyên qua  tầng trầm tích xưa cỗ hơn . Các đỉnh núi trung bình  cao khoảng 1600m ( 5200 bộ Anh ) trên mặt biển . Núi  Inthanon, cao 2585m (  8481 bộ Anh ), là núi cao nhất nước,  nằm vào phía Đông Bắc  Thái Lan,  gần thành phố lịch sử Chiêng Mai . Thành phố bị Núi ( Đồi)  Suthep che khuất bóng .  Suthep là  nơi   có chùa - đền thờ Phật giáo nổi danh  và là  hoàng cung mùa  hạ  của vua Thái . Vài ngọn đồi đá vôi gồ ghề  chứa các hang động  tàn tích con người thái cỗ - tiền lịch sử đã được khai quật . 



    Đồng bằng tiếp cận Cao nguyên Khorat là  một  cao nguyên  rộng lớn  Sông Mê Kông  bao giáp phía Bắc và phía Đông . Cao nguyên hình thành,  khi nâng lên  dọc theo hai  phay - fault , faille  vỏ trái đất - crustal   thẳng góc nhau : một phay hướng  Bắc Nam về phía Tây và phay  phía  Nam theo hướng Đông  Tây. Thành quả là những đá tảng trầm tích nằm dưới thảy đều nghiêng,  thay vì được nâng lên đồng đều . Thế nghiêng này tạo  dựng những rạng đồi  núi thấp  dọc theo bìa mép  phía Đông và phía Nam Cao nguyên : đó là các núi  Phetchabun Đông  Rak , tên Thái của  Dangrek.  Dốc đứng của các đất cao này   giám sát  lưu vực  đồng bằng Chao Phraya  về phía Tây và  đồng bằng Căm Bốt  về phía Nam. Độ cao  trên mặt Cao nguyên Khorat  là chừng 200 m ( 650 bộ ) phía  Tây Bắc hạ xuống chỉ còn   90m ( 300 bộ ) phía Đông Nam.  Đất đai  uốn lăn  và các  chóp đồi thường nghiêng về  phía  Đông Nam  đúng theo độ nghiêng.

    Lưu vực  sông Chao Phraya rộng rải  nằm giữa các dãy núi  phía Bắc và phía Tây và Cao nguyên Khorat  là  trung tâm  văn hóa và kinh tế Thái Lan .  Vùng này có khi còn có tên  là Đồng Bằng  miền Trung- Central Plain gồm hai phần :  các đồng bằng  uốn lăn chia cắt nặng nề phía Bắc là đồng bằng nước ngập - flood plains bằng phẳng đất thấp châu thổ sông Chao Phraya phía Nam . Đồng bằng do các  tích tụ đồ sộ   đất  xói mòn trôi xuống từ các chi lưu Chao Phraya,  làm ra  những trầm tích  phù sa hình quạt . 

    Phần   Đông Nam Thái Lan thường cũng uốn lăn,  chứa nhiều đồi cao ở giữa và dọc theo biên giới Đông với Căm Bốt . Các đỉnh đáng kể là Núi Khieo. cao 797 m ( 2614 bộ )  và Núi Soi Đao, cao đến 1 668m ( 5471 bộ ). Các đồi  chạy dài đến gần biển,  tạo ra bờ biển răng cưa  có nhiều đảo tô điểm .  Nhờ có bải biển trải dài, những thị trấn bờ biển như  Chon BuriRayong và vài đảo đã trở thành những nơi nghỉ dưỡng phổ cập, dân gian ưa chuộng .

   Phần  Tây Nam Thái Lan  gồm bán đảo với xương sống núi non  và một bờ biển  cát nghiêng nghiêng . Các núi cao hơn  đạt khỏang 1500m ( 4900 bộ )   nằm dài bán đảo  về  phía Tây  và có những đèo hẹp , nối Thái Lan và Myanmar . Các dãy này  phân chia  các biển Andaman  và Nam Hải , khi bán đảo hẹp đi  gần biên giới Mã Lai Á .  Ngòai khơi  bờ biển Tây gồ ghề và  răng cưa nặng nề  là rất nhiều đảo lớn  kể luôn cả Đảo Phuket giàu thiếc , cùng các đảo khác    tỉ như PhiphiSamui , đã trở thành  nhữnng nơi du khách thăm viếng, còn phổ thông hơn cả Hua Hin , nơi nghỉ dưỡng xưa cũ phía Bắc bán đảo.

    Sông ngòi


     Thái Lan thóat nước nhờ hai hệ thống sông: sông Chao Phraya ở  phía Tây và sông Mê Kông ở phía Đông . Ba sông chánh ở vùng núi non  phía Bắc , chảy từ  Tây qua Đông là  sông Ping (  nhánh lớn là sông Wang  ), sông Yom và sông Nan ,  thường chảy về Nam   qua những thung lũng nhỏ hẹp  đến các đồng bằng rồi nhập chung  lại thành  sông Chao Phraya  là sông lớn nhất Thái Lan .  Châu thổ đồng bằng ngập nước  Chao Phraya , thắt nơ thành vô số kênh  mương, rồi lại được các sông khác nhập thêm vào, đặc biệt là sông Pa Sak , khi Chao Phraya   chảy ra cửa biển Vịnh Thái Lan.  Châu thổ  bằng phẳng ngập nước  mùa mưa, là một tích sản cho trồng lúa nước , dù  phần đất cao hơn  ở các bìa  cực Đông và của Tây  đòi hỏi phải tưới tiêu.  Tòan thể châu thổ trước đây  là thành phần Vịnh Thái Lan, nhưng theo thời gian  trầm tích từ  miền Bắc đã đổ đầy vùng .  Đóng bùn này là một cản trở liên tục cho giao thông đường sông, nhưng nhờ vậy mà cửa sông  kéo dài ở biển Vịnh nhiều bộ Anh mỗi năm. Các sông  Cao nguyên Khorat  thường chảy về hướng  Đông Nam  và đổ vào sông Mê Kông. Nước ngập lũ các sông này  là nguồn nước quan trọng cho sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên,  lũ lụt  hay bất ngờ tính theo số lượng và tần số; và các vấn đề ngập lụt càng thêm tệ hại , khi đất đai bị phá rừng  và trồng trọt.  Vùng cũng có thủy cấp cao, chứa phần lớn nước lợ không  uống được, phần lớn sông Mê Kông, nằm giữa Thái Lan và Lào  hoặc điểm chấm nhiều  đảo hay bị  thác không giao thông được cắt quảng đi .         
  
           Phần  Đông Nam  và bán đảo  thóat thủy nhờ các dòng  sông-suối ngắn. Về phía Đông Nam , các sông miền Bắc   chảy vào châu thổ Chao  Phraya , trong khi các  sông miền  Tây và miền Nam  chảy ngay ra biển, nơi chúng xây đắp những lưu vực và châu thổ dọc theo  bờ biển .Các cửa sông  dọc theo bờ biển phía Nam  là những đất  bằng phẳng thủy triều - tidal flats và đầm lầy rừng sác -mangroves swamps. Hầu hết tất cả sông của  bán đảo đều  thoát thủy vào Vịnh Thái Lan  ( Biển Tây Việt Nam ). 

        Giữa  các thập niên 1950 và 1960,  một số đập  được xây cất,  phần lớn ở miền Bắc và Đông Bắc Thái Lan , để cải thiện  ngập lụt và sản xuất thủy điện và nới rộng nông nghiệp tưới tiêu đựợc. Những trầm tích lớn phù sa các thung lũng sông, chứa đất đai phì nhiêu nhất Thái Lan , được trầm tích  các sông nước dâng cao mùa mưa  trôi về mỗi năm.  Nhất là ở châu thổ  đồng bằng ngập lụt  Chao Phraya, nhưng  các lưu vực tương đối bằng phẳng và các núi non miền Bắc, đất đai rải rác dọc sông Mun và sông Chi  ở Cao nguyên Khorat và phần lớn bờ biển  cũng là những đất phù sa phì nhiêu.  Đất đai các nơi khác  tương đối nghèo nàn, là các latêrít chiết mòn cao độ . Gần sông Mê Kông,  vài lọai đất  chứa khá nhiều muối mặn, giới hạn mùa màng . Môt số trầm tích muối đã được khai thác thương mãi.

     Khí hậu


    Các ảnh hưởng chánh trên khí hậu Thái Lan là vị trí xứ sở thuộc về vùng gió  mùa nhiệt đới  của lục địa Đông Nam Á   và vài đặc điểm địa hình  ảnh hưởng đến phân phối mưa .  Bắt đầu từ tháng 5 , những khối lượng  không khí ấm áp và ẩm ướt  của gió mùa Tây Nam thổi về hướng  Đông Bắc  qua Vùng từ Ấn Độ Dương, rơi  xuống nhiều  lượng mưa lớn , mưa nhiều nhất  là vào tháng 9.  Giữa tháng 11 và tháng 2  gió đổi chiều  và gió mùa  Đông Bắc  đem tới mát mẽ , không khí tương đối khô  theo chiều  Tây Nam, tạo ra nhiệt độ  mát lạnh hơn  cho gần khắp xứ sở. Không khí im lìm tháng 3 và tháng 4, làm ra một thời gian nóng nực và khô hạn  rỏ rệt,  giữa các mùa  gíó mùa. 

