Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015

10 Kỹ Thuật Trổi Dậy Chóp Bu



Kỹ thuật cao kỷ ở Việt Nam đã làm được mấy phần :
          
10 Kỹ Thuật Trổi Dậy Chóp Bu Thế Giới Năm 2015     

                                               G S Tôn Thất Trình

Xe chạy tế bào nhiên liệu bằng điện hay bằng hydrocarbon

      Sau đây là một tiểu luận  của Bernard Meyerson , chánh chuyên viên sáng kiến của IBM  và là chủ tịch  của Meta Council thuộc Diễn Đàn   Kinh tế Thế giới - WWF tháng 3 năm 2015. 

      Kỹ thuật có lẽ là tác nhân lớn nhất  cho thay đổi trên  thế giới cận đại .Dù luôn luôn có  nguy hiểm, các  chọc thủng kỷ thuật  hứa hẹn những  giải pháp  cho  những thách thức tòan cầu cấp bách nhất thời đại chúng ta .  Từ các xe hơi phát thải -zêrô chạy nhiên liệu hydrogen  đến các chips computer lấy bộ óc người làm kiểu mẩu, năm 2015,  danh sách 10 Kỷ  thuật Trổi dậy Chóp bu, một tài liệu hàng năm  của Meta Council - WWF,  cống hiến một thóang nhìn sống động  về uy lực của sáng kiến để cải thiện đời sống , biến đổi các công nghệ  và bảo vệ hành tinh chúng ta. Thu thập làm ra danh sách này là một pan nen  gồm 18 chuyên viên, dùng những  chuyên nghiệp tập thể của rất nhiều cộng đồng ở Diễn Đàn  để xác định  các khuynh hướng  kỷ thuật quan trọng nhất .  Làm như vậy, Meta Council   nhắm vào việc  nâng cao thêm hiểu biết  tiềm năng chúng và góp phần  lấp lổ trống  cho đầu tư, điều hòa và hiểu biết  công cọng  thường ngăn cản tiến bộ .

     1 - Xe chạy  tế bào nhiên liệu- fuel cell vehicles 


       Đó là  các xe phát thải - zêrô chạy hydrogen.  Xe chạy tế bào nhiên liệu  từ lâu đã hứa hẹn  nhiều ưu điểm  chánh yếu trên các xe chạy điện hay chạy hydrocarbons . Kỹ thuật chỉ ngày nay mới bắt đầu đến  giai đọan  các công ty ô tô  đang dự tính  tung lên cho các nhà tiêu thụ. Giá cả thọat tiên khoaảng 70 000 $ , nhưng sẽ gia giảm đáng kể khi mức bán xe  tăng gia trong vòng hai năm tới .  

    Khác các bình điện, phải sạc lại  từ một nguồn ngọai, mất  từ 5 đến 12 giờ,  tùy theo xe và ổ nạp điện , các tế bào nhiên lliệu tạo ra điện trực tiếp, dùng hydrogen hay khí dầu thiên nhiên.  Trên thực tế, các tế bào điện được phối hợp  với tế bào nhiên liệu tạo ra điện và các bình điện tồn trử điện cho đến khi các motor cần dùng  chạy xe . Các xe tế bào nhiên liệu  như vậy phải là các xe lai hybrids  và sẽ  tự động  dàn trải đạp thắng (phanh  xe ) thu hồi năng lượng  từ nhiệt lượng phế thải, một khả năng then chốt tối đa hóa hửu hiệu và số dặm chạy được. 

    Khác các xe  chạy điện bằng bình điện, các xe tế bào nhiên liệu  chạy những xe có mức  lái dạo dài , đến 650 km cho mỗi “ thùng chứa” ( nhiên liệu  thường  là khí hydrogen được ép nén ) ; một đổ  lại nhiên liệu  chỉ cần khỏang 3 phút. Hydrogen đốt cháy rất sạch, sản xuất ra chỉ hơi nước mà thôi ; thế cho nên các xe nhiên liệu tế bào  sử dụng hydrogen  là xe phát thải - zêrô, một thừa tố  quan trọng, vì chưng chúng ta cần giảm bớt  ô nhiễm không khí . 

   Có một số phương cách sản xuất hydrogen  mà không tạo ra các phát thải carbon. Rỏ rệt nhất là các nguồn tái sinh điện từ gió hay  nguồn mặt trời, có thể dùng để  điện phân nước, dù rằng mức hửu hiệu tổng quát  tiến trình này thật quá thấp.  Hydrogen cũng có thể tách rời  từ nước ra  ở các lò phản ứng  hạt nhân nhiệt độ cao hay phát ra từ các nhiên liệu hóa thạch,  tỉ như than đá  hay khí dầu thiên nhiên, với thành quả là carbon dioxide  chụp bắt hay rút khỏi, thay vì giải tỏa vào  khí quyển. 

   Cũng như  sản xuất hydrogen rẽ tiền trên kích thước đại trà, một thách thức đáng kể là  thiếu cơ cấu phân phối  hydrogen cần thiết để sánh ngang  và  khi nào đó thay thế các trạm  đổ xăng và diesel . Chuyên chở  hydrogen đi xa, ngay cả  khi ở tình trạng nén ép, ngày nay không được xem là rẽ tiền - đúng phép kinh tế. Các kỷ thuật tồn trữ  hydrogen sáng kiến, tuy nhiên, sẽ mai đây hạ thấp phí tổn chuyên chở xa  và dễ dàng  làm bớt các hiểm nguy liên hệ đến tồn trữ khí và giải tỏa vô ý.

  Các xe chạy tế bào nhiên liệu  bán đại trà là một viễn cảnh hấp dẫn,  vì chúng cung cấp  một rặng dài   và thuận tiện đổ  nhiên liệu ngay nay cho các xe   chạy  diesel và khí dầu, trong khi đó cũng  cung cấp lợi lộc   tính cách vững bền của  chuyên chở cá nhân. Tuy nhiên, các lợi lộc này  đòi hỏi  một  sản xuất  đáng tin cậy và đúng kinh tế  của hydrogen  từ các nguồn  hòan tòan  carbon thấp, cũng như  phân phối   hydrogen cho một đám xe  đang tăng trưởng là hàng triệu xe, thập niên tới .

    2 - Thế hệ kế tiếp khoa học rô bốt- robotics ( Lăn ra xa  từ các đường dây sản xuất )  

  Tưởng tượng phổ thông từ lâu đã nhin thấy trước là  một thế giới nơi đó rô bốt sẽ thay thế con người ở nhiệm vụ hằng ngày . Tương lai khoa học rôbốt này  đã cứng đầu  từ chối cụ thể hóa, tuy nhiên, với rô bốt vẫn giới hạn  trong các đường dây ráp máy  ở xưởng và các nhiệm vụ kiểm soát. Dù rằng dùng nhiều ( chẳng hạn ở ngành  công nghệ ô tô ), những rô bốt này  to lớn và nguy hiểm  cho con người cùng làm việc; cho nên phải  chia lìa nhau bằng những lồng an tòan.  

  Tiến bộ ở ngành kỷ thuật khoa học rôbốt  làm việc hợp tác  con người và máy móc  là một thực thể cho mọi ngày. Các máy dò - sensors tốt hơn và rẽ hơn  làm cho một rôbốt  có nhiều khả năng hơn, để “ hiểu” và trả lời cho môi trường  mình. Thân thể rôbốt đã trở thành  thích nghi và mềm dẽo, khi các nhà họa kiểu  lấy cảm hứng từ các nhanh nhẹn và mềm dẻo lạ thường của các cấu tạo sinh học phức tạp, tỉ như bàn tay con người. Và rôbốt cũng trở nên nối kết hơn, tìm ra lợi  lộc từ  cuộc cách mạng làm computer đám mây - cloud computer bằng cách đủ khả năng  đì vào các chỉ dẫn  và thông tin từ xa, thay vì buộc phải làm lập trình  như thể là một đơn vị hòan tòan tự trị.

  Thời đại mới ngành khoa học rôbốt  đem những máy móc này ra xa  khỏi các đường dây chế tạo to lớn  ráp máy  đến một lọat nhiệm vụ rất rộng rải.  Dùng kỷ thuật GPS, giống  y hệt các  điện thọai thông minh, rôbốt đã bắt đầu được sử dụng ở nông nghiệp chính xác diệt trừ cỏ dại và thu hoạch. Ở Nhật rôbốt đã được thử nghiệm  làm các vai trò nuôi nấng, điều dưỡng.  Chúng giúp bệnh nhân  ra khỏi giường, chẳng hạn, và hổ trợ các nạn nhân bại liệt  vì tim ngưng  đập kiểm sóat lại đựợc tay chân. Các rôbốt nhỏ hơn và khéo léo  hơn như Dexter Bot, Baxter và LBR iiwA , được họa kiểu  để có thể làm lập trình dễ dàng và thi hành những nhiệm vụ chế tạo  khó nhọc , không  thuận tiện cho các con người làm lao động.

  Thật vậy, rôbốt là lý tưởng  cho những nhiệm vụ qúa ư lập đi lập lại và nguy hiểm  cho con người phải thực hiện,  và có thể họat động  24 giờ một ngày với phí tổn thấp hơn  các người lao động.  Thật sự, các máy móc  rôbốt thế hệ  mới, chắc sẽ hợp tác  với con người thay vì thay thế  con người . Ngay cả khi xét đến các tiên tiến về họa kiểu  và  thông minh nhân tạo, liên hệ con người và  giám sát vẫn  là cần thiết . 

 Hiểm nguy  vẫn duy trì  là rôbốt có cơ  đuổi con người ra khỏi công việc làm, dù những làn sóng  trước đây của tự động hóa  đã có khuynh hướng đưa tới  hiệu năng và tăng trưởng cao hơn, đem lợi lộc cho  suốt nền kinh tế.  Những  lo sợ  xưa cũ đã mấy chục năm  của các rôbốt  theo mạng lưới  thoát khỏi kiểm soát, trở thành nổi bật hơn, vì chưng rôbôt thế hệ kế tiếp được nối vào trang Web, nhưng cùng lúc chúng sẽ trở nên quen thuộc hơn, khi dân gian  dùng những rôbốt nội địa làm những công việc gia thất hằng ngày buồn chán.  Tuy nhiên, không nghi ngờ gì nữa  là thế hệ  rôbốt  kế tiếp  đặt ra những vấn đề  mới mẽ về liên quan giữa con người và máy móc .

    3- Các nhựa dẽo -plastics  phản ứng  nhiệt tái chu kỳ  ( một lọai chất nhựa dẽo bớt  phế thải phải đổ vào nơi đổ rác)


    Nhựa dẽo chia ra làm nhựa dẽo nóng - thermoplastics nhựa dẽo  phản ứng nhiệt - thermoset plastics . Nhựa dẽo nóng  có thể hâm nóng lên và  làm thành dạng nhiều lần  và  có mặt khắp nơi trên thế giới cận đại  gồm mọi thứ từ đồ chơi trẻ em  đến chỗ ngồi nhà vệ sinh. Vì chúng có thể nung chảy và làm lại hình dáng, nhựa dẽ nóng  thường tái  chu kỳ lại được . Ngược lại, nhựa dẽo phản ứng  nhiệt  chỉ có thể hâm nóng và làm lại hình dáng một lần thôi , sau đó các thay đổi  phân tử  có nghĩa là chúng đã  “ điều trị - cured” , giữ lại hình dáng chúng  và sức mạnh .ngay cả khi chúng bị hâm nóng và nhận áp lực  gay gắt . 

    Nhựa dẽo phản  ứng nhiệt  nhờ bền bĩ  là một thành phần khẩn thiết thế giới cận đại chúng ta.  Chúng được sử dụng ở mọi thứ, từ các điện thọai di động và các bảng mạch vòng đến  ngành công nghệ  không gian . Nhưng chính những đặc tính đã làm  chúng cần thiết  cho chế tạo cận đại, cũng làm chúng không thể nào tái chu kỳ lại được nữa .Thành quả là  đa số polymers phản ứng nhiệt  cuối cùng phải đổ vào các nơi  đổ -hứng rác . Vì mục tiêu cuối cùng  của bền bỉ, nhựa dẽo phản ứng nhiệt  từ lâu  đã bị khẩn thiết phải tái chu kỳ lại.

   Năm 2014, các tiên tiến cực trọng  đã được làm trong lảnh vực này, với sự xuất bản cột mốc  ở tuần báo Khoa học -Science , tuyên bố khám phá  ra một hạng mới  polymers  phản ứng  nhiệt  có thể tái chu kỳ. Tên gọi là poly hexahydrotriazines hay PHT’s,  có thể hòa tan  trong acid  mạnh, bẻ gãy  các dây chuyền polymers thành những thành phần monomers  có cơ tái ráp lại thành những sản phẩm mới.  Tương tự các nhựa dẽo  phản ứng nhiệt truyền thống  không tái chu kỳ được, những cơ cấu mới này rất  cứng nhắc, kháng lại nhiệt lượng và rất dai bền, có những ứng dụng tiềm  thế các  nhựa dẽo không tái chu kỳ được trước chúng . 

 Dù không có tái chu kỳ nào lại hửu hiệu 100%, sáng kiến, nếu dàn trải rộng rải,  sẽ tăng tốc độ di chuyễn tới một kinh tế vòng tròn, với  một gia giảm to lớn phế thải đổ rác từ nhựa dẽo, Chúng ta chờ đợi  các polymers phản ứng nhiệt   tái chu kỳ  thay thế các nhựa dẽo  phản ứng nhiệt không tái chu kỳ được trong vòng 5 năm tới , có cơ có mặt khắp nơi  ở các hàng hóa chế tạo năm 2025.


      4-  Các kỹ thuật công nghệ di truyền  chính xác ( một chọc thủng cống hiến mùa màng tốt hơn, ít tranh cải hơn).

       
Công nghệ di truyền - genetic engineering  qui ước  từ lâu đã gây ra tranh cải. Nay những kỷ thuật mới đang trổi dậy giúp chúng ta “ biên tập - edit” mã số di truyền cây cối  làm chúng có , chẳnng hạn dinh dưỡng nhiều hơn  và chống trả tốt hơn với khí hậu đổi thay.  Chúng ta tin tưởng là các lợi lộc và sự chính xác về “ biên tập “ có thể   làm tránh khỏi  các  thắc mắc liên hệ, đưa tới chấp nhận rộng rải hơn. 

    Hiện nay, công nghệ di truyền các  mùa màng  dựa trên  vi khuẩn agrobacterium tumefaciens , chuyễn  đạt các DNA mong muốn vào trong hệ gen mục tiêu. Kỷ thuật này được  chứng minh và  đáng tin cậy  và dù  lo sợ công cọng tràn lan,  có một nhất trí ở cộng đồng khoa học  là các   sinh vật biến đổi di truyền  sử dụng kỷ thuật này  cũng không nguy hiểm gì hơn là  biến đổi chúng theo ( lai ) tuyễn chọn  di truyền  qui ước cả. Khi agrobacterium  ích lợi,  những kỷ thuật  chính xác hơn và biên tập  nhiều hệ gen đã  được phát triễn thêm những năm gần đây .   
   Gồm có ZFNs, TALENs và mới đây là  hệ thống CRISPR - Cas9 system,làm tiến trào ở vi khuẩn, như thể  một cơ chế bảo vệ chống lại virus . CRISPR - Cas9 dùng một phân tử RNA  nhắm mục tiêu DNA,   cắt xén  thành những trình tự  đã biết , người sử dụng lụa chọn  ở trong hệ gen mục tiêu.  Khả năng này  có thể làm bị thương một gen(e)  không muốn hay  làm biến đổi nó  theo một phương cách  có  chúcc năng không phân biệt nổi với một đột biến thiên nhiên.  Sử dụng  “ tái phối hợp tương đồng , đồng đẳng - homologous recombination “   CRISPR  có thể dùng để nhét những trình tự DNA mới   hay cả tòan thể gen( es )  vào hệ gen một cách chính xác . 

   Một khía cạnh khác của công nghệ di truyền tuồng như xếp đặt cho một tiên tiến chánh yếu là dùng sự nhiễu , gây trở ngại- interference RNA (RNAi )  ở mùa màng. RNAi rất hửu hiệu chống virus và các mầm bệnh  nấm khuẩn- fungal  và cũng có thể bảo vệ cây cối  chống các dịch bệnh côn trùng  , giảm bớt cần  thiết  phải dùng  hóa chất diệt trừ  sâu . Các gen (es) virus đã được dùng để bảo vệ   các cây đu đủ  chống lại  virus đốm vòng - ring spot virus , chẳng hạn, với không có dấu hiệu nào  đối kháng tiến trào  trong hơn một chục năm  dùng ở Hawaii . RNAi cũng có thể có ích  cho các cây trồng làm thực phẩm chánh yếu  bảo vệ lúa mì  chống lại bệnh rĩ  thân - stem virus , lúa gạo chống lại bệnh cháy lá - blast và khoai tây chống lại bệnh  chết rụi -blight , và chuối ăn chống lại bệnh héo rủ - fusarium wilt .
 
  Rất nhiều sáng kiến này đặc biệt ích lợi cho các nhà trồng trọt nhỏ bé ở các nước chậm tiến, đang mở mang.  Như vậy, công nghệ di truyền có thể trở nên ít  tranh cải hơn, khi dân gian  nhận thức  mức công hiệu của chúng,  hầu bổ sung lợi tức họ và cải thiện chế độ ăn uống cho hàng triệu người .Hơn nữa,  biên tập hệ gen chính xác hơn  có  thể  làm dân gian bớt lo sợ đi, đặc biệt  nếu thành qủa cây  cối hay động vật  không bị liệt vào  chuyễn gen - transgenic, vì không có  một chất liệu  di truyền  ngọai quốc nào được dẫn nhập . 

  Nói chung lại,  những kỷ thuật này hứa hẹn  làm bền vững thêm  tiên tiến nông nghiệp bằng cách giảm bớt dùng ngọai vật ở nhiều lảnh vực, từ nước và đất đai chí đến phân bón hóa học, trong khi vẫn giúp mùa màng thích nghi với thay đổi khí hậu.               

   5 -  Chế tạo cọng thêm ( tương lai  làm nhiều thứ, từ các bộ phận in được đến áo quần thông minh )


     
Như tên  gọi gợi ý, chế tạo cọng thêm- additive manufacturing  là đối nghịch với  chế tạo trừ đi . Chế tạo trừ đi  là cách  chế tạo   đã làm truyền thống :  các lớp bị trừ đi, hay lấy ra khỏi một mảnh vật liệu lớn hơn ( gỗ, kim khí ,đá … )  để lại hình dáng mong muốn.  Chế tạo cọng thêm khởi sự từ vật liệu  lỏng lẻo , chất lỏng hay bột,  rồi xây đắp lên thành hình  dáng 3-D ( chiều ) dùng một khâu mẩu - template  kỷ thuật số- digital, một lớp một lúc .

    Các sản  phẩm 3 chiều có thể  do người dùng  đặt hàng cao  , khác hẳn các  hàng hóa  sản xuất đại trà - số lượng lớn.  Một thí dụ là công ty Invisalign, dùng hình ảnh computer các răng người tiêu thụ , làm ra những vật chỉnh răng - braces   gần như không nhìn thấy được, may theo mồm (miệng ) họ . Các áp dụng y khoa khác  là dùng  cách in 3 chiều  theo một hướng  sinh học hơn : các máy móc  có thể  in tế bào người  trực tiếp , như vậy làm ra  những mô  sống động, có cơ  tìm thấy áp dụng tiềm thế  ở sàng lọc  an tòan thuốc men  và cuối cùng ra sửa chửa  và tái tạo mô - tissues . Một thí dụ  sớm cho cách in sinh học này là in các lớp tế bào   gan của hảng Organovo, đã nhắm vào thử nghiệm thuốc men và có cơ  được sử dụng tạo ra các bộ phận đem cấy. In sinh học  đã được sử dụng  làm ra da và xương  cũng như tim và mô mạch máu, cống hiến tiềm năng to lớn  trong ngành y khoa  cá nhân tương lai.
 
 Một giai đọan kế tiếp quan trọng ở chế tạo cọng thêm  sẽ là in 3-D  của các thành phần điện tử hội nhập  tỉ như các bảng mạch vòng.  Các bộ phận  computer kích thước nanô  tỉ như các vi xử lý - processors, rất khó  chế tạo cách này, vì những  thách thức của  các thành phần phối hợp điện tử với  các thành phần  khác, làm ra từ các vật liệu  đa phương khác nhau.  Ở các cách in  4- D  các vùng khác,  nay lại hứa hẹn  đem tới một thế hệ mới sản phẩm  có thể tự mình thay đổi  phản ứng theo các đổi thay môi trường, tỉ như nhiệt lượng - heat và ẩm độ. Điểm này có thể  ích lợi cho áo quần và giày dép, chẳng hạn , cũng như  cho các sản phẩm săn sóc sức khỏe, tỉ như  các bộ phận cấy - implants  họa kiểu  để thay thế thân thể con người .  
    
  Y như phân phối chế tạo, chế tạo cọng thêm  có tiềm năng  làm gián đọan nhiều  cho các tiến trình  qui ước  và các  dây chuyền cung cấp. Nhưng ngày nay, chúng vẫn còn là một kỷ thuật mới sinh, làm những ứng dụng  chánh tại các khu vực ô tô,  không gian  và y khoa.  Có thể chờ đợi  tăng trưởng mau lẹ vào thập niên tới,  khi nhiều cơ hội  trổi dậy và sáng kiến ở ngành kỷ thuật này  đem tới  gần hơn thị trường đại trà, khối lượng.

    6-    Thông minh nhân tạo trổi dậy   ( Vậy cái gì sẽ  xảy ra  khi một máy computer có thể học hỏi lúc làm việc ? )


    Thông minh nhân tạo - Artificial intelligence , AI, theo những từ ngữ đơn giản  là ngành khoa học  computer  làm những gì dân gian, con người có thể làm. Trong những năm vừa, AI đã tiến triễn đáng kể : đa số chúng ta   nay đã dùng điện thọai thông minh  có thể nhận ra diễn văn con người  hay đã du hành xuyên qua  một một hàng nối đuôi nhau  di cư ở phi trường sử dụng  kỷ thuật  nhận diện hình ảnh.  Xe hơi tự lái  hay máy bay vo ve - drone  bay tự động nay ở giai đọan thử nghiệm  trước khi được dùng rộng rải, và trên vài nhiệm vụ học hỏi hay  bộ nhớ, ngày nay máy móc đã  thực hành tốt hơn người. Watson, một hệ thống  computer thông minh nhân tạo, đã thắng những thí sinh người  giỏi  nhất ở trò chơi quyzờ - trả lời những câu hỏi  Jeopardy - Nguy cơ  hiểm nghèo .

  Thông minh nhân tạo, đối nghịch với phần cứng và phần mềm bình thường, giúp cho một máy móc  nhận thức và trả lời  môi trường đổi thay. AI trổi dậy là bước tiến xa hơn nữa, với tiến bộ  nẩy lên  từ các máy, học tự động bằng cách tiếp thu  những thể tích thông tin to lớn. Một thí dụ là NELL,  một dự án  Học Ngôn ngữ   Không bao giờ Chấm dứt - the Never -Ending Language Learning của Viện Đại học Carnegie Mellon, một hệ thống computer, không những chỉ  đọc các sự kiện  bằng cách  bò lăn xuyên qua  hàng trăm triệu trang Web, mà còn cố gắng cải thiện năng lực đọc và hiểu biết của mình theo tiến trình, hầu làm tốt hơn trong tương lai. 

  Tương tự thế hệ  kế tíếp khoa học rôbôtics , AI cải thiện sẽ dẫn tới  tiên tiến hiệu năng đáng kể, khi máy móc thay thế các nhiệm vụ con người, và ngay cả họat động tốt đẹp  hơn. Những chứng cớ đáng kể,  gợi ý rằng  các xe tự lái lấy  sẽ giảm  bớt tần số xe đụng và tránh chết chóc,  bị thương ở các chuyên chở đường  xá, vì lẽ các máy móc tránh  được các sai lầm con người, giảm sút chú ý và  nhìn sai sót, trong số  những  lầm lẫn  khác. Các máy móc thông minh, đi vào mau lẹ hơn  các nơI  tồn trữ thông tin lớn hơn  và khả năng trả lời  không chứa  các  lệch nghiêng xúc động con người, cũng có thể  họat động tốt hơn  là các chuyên nghiệp y khoa  để chẩn đoán bệnh tật . Nay hệ thống Watson  đã được dàn trải ở khoa ung thư để hổ trợ  các lựa chọn chửa trị căn cứ trên các chứng cớ  chẩn đóan và cá nhân hóa  cho các bệnh nhân ung thư. AI, đã lâu ngày được xem là những cơn ác mộng  khoa học giả tưởng- Sci-fi  lọan dưỡng, nay đưa đến với các hiểm nguy, rỏ rệt nhất  là các máy móc siêu thông minh ngày nào đó  trội  hẳn và  biến con người  thành nô lệ . Hiểm nguy này, tuy nhiên, còn xa vời cả mấy chục năm nữa, và được các chuyên viên  mỗi ngày mỗi  chú tâm thêm; nhiều chuyên viên đã ký một  bức thư  mở ngỏ do Viện  Tương lai  Đời sống  phối hợp,  tháng giêng năm 2015, nhắm hướng tương lai AI  ra  xa khỏi các  cạm bẩy tiềm thế . Nói buôn tẻ hơn, các thay đổi kinh tế  do các computer  thông mình  thay thế lao động người, có cơ làm gia tăng quá xá   bất bình đẳng xã hội  và đe dọa công ăn việc làm hiện tại . Chảng hạn, các drones tự động co thể  thay thế các tài  xế con người giao hàng hóa  và các xe  tự lái và thuê ngắn hạn có thể làn tài xế tắc xi quá thừa  mứa . 

     Mắt khác,  AI trổi dậy  có thể chiếm các đặc trưng  vẫn còn là đặc hửu con người: sáng tạo, xúc động, liên hệ  giữa các cá nhân . Khi máy móc  tăng thêm ở thông minh con người, kỷ thuật này  sẽ càng thách thức thêm cái nhìn của chúng ta  về điều con người, cũng như các hiểm nguy và lợi lộc làm ra, do việc lấp mau lẹ lổ trống  giữa con người và máy móc.

       7- Phân phối chế tạo  ( xưởng máy tương lai nay nằm trên đường dây -online và ngay ngưỡng cửa nhà bạn )


      Phân phối chế tạo quay đầu lại  về cách nào chúng ta làm ra và giao hàng sản phẩm. Ở  chế tạo truyền thống ,các vật liệu thô hào  được đem tới cùng nhau, ráp lại và chế tạo ra ở những xưởng máy  trung ương to lớn thành những sản phẩm hòan tất  y hệt nhau,  rồi gửi tới  các nhà tiêu thụ. Ở ngành  phân phối chế tạo, các vật liệu thô hào  và các phương thức chế tạo được phân tán và sản phẩm hòan tất được chế tạo ra rất gần kề nhà tiêu thụ cuối cùng .

    Theo bản chất, ý kiến là  thay thế càng nhiều , nếu có thể được,  dây chuyền cung cấp vật liệu với thông tin kỷ thuật số. Chẳng hạn, muốn chế tạo một ghế ngồi, thay vì  tìm nguồn gỗ  và biến gỗ  thành ghế ở một  xưởng trung ương, các kế  họach kỷ thuật số để cắt  ra thành các thành phần ghế  có thể phân phối cho các điểm trọng tâm chế tạo địa phương, sử dụng các dụng cụ cắt xẽ  gỗ computer hóa tên là các bào xoi - router  CNC. Các thành phần có thể  là những nhà tiêu thụ hay nhà  xưởng chế tạo địa phương đem ráp lại, biến chúng thành những sản phẩm hòan tất. Một công ty đã sử dụng mô hình này  là hảng bàn ghế Hoa Kỳ  AtFAB ,  

  Sử dụng hiện nay của  chế tạo phân phối dựa nặng nề vào phong trào “Tự Làm Lấy- Do It yourself , DIY”, trong đó các tay nồng nhiệt  dùng các máy in 3-D địa phương của mình và làm ra các sản phẩm  từ các vật liệu địa phương. Có những yếu tố  suy nghĩ nguồn mở ( ngõ ) open -source  ở đây, trong vụ các nhà tiêu thụ có thể  đặt hàng  sản phẩm theo nhu cầu và thích thú của mình. Thay vì bị thúc đẩy trung ương, yếu tố  họa kiểu sáng tạo có thể là  nguồn quần chúng - crowdsource; sản phẩm có thể có tính cách  tiến trào, khi nhiều người  liên hệ đến  theo tầm nhìn và sản xuất chúng. 

  Chế tạo phân phối  còn chờ đợi  gíúp  dùng những tài nguyên  hửu hiệu hơn, với ít khả năng phế thải hơn là ở các xưởng máy trung ương. Nó cũng hạ bớt rào cản  đì vào thị trường bằng cách  gia giảm  số lượng tư bản cần  thiết để  dựng lên họa kiểu và sản phẩm đầu tiên.  Quan trọng là  nó sẽ giảm bớt ảnh hưởng tổng quát  trên môi trường  chế tạo: thông tin kỷ thuật số  được chuyền tới khắp trang Web, thay vì là  các sản phẩm vật lý học qua đường bộ,  xe lữa  (  tàu hỏa ) hay nước ; và vật  liệu thô hào (nguyên liệu )  lấy nguồn địa phương, làm giảm đi  xa hơn nữa , số năng lượng chuyên chở đòi hỏi.   

    Nếu vụ này lan tràn hơn, chế tạo phân phối  sẽ làm gián đọan  các thị trường lao động truyền thống  và kinh tế của chế tạo truyền thống. Nó có cơ đặt ra hiểm nguy : rất có thể khó lòng  điều hòa và kiểm sóat từ xa các linh kiện y khoa chế tạo, chẳng  hạn,  trong khi các sản phẩm như  võ khí có thể bất hợp pháp hay nguy hiểm. Không phải cái gì cũng có thể làm ra qua chế tạo phân phối  và chế tạo truyền thống và các dây chuyền cung cấp vẫn còn phải duy trì cho rất nhiều hàng hóa tiêu thụ  thật quan trọng và thật phức tạp .

  Chế tạo phân phối có thể khuyến khích  đa dạng rộng rải hơn trên các vật thể  ngày nay đã  tiêu chuẩn hóa, tỉ như điện thọai thông minh và xe ô tô.  Kích thước không là vật thể: hóa và dịch vụ đến nhiều vùng thế giới  hiện tại chưa được chế tạo truyền thống  phục vụ đích đáng.

    8- Drones   Cảm giác và Tránh”  .


  Các rôbốt bay  ( còn được biết là xe cộ không gian không người lái hay drones )  để  kiểm tra các đường dây điện hay  cung cấp trợ giúp khẩn cấp,  đã trở nên một thành  phần khả năng quân sự quan trọng và  tranh cải, những năm gần đây. Chúng cũng được dùng ở nông nghiệp  để làm phim và nhiều ứng dụng khác, đòi hỏi kiểm sóat rộng rải và rẽ tiền. Nhuưng cho đến nay các drones  đều có các người lái; điều khác biệt là các người lái chúng ở ngay mặt đất và  lái  từ xa. 

   Bước tới về kỷ thuật drone là phát triễn các máy móc  tự bay lấy, mở rộng  cửa cho chúng đến những rặng - lọat  ứng dụng   rộng rải hơn. Muốn điều này xảy ra , drones phải  đủ khả năng để cảm gíác - sense  và phản ứng đến các  môi trường địa phương mình, đổi thay bề cao  chúng và các đường bay, hầu tránh  đụng chạm các vật thể khác trên lối mòn chúng bay. Trong thiên nhiên, chim chóc, cá và côn trùng ( sâu bọ )  có thể tụ lại thành đám, mỗi động vật  phản ứng với đồng đội gần như tức khắc,  hầu giúp đám  bay hay bơi lội  như thể là một đơn vị.  Drones có thể  đua tài như vậy . 

   Với tự trị, đáng tin cậy và tránh đụng độ, drones có thể  làm những nhiệm vụ  qúa  nguy hiểm hay qúa xa xôi  cho con ngừời: kiểm tra các đường dây điện, chẳng hạn, hay  giao  hàng các  cung cấp  y khoa trong trường hợp khẩn cấp , Các máy  drones giao  hàng  phải đủ khả năng tìm ra con đường tốt nhất đến nơi  chúng  muốn đến và  phải lưu tâm đến các xe cộ bay và trở ngại khác. Ở nông nghiệp, các drones tự trị  có thể thu thập và  biến chế những số lượng dữ liệu nhìn thấy rộng lớn từ  không gian, giúp  sử dụng chính xác và hửu hiệu các nhập sản như phân bón hóa học và tưới tiêu .

Tháng giêng năm 2014,  hảng Intel và AscendingTechnologies, trình diễn một drone đa trực thăng- multicopter  kiểu mẩu đầu tiên, có thể  du hành  trên đường trở  ngại  đang trình diễn  và tự động tránh  những  ai đi ngang qua lối mòn nó bay. Các máy móc này dùng mô đun máy chụp hình Real Sense của Intel , chỉ nặng 8 gram  và dày  ít hơn 4 millimét. Mức tránh đụng độ này  dẫn tới   một không gian  chia sẽ tương lai với nhiều drones  bay gần con người  và  họat động  trong hay  gần các môi trường xây đắp lên, để  thi hành  nhiều lọat nhiệm vụ.  Drones bản chất là rôbôt  họat động  theo ba  chiều, thay vì hai chiều .Các  tiên tiến  kỷ thuật khoa học robotics thế hệ kế tiếp sẽ gia tốc khuynh hướng này. 

  Các xe cộ bay sẽ không bao giờ sạch ( không có ) hiểm nguy cả , dù chúng do con người hay do các máy móc thông minh, họat động. Muốn được chấp nhận rộng rải , các drones cảm giác và tránh,  phải đủ khả năng họat động đáng tin cậy trong những điều kiện  rất khó khăn : ban đêm, lúc gió lạnh sương mù  thổi đến hay ở các trận giông tố bụi . Khác hẳn các linh kiện  kỷ thuật số  di động hiện hửu  ( thật ra  đang còn đứng yên vì chúng ta phải mang  chúng theo), drones sẽ là những tay làm biến đổi, vì chúng tự di động và có khả năng bay  trên thế giới 3 chiều, ngòai tầm con người  trực tiếp đến được.  Một khi có mặt khắp nơi, chúng sẽ giúp nới rộng  thêm nhiều sự hiện diện của chúng ta, hiệu năng và kinh nghiệm .

    9-  Kỹ thuật hình dáng thần kinh ( các chip computer bắt chước não bộ con người )


  
     Ngay cả những siêu computer tốt nhất ngày nay  cũng không  địch lại mức phức tạp của bộ nảo con người. Computer  thẳng hàng, di chuyễn dữ liệu qua lại  giữa các chip bộ nhớ  và một vi xử lý trung ương  trên một xương sống cao tốc. Nảo bộ, mặt khác, đầy nối kết  tương tác, với  lôgic và bộ nhớ xuyên qua  nhau  khít khao  hàng tỉ lần  tỉ trọng và đa dạng tìm thấy trong máy co  mputer cận đại. Các chip hình dạng thần kinh -neuromorphic   nhắm biến đổi thông tin  theo một cách căn bản  khác hẳn  từ phần cứng  truyền thống , bắt chước  kiến trúc nảo bộ  để cung cấp một số lượng  to lớn tăng thêm  suy nghĩ và sức phản ứng  của máy computer.

       Thu nhỏ lại đã  cống hiến những tăng gia khối lượng nhiều năm qua  cho sức mạnh  tính tóan T- computing  qui ước, nhưng  tắt nghẽn  chuyễn dữ liệu  liên tục giữa  bộ nhớ tồn trữ và các vi xử lý  trung ương  sử dụng những số  lượng năng lượng rất  cao và tạo ra nhiệt lượng  không mong muốn, giới  hạn thêm các cải thiện xa hơn. Tương phản lại, các chip hình dáng thần kinh có thể  hửu hiệu và mạnh mẽ năng lượng hơn, phối hợp thành phần  tồn trữ dữ liệu và  chế biến  dữ liệu  vào  các mô đun  nối kết cùng nhau. Theo nghĩa này, hệ thống sao chép các mạng nơ ron mà hàng  tỉ nơ ron làm ra nảo bộ con người.

   Kỷ thuật  hình dáng thần kinh sẽ là giai đọan kế tiếp  cho tính tóan computer, gíúp  chế biến dữ liệu  mau lẹ rộng lớn hơn và một khả năng tốt hơn cho máy móc học hỏi. Chip TrueNorth  một triệu nơ ron của IBM , tiết lộ  một kiểu mẩu đầu tiên tháng 8 năm 2014,  có một hửu hiệu sức mạnh  cho vài nhiệm vụ  hàng trăm lần  trội hơn CPU- central processing unit , đơn vị vi xử lý trung ương, và  sánh ngang hàng hơn lần đầu tiên  cho  vỏ nảo - cortex   con người.  Nhờ có  sức mạnh tính tóan  computer  có sẳn rộng rải hơn nhiều  cho ít năng lượng và thể  tích hơn, các chips hình dáng thần kinh sẽ giúp  các máy móc  kích thước nhỏ  thông minh hơn, thúc đẩy tiến tới  giai đọan kế tiếp làm  thu lại nhỏ bé và  thông minh nhân tạo .      

  Các ứng dụng tiềm thế gồm : các drones  khả năng tốt hơn, để chế biến  và phản ứng những mệnh lệnh - cues ,các máy chụp hình uy vũ,  thông minh  hơn  và các điện thọai thông minh, đè nén dữ liệu  theo một  kích thước  không thể nào mở khóa nổi  những bí mật các thị trường tài chánh  hay tiên đóan  khí hậu. Các máy computers sẽ có khả năng  biết trước  và học hỏi, hơn là chỉ phản ứng theo những cách đã lập trình .

   10 - Hệ gen kỹ thuật số  (Săn sóc y tế cho một tuổi khi mã số di truyền  bạn nằm trên gậy USB).


    Khi làm trình tự 3.2 tỉ cặp baz  DNA làm ra hệ gen con người, bạn mất nhiều năm và tổn phí là  hàng chục triệu đô la Mỹ , ngày nay  hệ gen bạn  có thể  làm trình tự và kỷ thuật số hóa- digitized trong vài phút  và phí tổn vài trăm đô la. Thành quả có thể bỏ vào máy lap top - computer để  đùi  trên gậy USB stick  và chia sẽ dễ dàng qua Internet. Khả năng  này  mau lẹ và rẽ rề  để qui định cấu trúc di truyền cá nhân và độc đáo, hứa hẹn một  cuộc Cách Mạng  săn sóc y tế  cá nhân hóa và hửu hiệu hơn . 

   Đa số các thách thức  y tế không giải quyết nổi, từ bệnh tim  đến  ung thư  đều có một thành phần di truyền. Thật thế, ung thư mô tả tốt nhất là một bệnh của hệ gen. Với kỷ thuật số hóa, các bác sĩ sẽ đủ khả năng làm các quyết định về chửa trị một bệnh nhân ung thư hiểu biết được, nhờ cấu trúc di truyền của một u ung thư. Hiểu biết mới này  cũng làm y khoa chính xác  thành một thực tế, bằng cách  phát triễn những phép chửa trị mục tiêu cao, cống hiến tiềm năng  chửa trị  hứa hẹn, đặc biệt cho bệnh nhân đang chiến đấu ung thư .

  Tương tự thông tin cá  nhân, hệ gen  kỷ thuật số của ai đó  sẽ cần  bảo vệ an tòan vì những lý do riêng tư. Tạo dáng hệ gen cá nhân đã nêu lên nhiều thách thức  liên quan đến cách nào dân gian phản ứng  cho một hiểu biết sáng sủa hơn  về những hiểm nguy  di truyền, cũng như  cách nào những kẻ khác, tỉ như các nhân viên hay công ty bảo hiểm, có thể mong muốn  đi vào và dùng thông tin. Lợi lộc,  tuy nhiên,  có vẽ lớn  hơn hiểm nguy,  vì các chửa trị cá nhân hóa và các phép chửa trị mục tiêu có thể phát triễn  với tiềm năng đem áp dụng cho nhìều  bệnh khác, đã được thay đổi  DNA thúc đẩy hay hổ trợ .


                            ( Irvine , Nam Ca Li - Hoa Kỳ , ngày 20 tháng 9 năm 2015 )


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét