Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

Tỉnh Vân Nam