     Cao độ  gây ra các biến đổi địa phương  về mô hình thời tiết tổng quát, đặc biệt ở bán đảo  Ranong  phía bờ biển miền Tây  nhận  chừng 4000 mm (160 ngón Anh ) mưa mỗi năm ( như Bạch Mã Nam Đông, Huế- Thừa Thiên ) . Trong khi  Hua Hin phía bờ biển Đông   chỉ nhận ít hơn  1000 mm ( 40 ngón Anh ). Thời tiết  dọc theo bìa phía Tây  Đồng bằng Trung Tâm ( ương ) và ở Cao nguyên Khorat không theo đúng  các ảnh hưởng  mưa -  che mờ xảy ra . Songkhla  ở cuối  Nam  bán đảo Thái Lan, có một thời gian mưa vào mùa mát lạnh, thành quả của ẩm độ  các  gió mùa Đông Bắc thu thập, khi gió thổi trên Vịnh Thái Lan.  

    Tính theo cả nước , nhiệt độ tương đối bền vững  suốt năm, trung bình từ 25 đến 290 C (  77- 840 F ). Biến thiên lớn nhất là ở  miền Bắc, nơi đông giá thỉnh  thỏang xảy ra  tháng chạp  ở các độ cao hơn . Ngược lại,  ảnh hưởng biển điều hòa khí hậu miền Nam. Không khí lạnh mát hơn, khô hơn  của gió mùa Đông Bắc  thường  làm ra  sương mù buổi sáng, tan vào buổi trưa ở các vùng Bắc và Đông Bắc. Ẩm độ rất cao vào mùa mưa.

     Tài nguyên thiên nhiên


     Thái Lan là một  xứ rừng rú,  đồng cỏ hòa bản  lùm bụi, và đất ẩm ướt đầm lầy  hoa sen và hoa  súng  điểm chấm.  Kể từ  giữa thế kỷ thứ 20,  rừng bao phủ  chỉ còn ít hơn  một phần ba tổng diện tích đât đai  so với   hơn phân nữa những năm trước đó .  Phá rừng  trồng trọt  ( kể cả đồn điền cây mộc , thân gỗ), đốn gỗ qúa đáng   và xử lý rừng tồi tệ là những nguyên do chánh  cho suy tàn này.  Rừng Thái Lan  phần lớn là  cây gỗ cứng - hardwoods như  giá tị- teck  và cây mộc  gỗ  kiến trúc hay sản xuất nhựa  của họ Dầu - Dipterocarpaceae .  Cũng như những nơi khác   Đông Nam Á :  tre, cọ kè, mây  và nhiều lòai dương  sĩ...  thật là thông thường.  Nơi nào rừng đã đốn gỗ  và không trồng lại , một tăng trưởng thứ cấp và lùm bụi  mọc lại,  thường  giới hạn trồng trọt . Sen và súng  mọc đầy ở đa số các ao hồ và đầm lầy khắp nước.

 Dân Thái Lan   truyền thống dùng trâu, bò, ngựa và voi  cày bừa ruộng vườn, chuyên chở  hàng hóa,  dân gian và di chuyễn  chất tải nặng. Đến thập niên 1980, súc vật dùng để kéo đã bị máy móc thay thế  và ngọai trừ những vùng xa xôi hẻo lánh, súc vật dùng để chuyên chở  đã bị xe mô tô, xe vận tải, xe hơi và búyt thay thế . Yêu cầu voi làm việc  cũng hầu như  biến mất hòan tòan, khi lệnh cấm  đốn gỗ ban hành  năm 1989  và các voi  thuần hóa bị sáp nhập  vào ngành du lịch. 
 
Voi vẫn còn được xử dụng trong du lịch trên các vùng núi Thái
    Mất rừng mau lẹ kềm theo một  dâng cao đáng kể yêu cầu các động vật xa lạ,  đã rất tai hại cho  đời sống hoang dã . Tây ngu và heo vòi - tapirs  , trước đây  tìm thấy ở nhiều nơi Thái Lan, đã biến hẳn , cũng như những đàn voi  rừng .  Vượn - gibbons, vài loài khỉ, lòai chim cũng cùng chung số phận.  Dù nhiều cố gắng  đưa ra để ngăn ngừa  mua bán bất hợp pháp  các lòai bị hiểm nguy tuyệt tích,  thành công chỉ rất hãn hửu. Tương tự  các luật lệ bảo tồn khác, tuy đã có một lịch sử lâu dài ở Thái Lan, luật lệ  rất khó thực thi  và cũng cố .
    Năm 1985, vùng rừng bảo vệ và để tiêu khiển  chiếm 25 % tổng diện tích  và vùng khai thác gỗ chiếm 15 %. Từ năm  1992 đến năm 2001, xuất khẩu gỗ súc (đẳn ) - loggỗ cưa - saw timber  tăng từ  50 000 lên 2 000 000 m3  một năm.

    Trước đây  cá nước ngọt  và cá biển rất dồi dào ở  Thái Lan,  nay đã mau lẹ  biến  hết vì lạm thác  và  cắt đọan  các sinh thái  thiên nhiên chúng sinh sống, cũng như tôm - shrimp  , tôm he -prawn và cua biển. Tôm, tôm he  bán ở thị trường nội địa hay xuất khẩu, nay nuôi ở các trại tôm. Rắn,  kể cả rắn hổ mang chúa  - king cobra, và nhiều lọai rắn nước độc hại, tuy vẫn còn tìm thấy thường xuyên  ở hoang dã, ngày nay lại thấy nhiều hơn  ở các trại nuôi rắn. Cá sấu cũng tương tự như vậy, tuy vẫn hiện diện hoang dã ở miền Nam Thái Lan. Thái Lan đứng hàng thứ ba thế giới  về xuất cảng hải sản.  Theo Hiệp Hội Thực phẩm Đông Lạnh Thái,  tổng số tôm cá xuất khẩu  trị giá 3 tỉ $ US  năm 2014  và sử dụng hơn 300 000 người .                  

   Muổi, kiến, bọ cánh cứng  và sâu bọ khác, cũng như rắn mối  - lizards ăn chúng, luôn luôn có mặt, ngay cả ở những môi trường đô thị - thị trấn. Nhộng tằm đã góp phần lớn cho ngành tơ lụa Thái Lan  nổi tiếng.

     Lúa gạo  là nông phẩm  quan trọng nhất. Thái Lan  lâu ngày ( thời Việt Nam  Pháp thuộc Thái Lan đứng hạng ba, sau Miến Điện và  Việt Nam)  là nước  xuất khẩu đứng đầu thế giới , nhưng những năm gần đây đã thua kém Ấn Độ và Việt Nam . Các nông phẩm đáng kể khác là dừa , bắp- ngô, cao su , đậu nành , mía và bột sắn,  khoai mì-tapioca.
 
      Bùng nổ cúm chim  - avian flu,  đã  theo thắt lại lảnh vực nông nghiệp Thái Lan năm 2004  và sóng thần- tsunami   ngày 26 tháng chạp năm 2004  đã làm ngành ngư  nghiệp Thái vùng biển Andaman thiệt hại  nhiều.  Các năm 2005 và 2006  GDP nông nghiệp Thái  đã giảm khỏang 10 %.  

      Về khóang sản, năm 2003, Thái Lan  sản  xuất hơn 40 lọai khác nhau, trị giá chừng 740 triệu $ US. Đặc biệt Thái xuất khẩu thạch cao - gypsum  đứng hàng nhì thế giới, sau Canada. Tháng 9 năm 2003, chánh phủ hầu khuyến khích  đầu tư ngọai quốc ở ngành khai thác mỏ quặng, đã giải tỏa bớt  các giới hạn khai thác cho các hảng ngọai quốc và giảm bớt thuế họ phải nạp. 

      Năm 2005, Thái Lan sản xuất 306 000  thùng ( 48 700 m3 ) dầu lữa (dầu thô ) một ngày, ít hơn Việt Nam ước lượng là 450 - 500 000 thùng một ngày. Nhưng năm 2005, Thái Lan lại tiêu thụ đến 839 000 thùng ( 133 200 m3 ) một ngày.  Thái Lan có 4 nhà máy lọc dầu, khả năng tổng cọng là 703 100 thùng ( 111 780  m3) / ngày. Năm 2004, mức tiêu thụ khí dầu thiên nhiên là  1 055  ngàn tỉ bộ khối (  2.99  x 1010 m3)  cao hơn  mức sản xuất chỉ đạt  790 ngàn  tỉ  bộ khối ( 2.2 x 1010 m3). Tính đến tháng giêng năm 2007,  Thái Lan có khỏang  290  triệu tấn (? )  dầu thô dự trữ đã chứng minh ( 46 triệu m3) và 14.8  ngàn tỉ bộ khối  khí dầu thiên nhiên. Nhắc lại là ở bài tỉnh Kiên Giang tập san  Theo dõi Bóng dáng Quê hương Việt Nam  - 2015 ), năm 2012 , trử lượng  dầu lữa Việt Nam là  643 triệu tấn (mức sản xuất là 15.2  triệu tấn)  và khí dầu thiên nhiên là  644  tỉ m3 ( một bộ khối  cubic  foot =  0, 028  m3) hay  17.8  ngàn tỉ bộ khối khí dầu thiên nhiên( mức tiêu thụ là 8.7 tỉ m3 ).   

          Năm 2004, Thái Lan tiêu thụ 30 .4 triệu tấn  than đá, cao hơn mức sản xuất là  22.1 triệu tấn. Theo Vinacoal, ở bài  tỉnh Quảng Ninh  miền Đông Bắc , năm 2005 Việt Nam đã  sản xuất 28 triệu tấn than đá và năm 2006  trên 36 triệu tấn , nhưng lại xuất  khẩu  21 triệu tấn.   Mức tiêu thụ  dự trù sẽ  tăng đến 29.3 triệu tấn  năm 2010  và  47-50 triệu tấn  năm 2015 ( ? ) . Dự trữ là 2556  tỉ tấn  ở mỏ ,chỉ sâu  ít hơn 300m  dưới mặt đất ( ? )   

Mức độ tiêu thụ năng lượng của Thái năm 2010


  Dân gian   


        Dân số từng vùng phân chia hành chánh Thái Lan


       Tổng dân số Thái Lan ước lượng vào năm  2014 là 67 956 000 người.  Năm  1990, theo điều  tra dân số - census   là 54 548 530,  năm 2000 là  60 916 441 và năm  2010 là 65 981 659 người. Thái Lan chia ra 7 vùng, dùng làm điều tra dân số  và qui họach hóa :
      1-  Đại Vùng  thủ đô Bangkok Greater Metropolitan:    tổng diện tích là 7 762 km2, tổng dân năm 2010 là 14 626 225 người , dự trù đạt 15 579 100 người vào tháng 7 năm 2015.
        2-  Miền Trung - Central : diện tích  165 594 km2, dân số năm 2010 là  3 117 5511, dự trù đạt  3 136 700  người tháng 7 năm 2015.
        3-  Miền Đông - Eastern:  diện tích  36 503 km2, dân số năm 2010 là  5 175 345, dự trù đạt    5 5558 700  người tháng 7 năm 2015.
        4- Miền Đông Bắc( hay Isan ) - North Eastern : diện tích là 168 855 km2, dân số  năm 2010  là 18 966 091, dự trù  giảm bớt chỉ còn  18 727 400 tháng 7 năm 2015, nhưng vẫn là tỉnh đông dân nhất .
        5-   Miền Bắc  - Northern :  diện tích  169  644 km2  là tỉnh rộng lớn nhất, dân số năm 2010   là 11 656 043  cũng sẽ giảm bớt dân chỉ còn 11 483 000  tháng 7 năm 2015
        6 -  Miền Nam - Southern :  diện tích  70  715 km2,  dân số năm  2010 là 8 871 003, dự trù tăng lên 9 156 700 vào tháng 7 năm 2015.
        7 -  Miền Tây - Western : diện tích  43 047 km2, dân số năm 2010  là 3 569 447, dự trù lên 3 594 3000 người tháng 7 năm 2015  

    

        Các thành phố, thị trấn, xã - phường... Thái Lan


        Số dân  8 thành phố  đông  nhất  Thái Lan, cuối năm 2014 :
     *1- vùng thủ đô - KrungThep (Bangkok  )   sẽ có 5 692 284  vào cuối năm  2014 ;
     *2-   Ngọai ô Nonthaburi   256 190 ;
   *3-  Ngọai ô Pak kret  184 501.         
   *4-  Hat Yai miền Nam 159 130
    *5-  Nakhon Ratchasima, miền  Đông Bắc 134 440
   *6 - Udon  Thani ,  cũng ở Đông Bắc  133 429
   *7 - Chiang ( Chiêng) Mai  miền Bắc  132 634
   *8 - Surat Thani miền Nam  128 622    
       Cuối năm 2014 , Thái Lan có  37 đô thị, thành phố , thị trấn xã- phuờng ( ?) trên 50 000 ngườ . Sau đây là các đô thị , thành phố , thị trấn, xã phường  Thái Lan trên 60 000 dân  xếp theo thứ tự chữ cái  ( tên có gạch là các  xã- phường…. có trên 100 0000 người ):
        Bang Si  Mueang  ( Xã )  102 291;  Băng Pu ( Xã )  120 058,   Ban Suan  ( thị trấn - town )   66 092 ;  Chaophraya Surasak   ( thành phố- city  )  119 007 ; Chiêng Mai  ( thành phố )  132 634;  Chiang Rai  ( thành phố )  70 610 ;  Hat Yai ( thành phố )   159 130 ; Khao  Sam Yot ( thị trấn )  60 412;  Khon Kaen (  thành phố )  115 928 ;   Ko Samui (  thành phố )  63 592 ;  Krung Thep - Bangkok   ( thành phố)    5 692 284 ;  Laem Chabang ( thành phố )  77 798 ;   Lam Sam Kaeo (  thị trấn )  63 271 ;  Lat Luang ( thị trấn )  73 898:  Map Ta Phut ( thị trấn ) 60 928 ; Nakhon Pathom (  thành phố ) 78  780;  Nakhon  Ratchasima (  thành phố )  134  440 ; Nakhon Sawan (  thành phố )  86 439 ;  Nakhon Si Thammarat ( thành phố )  106 322 ;   Nong Prue ( thị trấn ) 70 594 ; Nonthaburi ( thành phố ) 256 190 ; Pak Kret (  thành phố )  184 501 ;  Pattaya (   ( thành phố ?)   113 667 ;  Phitsanulok   ( thànhphố )  70 871;  Phuket ( thành phố ) 77 610;   Rangsit (  thành phố )   79 319 ;   Rayong ( thành phố ) 61 902 ;   Samut  Sakhon  ( thành phố )   60 103 ;  Saraburi ( thị trấn )  61 750 ; Songkhla  ( thành phố )   67 154 ;  Surat  Thani  ( thành phố )  128  622 ;  Tha Khlong  ( thị trấn  -  72 774 ;  Trang  ( thành phố )  60 591 ;  Ubon Ratchathani ( thành phố )  79 023 ; Udon Thani   ( thành phố )  133 429   ; Yala   ( thành phố)  61 250      
       

   Các nhóm tộc dân Thái Lan


 Khi các biên cương chánh trị cận đại  đã được  xác định vào  cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế  kỷ thứ 20, Thái Lan là  gồm nhiều tộc dân nền tảng  văn hóa , ngôn ngữ, tôn giáo đa dạng  . Đa dạng này là đặc điểm  của  phần lớn các quốc gia Đông Nam Á , nơi   biên cương chánh trị đổi thay  đã không ngăn cản gì   đuợc những di dời, di cư dân chúng  dài hàng thế kỷ.  Vị trí trung tâm  của Thái Lan  trên lục địa  đã khiến Thái Lan trở nên  một ngã tư cho những di cư này.
    Dù cho phần lớn dân cư Thái Lan  là con cháu của những  kẻ nói tiếng Thái - Tai languages,  đã chủ trì vùng này  từ cuối thế kỷ thứ13 , dân số cũng gồm  nhiều tộc dân  không phải là Thái.  Môt thiểu số lớn nhất   dân địa phương   nói một  thứ tiếng Mã Lai - Malay  .  Những thiểu số  địa phương  đáng kể khác  nói tiếng Môn , tiếng Khmer và những ngôn ngữ Môn- Khmer khác  thuộc họ Úc Á  - Austroasiatic family.  Tại vùng cao  Tây và Bắc Thái Lan   có dân gian   nói những ngôn ngữ   thuộc  họ khác .  Thái Lan là nơi định cư   nhiều nhóm di cư  lớn  và con cháu họ, đa số từ Trung Quốc, nhưng cũng có các nhóm Nam Á . Đa số thành viên địa phương hay cộng đồng di cư đến Thái Lan, đều gắn liền mạnh mẽ với văn hóa quốc gia Thái  và nói tiếng Thái .

          Thái


    Tổ tiên Thái  đến đầu tiên từ   miền trung tâm Thái  luc địa  Đông Nam Á  khỏang   năm 1000 và  bắt đầu thiết lập những lảnh địa - tiểu vương  độc lập   vào thế kỷ thứ 13 .  Có một lúc,  ai cũng tưởng rằng  tổ tiên dân Thái  đến từ  miền  Tây Nam  Trung Quốc  , nhưng  nay chứng cớ ngôn ngữ đã trổi dậy đặt  nơi cư ngụ nguyên thủy  các tộc dân nói tiếng Thái  là  miền   Tây Bắc Việt Nam ngày nay . Tộc dân Thái  nay đinh cư ở Thái Lan  đem theo cùng họ những đặc điểm văn hóa   do tiếp xúc  với dân Tàu làm ra hình dạng . Ở nơi cư trú mới, họ bị  các tộc dân  Khmer và Môn  ảnh hưởng , truyền thống phần lớn  lại nguồn gốc Ấn Độ, Vào thế kỷ thứ 13 ,   tộc dân Thái chiếm ưu thế, chủ trì , cuối cùng phối hợp với  di sản -gia tài   ngôn ngữ , văn hóa  và chánh trị xã hội tổ tiên Thái  với Phật Giáo  dân Môn và  nghệ thuật lảnh đạo nhà nuớc của dân Khmer Án độ hóa,  làm thành  một văn hóa  Thái khác biệt hẳn .  Tại Thái Lan hiện thời,  những ai đã chấp nhận  một  đồng nhất quốc  gia là Thái  , gồm không những   dân gian nói tiếng Thái   miền Trung Thái Lan  mà  còn  nhiều nhóm  nói tiếng Thái khác, lớn nhất là dân nói tiếng Lào  miền  Đông Bắc Thái Lan  và dân  nói tiếng Khăm Muộn( ? )  - Kammùang miền Bắc Thái Lan nữa...  

     Môn - Khmer

   
      Những cộng đồng bản địa- autochtonous  còn sót  lại của Thái Lan ngày nay  sinh sống  ở Đông Bắc quốc gia  và liên hệ rất gần gủi  dân Khmer xứ Căm Bốt .   Họ  họp thành tỉ lệ dân nói tiếng  Môn - Khmer lớn nhất  ở Thái Lan . Tộc dân Kuy (  đa số dân Thái gọi là  Suai )  của vùng Đông Bắc, có khi được biết là  những tay săn bắt voi . Ngay nay  họ được công nhận là  những kẻ huấn luyện voi lành nghề   để dùng voi làm việc.  Cũng có một số nhỏ dân sống  vùng cao như Lawa hay Lua ở phía Bắc và một phần nào sỉ số dân Môn đông hơn ở phía Tây . Đa số tộc dân Môn  là con cháu  của các kẻ di cư từ Miến Điện - Burma  vào thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 19 nhưng vài  người lại là dân tị nạn mới đây, cũng từ Myanmar đến. Các  dân cư nói tiếng Môn -Khmer,  từ lâu đã nói hai thứ tiếng , nói  tiếng Thái và những ngôn ngữ chủ trì địa phương .  Vì họ theo  cùng các truyền thống Phật giáo hay tôn giáo khác của Thái Ln, họ hội nhập tốt đẹp  vào cấu trúc xã hội xứ sở này .

    Dân Hoa  - Tàu


       Thái Lan hút dẫn một số lớn dân di cư từ các  nước láng giềng, kể từ  giữa thế kỷ thứ 19, vì Thái Lan mở mang kinh tế và chuyễn biến chánh trị nhiều nơi  Á Châu.  Số di cư  đến nay, nhiều nhất là từ Trung Quốc  và họ trở thành một thiểu số  đáng kể ở  Thái Lan.  Ở các trung tâm buôn bán  tại Bangkok và nhiều đô thị khác, các con cháu Tàu  họat động  ở cả các doanh nghiệp thương mãi lớn lẫn nhỏ như thể là trung gian và chủ tiệm . 

    Vào đầu thế kỷ 1900 , khỏang 1/7  tổng dân số  Thái Lan  là  Hoa - Tàu , nhưng vào đầu thế kỷ thứ 21 chỉ còn 1/ 10  tổng số nhận mình  nguồn gốc Tàu. Đa số dân nguồn gốc Tàu ( dân Thái gọi là luk cin ) ở Thái Lan hiện tại, đã đồng hóa văn hóa  Thái, phần lớn  chấp nhận Thái Tiêu Chuẩn - Standard Thái  như thể là ngôn ngữ  căn bản của họ và ngay cả là ngôn ngữ đặc  hửu nữa đó .  Họ trở thành  các Phật giáo Tiểu thừa Theravada Buddhist.  Nhưng dân Tàu đồng hóa này theo tiếng Anh gọi là  Tàu Thái - Sino Thai.  Tuy nhiên,  còn một số  vẫn nhận diện được là Tàu chính cống vì ngôn ngữ họ nói và  những nghề nghiệp họ theo dõi .  Dù có đôi chút  kỳ thị  chống  Tàu  vào  đầu giữa thế kỷ  thứ 20,  tộc dân Tàu -Thái  đã đóng một vai trò kiệt xuất, không những cho nền kinh tế  mà cả ở chánh trị Thái Lan.  Kể từ thập niên 1990 , nhiều thủ tướng  và đa số  nghị viên Quốc Hội  đều có tổ tiên  là Tàu .

    Mã Lai , dân cư vùng cao và các di cư mới


     Không phải mọi dân sống trong lảnh thổ Thái Lan, thảy đều  hòan toàn  hội nhập vào cộng đồng quốc gia,  dân nói tiếng Mã Lai  làm thành đa số rộng rải  của 4 tỉnh  cực Nam xứ sở . Vì lẽ vùng này  là một quốc vương hồi giáo - islamic  sultanate  mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19, và vì cư dân  có một xác định ngôn ngữ khác biệt  và di sản tôn giáo ( họ thực hành  hồi giáo islam ), vài cư dân vùng này  hổ trợ các phong trào  đòi tự trị lớn hơn và ngay cả độc lập khỏi  các tộc dân  theo Phật gíáo chánh yếu , nói tiếng Thái. 

      Cư dân vùng cao ( còn có tên là  các bộ lạc đồi núi - hill tribes )  tỉ như dân Karens  , Hmong ( Miêu ,  Mèo ), Yao ( Dao , Mán) , Lahu ,  Lisu Akha  cũng có những truyền thống  khác hẳn, xếp họ ra ngòai đa số  nói tiếng Thái . Trong quá khứ, họ được  dân Thái xem là  dân rừng rú và liên kết này vẫn tiếp tục  tạo dáng cho hình ảnh phổ thông  các  cộng đồng miền cao  vào thế kỷ thứ 21. Đa số cư dân vùng cao  có lúc theo những truyền thống tôn giáo địa phương.  Trong khi vài  người đã trở thành Phật giáo, một  số lớn hơn vào Thiên chúa giáo , một đặc điểm làm họ khác biệt thêm  đa số dân Thái Lan. 

     Một vài nhục nhã đã quấy nhiễu dân cư vùng cao , kể luôn lịch sử  trồng thuốc phiện  và  đốt rừng làm rẫy - slash and burn agriculture, cả hai đều bị cấm đóan vào thập niên 1950, cũng như  lan tràn không đủ khả năng  hay thất bại  có được những thẻ  căn cước  - identification cards.  Một vai trò tích cực hơn  cho dân vùng cao Thái Lan, đã được vua Bhumibol  và  hoàng tộc Thái khuyến khích . Vua và hòang hậu   không những  đã thăm viếng nhiều lần vùng cao  và đã thiết lập những dự án  thay đổi trồng thuốc phiện  với các sản phẩm khác, cải thiện đời sống   dân cư vùng cao . Du lịch văn hóa  cũng đã tiếp tục cải thiện hình ảnh các cộng đồng vùng cao.  Thêm vào đó, nhiều  tổ chức không chánh phủ  đã giúp các  tộc dân  vùng cao  có được quyền công dân và bảo vệ quyền lợi đất đai họ khỏi phải di dời.

    Mãi  đến giữa thế kỷ thứ 20, đa số dân di cư vĩnh viễn  được phép,  khuyến khích  trở thành công dân Thái Lan. Tuy nhiên, tình thế thay đổi  cho những di cư mới , nhiều người   vào Thái Lan  như thể tị nạn chánh trị  từ các nước láng giềng. Nhóm tị nạn đáng kể đến từ Việt Nam ngay sau Thế Chiến Thứ Hai  và đa số được cấp quyền công dân Thái. Thái Lan bị tràn ngập  một làn sóng tị nạn lớn hơn nữa  vào thập niên 1970,  theo sau việc thành lập các chánh phủ cọng sản ở Việt Nam, Lào  và Căm Bốt.  Dù rằng phần lớn  các dân tị nạn này cuối cùng đi định cư ở các xứ khác,  vài dân Hmong  Lào  vẫn ở lại các trung tâm tị nạn Thái Lan  và cuối thập niên 1980, một số  lớn hơn nữa  dân tị nạn đến từ Myanmar, tìm kiếm công ăn việc làm  và ẩn náu chánh trị.  Dòng tị nạn này vẫn còn tiếp diễn  ở Thế kỷ Thứ 21, dù  vài dân di cư  đã được chấp thuận dưới tư cách là  công nhân làm việc tạm thời - guest worker,  hàng chục ngàn dân tị nạn  từ Myanmar  cũng như từ Căm Bốt , Lào và Trung Quốc  tiếp tục sống và họat động bất hợp pháp khắp Thái Lan .
      

     Ngôn ngữ


    Đa số ngôn ngữ nói ở Thái Lan thuộc một trong số  4  họ ngôn ngữ  chánh : Tai ( một họ phụ  của các ngôn ngữ Tai -Kadai ), Mon - Khmer  ( một họ phụ của ngôn ngữ  Úc - Á ) , Úc Á , và Tàu - Tây Tạng ( Sino - Tibetan ) . Thêm vào đó,  Anh Văn- English rất phổ thông ở Thái Lan cho thương mãi và nhiều mục đích chánh thức, chánh quyền.  Từ các lớp sơ đẳng trở lên, dân Thái Lan phải học Anh văn, dù rằng chỉ con em  trên các lớp này, đặc biệt  cho những con em theo học những  trường thượng  lưu,  mới thông thạo đáng kể Anh văn.   

   Phần II : Tổng quát về phát triển kinh tế Thái Lan ngày nay


       Đại cương


       Thái Lan là một nước  mới công nghệ hóa.  Nền kinh tế Thái Lan tùy thuộc nặng nề về  xuất khẩu ( xuất cảng ) chiếm  hơn ⅔   lợi tức ròng nội địa quốc gia - gross domestic product , GDP . Năm  2012,  GDP Thái Lan   là 366  tỉ $ - đô la US   hay 11  375 tỉ bath ( đơn  vị tiền tệ  Thái Lan ). Nền kinh tế Thái Lan   tăng trưởng 6.5 % , với tỉ xuất lạm phát là 3.02 %  và một trương mục thặng dư  là 0.7 %  cho GDP xứ sở . Năm  2013, kinh tế Thái Lan  tăng  3.8- 4.3%. Thật tế  giữa năm 2013,  kinh tế Thái Lan đã tăng  4.1% . Tuy nhiên, sau điều chỉnh , GDP Thái Lan  giảm bớt 1.7% quý đầu năm 2013 và 0.3 qúy hai  2013.  Giảm bớt  như vậy trong hai qúy liên tiếp , có thể xem là kinh tế Thái Lan đã thóai trào - recession phần nào .  Tăng trưởng GDP ,năm 2015, có thể là 0.3 % . Ước lượng, năm 2015 GDP  là 397. 475 tỉ $ , đứng hàng  thứ 32 trên thế giới   theo cách xếp hạng của Quỷ Tiền tệ Quốc tế -IMF  và sức mua tương đương PPP là  1 054 ngàn tỉ - trillion $.  GDP mỗi đầu người- per capita năm 2015 lên đến 5 771 $ ( còn  theo PPP là  15 319 $ ) .Để so sánh , Thái Công Tụng ( Vietnamologica - số 6 , 2005 ) trích dẫn các con số   năm 2005 (? ) :  GDP (theo PPP )  mỗi đầu người  đã là 6 132 cho Thái Lan , Trung Quốc  mới  là 3617 $ , Inđônêxia   2857 $ , Singapore 20 767 $, Nhật  24 898 $ và Việt Nam  rất thấp kém  ( sau gần  20 năm thống nhất đất nước )  là 1860 $ .
      Lĩnh vực công nghệ và dịch là chánh yếu  cho GDP Thái Lan ngày nay. Năm 2012 đã chiếm 39.2 % GDP , còn khá xa dịch vụ đã chiếm 52.4 %  và nông nghiệp chỉ còn 8.4 % . Nông nghiệp còn nhỏ  hơn cả các lãnh  vực  thương mãi , hậu cần - logistics chiếm 13.4% và  truyền thông, thông tin - communications  chiếm 9.8%. Xây cất và khai thác hầm mỏ chiếm 4.3 % GDP .  Các lảnh vực dịch vụ khác  gồm tài chánh , giáo dục , khách sạn - hotels  và tiệm ăn restaurants chiếm 24.9 %. 

     Thái Lan là nền kinh tế đứng hàng nhì Đông Nam Á, sau Inđônêxia. Năm  2012, GDP mỗi đầu người là 5 390 $ US,  chỉ nằm vào giữa các nước Đông Nam Á ,  sau Singapore , Brunei  và Mã Lai Á . Ngày 19 tháng 7 năm 2013,  Thái Lan nắm giữ  171 .2 tỉ $US  dự trữ quốc tế, thứ nhì Đông Nam Á , sau   Singapore . Thái Lan cũng   đứng hàng nhì về thể tích thương mãi ngòai nước , sau Singapore. Ngân Hàng Thế Giới  cũng đã đặt Thái Lan,  xem nước này là “một trong những chuyện  kể thành công  phát triễn lớn”, ở  các chỉ dẫn xã hội và phát triễn.  Dù lợi tức  ròng  quốc gia mỗi đầu người -  gross national income per capita, GNI  chỉ mới đạt  5 210 $ US , và Thái Lan  đứng hàng thứ 89   trong  chỉ số  Phát triễn con người - human Development Index HDI, tỉ xuất dân gian Thái  sống dưới mức nghèo khổ  đã giảm từ  65.26% năm 1988 , xuống  chỉ còn 13. 15 % năm 2011 . 

    Tỉ xuất thất nghiệp Thái Lan báo cáo  thấp,  là 0.9 %  cho quý đầu 2014 . Sở dĩ như vậy  là vì  một phần đông dân gian  còn họat động trong ngành nông ngiệp tự cung tự cấp, đủ để sống còn- subsistence  agriculture hay  trong các  công việc dễ bị tổn thương  ( làm việc cho mình  hay cho gia đình không có lương).

     Lịch sử Phát triển kinh tế Thái Lan


    Trước 1945


     Thái Lan tên lúc đó là Xiêm - Siam  mở rộng cửa  tiếp xúc  ngọai quốc vào thời đại tiền công nghệ . Dù tài nguyên Xiêm hiếm hoi , các hải cảng và các  đô thị , đặc biệt ở các cửa sông là những trung tâm  kinh tế sớm   đón mời  thương buôn từ Ba Tư - Persia. các nước Ả Rập, Án Độ , Trung Quốc . Ayutthaya bừng dậy  vào thế kỷ thứ 14, được nối kết  cùng các họat động thương mãi   tái xuất  Tàu  và vương quốc Xiêm trở thành một  trong những trung tâm buôn bán phồn thịnh nhất Á Châu. 

     Khi  thủ đô Xiêm dời về Bangkok  vào thế kỷ thứ 19, buôn bán ngọai quốc  ( đặc biệt với Trung Quốc )  trở thành  tụ diểm  của Chánh phủ .  Thương gia  Tàu  đến buôn bán ; vài người định cư  trong xứ  và nhận chức vị chánh thức quan trọng. Một số thương gia Tàu  và di cư trở thành quan chức cao cấp  vương triều .  Từ giữa  thế kỷ thứ 19 trở đi, các thương gia Âu Châu mỗi ngày mỗi họat động tích cực thêm. Hiệp Ước Bowring Treaty ký  năm 1885, bảo đảm các đặc ân của  thương gia Anh.  Hiệp  Ước  Harris Treaty năm 1886 nâng cấp Hiệp Ước Roberts năm 1833, nới rộng các bảo đảm này  cho thương gia Hoa Kỳ . 

     Thị trường nội địa  phát triển chậm rì, và chế độ nông nô - serfdom có thể là một nguyên nhân gây ra  trì trệ nội địa . Đa số dân Nam ở Xiêm phải phục vụ cho chức quyền hòang cung, trong khi vợ và con gái họ có thể bị mua bán ở các chợ  trong nước. Ai mắc nợ nhiều cũng có thể tự bán minh như nô lệ . Vua- King Rama V bải bỏ nông nô năm1901 và nô lệ năm 1905.
 
     Kể từ đầu thế kỷ  thứ 20  đến khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt,  nền kinh tế Xiêm dần dần tòan cầu hóa . Các doanh gia chánh là tộc dân Tàu  đã trở thành công dân Xiêm.  Xuất  khẩu nông sản ( đặc biệt là lúa gạo ) trở nên rất quan trọng  và Thái Lan là một trong những quốc gia xuất cảng hàng đầu thế giới . Kinh tế Xiêm bị khổ sở lớn vào Đại Khủng Hỏang -Great Depression  và  là một nguyên nhân cho Cuộc Cách Mạng Xiêm năm 1932.
      

   Sau 1945


   Thời kỳ 1945 - 1955


Thống chế Phibun Songkhram 
Phibun Songkhram
Phibun Songkhram
    Từ năm 1945 đến 1947 , kinh tế Thái Lan   đau khổ vì  Thế Chiến Thứ Hai.  Lúc này Chánh phủ Thái Lan do thống chế Luang Phibulsongkram lảnh đạo  liên minh với Nhật và tuyên chiến với Đồng Minh .  Sau chiến tranh, Thái Lan phải cung cấp 1.5 triệu tấn gạo cho  các nước Tây Phương  không tiền, một  gánh nặng cho phục hồi kinh tế xứ sở.  Chánh phủ cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách  thiết lập một sở lúa gạo quản lý buôn bán lúa gạo . Trong thời gian này,  một hệ thống  đa  tỉ xuất hối đóai được đưa vào  giữa các vấn đề thuế khóa và vương quốc thiếu hẳn các hàng hóa tiêu thụ. Tháng  11 năm 12947 , một thờI gian ngắn dân chủ  bị  một đảo chánh quân sự chấm dứt  và nền kinh tế Thái Lan  vươn lên. Dân Thái xem thời gian 1947 - 1951 là một thời kỳ thịnh vượng . Tháng tư 1948 , nhóm đảo chánh đưa thống chế Luang Phibul songkram về lại giữ chức thủ tướng. Hầu giữ vững quyền hành khi tranh chấp với các đàn em,  Phibul songkram   khởi sự một chiến dịch chống cọng và tìm kiếm sự hổ trợ của Hoa Kỳ. Thành quả là  từ 1950 trở đi, Thái Lan nhận viện trợ quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ . Chánh phủ  Phibulsongkram   thiết lập  nhiều  xí nghiệp  quốc doanh  và được xem là áp dụng  một chủ nghĩa quốc gia kinh tế - economic nationalism.  Nhà nước và thư lại nước, ngự  trị trên  mọi phân phát tư bản tại vương quốc.  Ammar  Siamwalla, một trong những nhà kinh tế học nổi bật gọi thời kỳ này là “ tư bản thư lại” .


    Thời kỳ 1955 -1985


      Năm 1955,  Thái  Lan bắt đầu  thấy nền kinh tế mình thay đổi,  do các chánh trị quốc tế và nội địa  đổ nhiên liệu vào.  Tranh dành quyền hạn giữa  hai nhóm chánh  chế độ Phibul, do tướng Cảnh sát  Sriyanonda và tướng ( sau đó là thống chế )  Srisdi Dhanajarat  lảnh đạo tăng gia thêm , làm cho Sriyanoda tìm kiếm, không kết quả,  Hoa Kỳ hổ trợ đảo chánh  chống lại chế độ Phibul.  Luang Phibulsongkram  cố tâm dân chủ hóa chế độ mình, tìm kiếm dân gian ủng hộ  phát triễn kinh tế. Một lần nữa, ông quay về phía Hoa Kỳ, yêu cầu viện trợ kinh tế thay vì quân sự. Hoa Kỳ trả lời bằng  cách giúp đở  viện trợ kinh tế lớn lao chưa từng thấy cho vương quốc, từ năm 1955 đến năm 1959.   Chánh phủ Phibulsongkram  cũng làm nhiều thay đổi  các chánh sách thuế khóa đất nước, gồm có việc xóa bỏ hệ thống  hối đóai đa tỉ xuất thay bằng một  hệ thống cố định thống nhất,  vẫn  xài đến năm 1984.  Chánh phủ cũng trung lập hóa thương mãi và điều đình ngọai giao bí mật với Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc , khiến Hoa Kỳ bất mãn. 

     Dù những cố gắng duy trì quyền lực, Luang Phibulsongkram  bị hạ bệ  cùng với  Thống chế Phin  Choonhavan  và  tướng cảnh sát Phao Sriyanonda  ngày 16 tháng 9 năm 1957, do một cuôc đảo chánh thống chế Srisdi Dhanarajata lảnh đạo . Từ năm 1957 đến 1973 , chế độ Srisdi  duy trì đường hướng  chế độ  Phibul  lập ra, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ,  sau khi cắt đứt mọi liên hệ với Trung Quốc  và ủng hộ các  hoạt động Hoa Kỳ ở Đông Dương.  Chế độ Srisdi  phát triễn hạ tầng cơ sở Thái Lan  và tư hửu hóa   các xí nghiệp quốc doanh  không liên quan đến hạ tầng cơ sở . Thời gian này,  một số cơ quan kinh tế được thiết lập  gồm Cục ngân sách,  Cơ Quan  Ủy  ban Phát triễn Quốc Gia  Kinh tế và Xã hội  -  NESDB và Ủy ban   Đầu tư Thái Lan- BOI . Theo  một bá cáo  năm 1967 ở tập san Ngọai giao - Foreign Affairs của  cựu tổng thống Richard Nixon,  Thái Lan  đi vào  một thời kỳ tăng trưởng mau lẹ , tỉ xuất tăng trưởng trung bình  là 7% một năm. 

     Từ thập niên  1970 đến 1984 , Thái Lan đau khổ nhiều về các vấn đề kinh tế : đầu tư  Hoa kỳ gia giảm, thâm thủng ngân sách , giá dầu tăng cao  và lạm phát . Chính trị nội địa  cũng bấp bênh.  Khi Việt Nam chiếm đóng Căm Bốt  ngày 25 tháng chạp năm 1978,  Thái Lan trở thành  tiền đồn  của chiến đấu chống Cọng.  3 quốc gia  Cọng Sản vây quanh ,  cùng một Miến Điện theo chủ nghĩa xã hội của tướng Ne Win. Các chánh phủ kế tiếp nhau ở Thái Lan cố gắng  giải quyết các vần đề kinh tế bằng cách  đề xướng xuất khẩu và du lịch,  vẫn  còn quan trọng ở nền kinh tế xứ sở. Một trong những  biện pháp biết nhiều nhất  là từ năm 1981 đến năm 1984,  chánh phủ tướng Prem Tinsulanonda  hạ giá  đồng bath  3 lần.  Chánh phủ cũng  thay thế  hối xuất cố định ( đóng chốt  theo đồng đô la Mỹ )  với “ hệ thống  giỏ đóng chốt đa tiền tệ- multiple  currrency basket peg system”  .Trong thời gian 1980- 1984, tỉ xuất  GDP Thái Lan tăng  khỏang 5.4 % một năm.

     Năm 1988 , Chatichai Choonhavan  làm thủ tướng  dân chủ dân bầu lên lần đầu tiên  từ 1976 , thay thế Prem Tinsulanonda từ chức.  Chiến tranh Căm Bốt - Việt Nam chấm dứt, và từ năm 1989 ,  Việt Nam dần dần rút lui,  làm phát triễn kinh tế Thái Lan  mạnh thêm.  Từ năm 1987 đến năm 1996,   phồn thịnh quốc gia  càng  lớn hơn nữa,  nhờ  cải thiện thương mãi ngọai quốc và đầu tư trực tiếp ngọai quốc ,chánh yếu là Nhật . Cũng theo IMF,  mức tăng trưởng bình GDP Thái là 9.5% một năm  trong thập niên này, đỉnh cao nhất là13.3 % năm 1988.  Cũng vào thời gian này, thể tích xuất khẩu  hàng hóa và dịch vụ Thái trung bình tăng theo tỉ xuất 14,8 % , đỉnh cao nhất là 26.1 %  năm 1988 .

      Năm 1997 , thủ tướng Yongchaiyudh  dựa  trên Ngân Hàng Quốc gia Thái Lan , chi tiêu   24 ngàn tỉ đô là US , ⅔ dự trữ quốc tế của  Thái  để bảo vệ đồng baht , thay vì  hạ gíá đồng baht.   Ngày   2 tháng 7 năm 1997 , thống đốc ngân hàng quốc gia Thái quyết định thả nổi -  float đồng baht, khởi động cuộc Khủng hỏang  Tài chánh Á châu 1997- Asian Financial Crisis .

     Thời gian 1997- 2006


       Vì ảnh hưởng  khủng hoảng Tài Chánh Á Châu  1997 ,  chỉ trong vòng vài tháng  giá trị đồng baht  trôi nổi  từ điểm  thấp nhất ( 25 bath  một $US )  xuống chỉ còn 56 bath một đô la Mỹ . GDP  trụt  từ  3. 115 ngàn tỉ  bath cuối năm 1996  xuống  2.749  ngàn tỉ bath cuối năm  1998 .  Tính theo đô la, Thái Lan cần 10 năm mới trở lại mức GDP 1996 . Thất nghiệp tăng lên gần gấp ba : từ 1.5 % lực lượng lao động năm 1996 lên đến 4.4%  năm 1998 .  Ảnh hưởng chánh trị  trực tiếp là  thủ tướng   Chavalit Yongchaiyudh  bị áp lực phải từ chức  ngày 6 tháng 11 năm 1997  và  Chuan Leekpai lảnh đảo đối lập  thay thế .  Chánh phủ  Leekpai thứ hai  giữ chức vụ từ tháng 11 năm  1997 đến   tháng hai năm 2001, cố gắng   thực thi các cải cách kinh tế căn cứ trên  chủ nghĩa tư bản  tân tự do  IMF hướng dẫn.  Thủ tướng theo dõi những  chánh sách thuế khóa -fiscal policies  nghiêm khắc  ( giữ lãi xuất cao và cắt bớt chi tiêu chánh phủ ) , thực thi  11 đạo luật  gọi là “ thuốc đắng”  các nhà chỉ trích lại gọi là “ 11 đạo luật bán nước” .  Chánh phủ và các người ủng hộ duy trì các biện pháp này, nhờ vậy mà nền kinh tế Thái cải thiện. 

     Năm 1999, Thái  có một tăng trưởng GDP   dương tính lần đầu tiên kể từ khủng hỏang.  nhưng nhiều nhà chỉ trích lại  cho các biện pháp IMF là không thích nghi  Thái Lan như ở  Châu Mỹ La tinh và Phi Châu . Tỉ xuất tăng trưởng dương tính   là vì GDP  đã  trụt xuống  hai năm liên tiếp , riêng năm 1998  là - 10.5 % .  Một  ảnh hưởng gián tiếp cho khủng hỏang tài chánh ở chánh trị Thái Lan là sự   vươn dậy của  Thaksin Shinawatra.  Phản ứng lại  các chánh sách kinh tế chánh phủ ,  đảng Rak Tai Party của Shinawatra  thấng lợi to lớn  trên đảng Dân Chủ của Leekpai   ở tổng tuyễn cử  2001  và lên nắm quyền  tháng 2 năm 2001. Ở  chánh quyền Thaksin Shinawatra   kỳ nhất , nền kinh tế Thái Lan lấy lại khí thế mệnh danh là Thaksinomics , tỉ xuất tăng trưởng    là 5.3 % năm 2002, 7.1 %  năm 2003 và 6.3 % năm  2004. Tháng 7 năm 2003, Thái Lan hoàn trả  nợ  IMF, hai năm trước thời gian qui định.  Dù Thaksinomics bị chỉ trích,  đảng Thaksin lại  thắng to lớn  một cuộc  tổng tuyễn cử  năm 2005 .  Từ năm  2001 đến năm 2011 , GDP mỗi đầu người  Isan –Miền Đông Bắc Thái    tăng hơn gấp đôi  lên đến 1 475  $%US ;  và trong cùng thời gian , GDP mỗi đầu người Bangkok  tăng từ 7900 $ US  đến 13 000 $US  . Nhắc lại là năm 2000 , GDP mỗi đầu người Sài Gòn - TP HCM 2184 $US,  năm 2010 là 2800 $US và cuối năm 2013 là 4500 $US, gấp đôi  năm 2007 . ( Xem bài Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông, tập I  Theo dõi  Bóng Dáng Quê Hương VN - 2015 ).

      Nhiệm kỳ hai của Thaksin ít thành công hơn. Ngày  26t háng  12 năm 2004,  soóng thần   Ấn Độ Dương xảy ra . Thêm vào tổn thất nhân sự, nó ảnh hưởng  đến  quý đầu GDP  năm 2005  .  Đảng Áo Sơ mi  Vàng- Yellow Shirts. một  tập hợp phản đối chống  Thaksin cũng trổi dậy năm 2005  . Năm 2006 , Thaksin   giải tán Quốc Hội  và kêu gọi tổng tuyễn cử .  Tháng 4 năm 2006 ,  tổng tuyễn củ bị các đảng đối lập   tẩy chay  . Đảng Thaksin lại thắng cử lần nữa, nhưng Tòa Án Hiến Pháp tuyên bố không hiệu lực . Một tổng tuyễn cử khác    dự  trù tháng 10 bị hủy bỏ .  Ngày 19 tháng 9 năm 2006 , một nhóm quân nhân  tự gọi  là Ủy Ban  Cải Cách Dân Chủ    dưới quyền Vương Quốc Hợp Hiến  và  do Sonthi Boonyaratglin lảnh đạo  tổ chức một cuộc  đảo chánh   đuổi Thaksin khi  ông ta còn ở New York , sửa sọan  đọc  diễn văn ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc  . Vào năm cuối của  chánh phủ Thaksin thứ hai, GDP Thái Lan tăng 5.1%.

    Thời gian 2006 - 2011


   Sau cuộc đảo chánh, nền kinh tế TháiLan  bị thiệt hại . Từ  qúy  chót năm 2006 đến  2007 ,  Thủ tướng là tướng Surayud Chulanont do một hội đồng tướng lãnh ông lảnh đạo bổ nhiệm  tháng 10 năm 2006 . Tỉ xuất GDP 2006  tăng chậm dần đi, từ 6.1%, 5.1% rồi  4.8%  trong ba quý đầu mỗi năm rồi chỉ còn 4. 4% vào  qúy thứ tư.  Dự án Thaksin đầu tư  đồ sộ vào hạ tầng cơ sở  không được  nhắc tới , mãi cho đến năm 2011, khi em gái ông là Yingluck  Shinawatra nhậm chức  vụ này.  Năm 2007, nền kinh tế Thái tăng 5 % . Ngày 23 tháng chạp 2007 chánh quyền   quân sự tổ chức tổng tuyễn cử.  Đảng Quyền hạn Nhân dân- People’ s Power Party thân Thaksin  do Samak  Sundaravej lảnh đạo thắng lớn  trên đảng Dân Chủ của  Abhisit  Vejjajiva .            
     Chánh quyền  đảng  Quyền hạn Nhân dân  sa  ngay vào xáo trộn chánh trị . Tình trạng, này phối hợp  với Khủng hỏang thể chế tài chánh Hoa Kỳ  hai quý cuối cùng  năm 2008, cắt giảm tỉ xuất tăng GDP Thái xuống 2.5 %.  Trước khi  Đảng Liên minh Nhân Dân cho Dân Chủ-PAD và đảng Sơ Mi Vàng-Yellow Shirts triệu tập lại tháng ba năm 2008 , GDP tăng   6.5% vào quý đầu năm.  Sơ Mi Vàng    chiếm cứ  Dinh thự Chánh phủ Thái Lan tháng 8 năm 2008   và ngày 9 tháng 9 , Tòan  Án Hiến Pháp Thái ra quyết định  giải tán đảng Quyền Hạn Nhân Dân , đẩy Samak Sundaravej ra  khỏi chức Thủ tướng. 

    Somchai  Wongsawat , em rễ Thaksin  thay thế Samak Sundaravel  ở chức vị Thủ tướng  ngày  18 tháng 9 . Ở Hoa Kỳ  khủng hỏang tài chánh  đạt đỉnh, trong khi  Sơ Mi Vàng vẫn chiếm Dinh thự Chánh Phủ,   khiến họat động chánh phủ ngưng trệ. Tăng trưởng  GDP   trụt từ 5.2 % ở quý  2 năm 2008 , xuống  3.1 % ở quý 3 và - 4.1 % ở quý 4.  Từ 25 tháng 11 đến 3 tháng chạp 2008,  Sơ mi Vàng  phản đối thủ tướng  Somchai Wongsawat , chiếm cứ hai không cảng Bangkok ( là Suvarnabhumi và Don  Mueang ) làm tai hại  cho hình  ảnh và kinh tế Thái Lan.   Ngày 2 tháng 12,  Tòan Án Hiến Pháp   ra quyết định giải tán  đảng Quyền  Hạn Nhân Dân ,  đuổi Somchai  Wongsawat khỏi chức thủ tướng.  

     Vào cuối  năm 2008,  một chánh phủ liên hiệp  do  đảng Dân Chủ Abhisit Vejjajiva   lảnh đạo được thành lập.  Chánh phủ này  bị áp lực  từ  khủng hoảng tài chánh Hoa Kỳ  và đảng Sơ Mi Đỏ  - Red Shirts không chịu công nhận Abhisit Vejjajiva làm thủ tướng   và kêu gọi phải tổng tuyễn cử càng sớm càng tốt.   Tuy nhiên, Abhisit  t ừ chối  kêu gọi,  mãi cho đến khi ông giải  tán Quốc Hội,  để làm một tổng tuyễn cử mới,  tháng 5 năm 2011. Năm  2009,  năm đầu Abhisit nắm chánh quyền,   lần đầu  tiên từ năm 1997 , GDP  Thái Lan tăng trưởng âm tính -2.3 %  .                   

        Năm 2010 , tỉ xuất tăng trưởng xứ sở lên đến 7.8 %.  Tuy nhiên, bất ổn định quanh các  vụ phản đối chánh yếu năm 2010,  tăng trưởng GDP Thái Lan  là  từ 5-5 %, so với  5-7 %  dưới các  trào dân sự, nguyên do can bản  cho suy giảm lòng tin cậy của  các nhà đầu tư và người tiêu thụ .  IMF tiên đóan   là nền kinh tế Thái Lan  sẽ quật khởi  từ mức thấp 0.1 % tăng trưởng GDP  năm 2011 , lên 5.5 % năm 2012  rồi 7.5% năm 2013   nhờ chánh sách điều hòa  tiền tệ   của Ngân Hàng ( Quốc Gia ) Thái Lan  cũng như một gói hàng biện pháp kích thích thuế khóa - fiscal  stimulus package của chánh quyền  tại vị Yingluck Shinawatra. 

     Vào hai quý đầu năm 2011,  khi tình trạng chánh trị tương đối yên tĩnh,  GDP Thái  tăng 3.2 % và 2.7 % .  Ở tổng tuyễn cử  2011,  đảng  thân Thaksin Pheu Thai Party  lần nữa thắng quyết định trên  Đảng Dân Chủ và em gái nhỏ tuổi của Thaksin là Yingluck Shinawatra kế vị Abhisit làm thủ tướng. Bầu lên  tháng 7, đảng  Pheu Thai  khởi sự nắm chính quyền cuối tháng 8  và   khi Yingluck nắm chức vị, năm 2001 lũ lụt đe dọa Thái Lan, từ  25 tháng 7 năm 2011 đến 16 tháng giêng 2012, nước lụt tràn đầy  65 trong số  76 tỉnh xứ sở. Ngân Hàng Thế giới  ước tính tháng12 năm 2011  thiệt hại đến  45. 7tỉ $US (  1 425  ngàn tị baht )  .Tăng trưởng GDP 2011   rơi xuống mức 0.1% , riêng quý thứ tư co lại  mất 8.9 %. 

Yingluck chào Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Nusa Dua, Bali, Indonesia, 18 tháng 11 năm 2011

    Từ 2012 trở  đi


     Năm 2012 Thái Lan phục hồi, sau trận lụt  nặng nề  2011.  Chánh phủ Yingluck qui họach  phát triễn hạ tầng cơ sở , từ hệ thống xử lý  nước dài hạn đến hậu cần.  Khủng hỏang Vùng Âu Châu - Eurozone  tai hại cho tăng trưởng kinh tế Thái Lan năm 2012  gián tiếp hay trực tiếp  cho ngành xuất khẩu . GDP Thái tăng 6.5 %. Ngày 23 tháng chạp năm 2013 ,đồng baht  xuống thấp  nhất trong 3 năm qua , vì bất ổn  chánh trị các tháng trước . Theo tuần san Bloomberg , đồng tiền Thái mất giá  4.6 % trong các tháng 11 và tháng12 . 

    Tiếp theo  cuộc đảo chánh quân sự giữa đầu  năm 2014, cơ quan báo chí AFP tuyên bố là Thái Lan  sắp  sửa lọt vào “ Vòng Giảm sút, Trì trệ - Recession”.  Đăng tải 17 tháng 6 năm 2014,  đề tài chánh bài báo  là sự ra đi của 180 000 dân Căm Bốt khỏi Thái Lan , lo sợ một “ tăng cường kiểm tra - clamp down “   ,nhưng lại kết thúc  là kinh tế Thái Lan co rút lại 2.1 % từ tháng giêng  đến cuối tháng 3 năm  2014. Kể từ khi chấm dứt thiết quân luật,  giới quân sự thục thi vào tháng 5 năm 2014, Supant Mongkolsuthree,   Chủ  tịch Hiệp Hội Công nghệ  Thái  nói rằng ông tiên liệu  nền kinh tế Thái  tăng 2.5 - 3% năm 2014 , cũng như tái sinh cường  ngành  du lịch Thái giữa năm 2014   ...   

   Ý niệm về công nghệ chế tạo Thái Lan .


    Chúng ta đã biết sơ qua ở các trang kể trên về công  nghệ dầu lữa và khí dầu Thái Lan cũng như sản xuất tiêu  thụ than đá, khai thác quặng mỏ ...   Lảnh vực  phụ quan trọng nhất là chế tạo- manufacturing , chiếm đến 34.5 % GDP năm 2004
     

    Điện tử


    Điện tử - Electronics  là ngành xuất khẩu lớn nhất Thái Lan, chiếm15% tổng số xuất khẩu.  Năm 2009 , xuất khẩu điện tử tổng cọng là 33 tỉ $US.  Thái Lan là  nước đứng hàng thứ hai  chế tạo ổ đĩa cứng- hard  disk drives, HDD , sau Trung Quốc  với các công ty lớn  Western Digital   và Seagate Technology. 


  Nhưng có  nhiều vấn đề thấp thóang mập mờ trong con gà ( ngỗng ) đẻ trứng vàng  - golden goose  cao kỷ này . Tháng giêng năm 2015,  chỉ số chế tạo  Thái Lan trụt xuống   sau 12 tháng liên tiếp, với các sản phẩm  như ti vi và rađiô  mất đi  38 % một năm.  Các hảng chế tạo chuyễn sang các quốc gia khác  có gía nhân công lao động rẽ hơn Thái Lan . Tháng tư năm 2015,  sản xuất ngưng hẳn ở xưởng  LG Electronics  tại tỉnh Ranong.  Sản xuất dời qua Việt Nam, nơi  giá nhân công mỗi giờ là 6.35 $US so với  9.14 $US ở Thái Lan .  Hãng Samsung Electronics Co.Ltd  cũng  đưa về Việt Nam  hai  xưởng máy lớn  điện thọai thông minh - smart phones .  Hảng này cam kết đầu tư  11 tỉ $US  cho nền kinh tế Viêt Nam  năm 2014.  Khi kỷ thuật tiến trào, tỉ như khi HDD  vì các ổ cứng thể đặc solid state drives, SSD thay thế, các nhà chế tạo đều xét lại  nơi nào sản xuất tốt nhất những kỷ thuật mới nhất.

       Xe hơi           


 Năm    Đơn vị    Cho nội địa  Cho xuất khẩu  Trị giá ( tỉ baht ) tỉ xuất( GDP
      2005  1 125 316       690 409    434 907           203 025             2.86 %
      2006  1 188 044       646 838    541 206           240 764             3. 07%
      2007   1 287 379      598 287    589 092           306 595             3.88%
      2008   1 394  029     610 317    783 712           351 326              3. 87%
      2009    999 378      447 318       552 060           251 342              2.79 %
      2010    1 645 304    750  614     894 690          404 659               4.00%
      2011    1 457  795    723 845     733  950         343 383                3.26%
      2012     2 453 717   1 432 052   1021 665        490 134               4. 31 %
      2 013    2 457 086    1 335 783  1121 303        512 186               4,30%
      2014     1 880 007     757 853    1 122 154        527 423         không biết
                                     ( Theo Hiệp Hội Công Nghệ Thái )


    Thái Lan đã trở thành  một trung tâm chế tạo  xe ô tô  cho  Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á - ASEAN.  Năm  2004 , sản xuất  xe hơi  đã lên đến  930 000 đơn vị (chiếc ), gấp đôi  năm 2001. Toyota và Ford  rất tích  cực ở Thái Lan và việc mở rộng  ngành công nghệ xe hơi  đã làm tăng gia mức sản xuất thép trong nước.

      Ý niệm về Du lịch 

 


      Du lịch góp phần  đáng kể  vào nền kinh tế Thái Lan và ngành này phát triễn  nhờ đồng baht hạ giá va tình thế  chánh trị nội đia Thái  Lan tương đối ổn định. Năm 2002 đã có 10.9 trIệu du khách đến Thái Lan,  tăng 7.3% so với năm 2001, có 10.1  triệu .  Năm  2007 có khỏang 14 triệu  du khách viếng Thái Lan .  Con số 14 triệu vẫn giữ vững trong các năm 2008 , 2009 .Lảnh vực  du lịch Thái gồm luôn cả  công nghệ dục tình - sex industry , dù làm đĩ - điếm-  prostitution là bất hợp pháp ở Thái Lan.  Phần du lịch  góp  vào  kinh tế Thái Lan  là 8.5 % GDP , lớn hơn bất cứ một quốc gia Á Châu nào khác . Du khách đến viếng Thái Lan theo nhiều  lý do, nhưng cơ bản là tiêu khiển, nghĩ mát ... ở các bải biển Thái.  Vì tình trạng mất an ninh ở miền cực Nam , những năm gần đây,  du khách  tăng thêm  nhiều ở Bangkok. Nhắc lại là năm 2000 , chỉ mới có 2 140 100 du khách  ngọai quốc đến Việt Nam  và năm 2013   đạt 7 572 352  du khách . (  xem bài thủ đô Hà Nội ở tập I , tập san Theo dõi Bóng Dáng  … - 2015 ) nghĩa là chỉ phân nữa du khách đến Thái Lan  từ năm 2007,  như kể trên ….


              ( Irvine , Nam Ca Li,  ngày 31  tháng 7 năm 2015 ) 

                                   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét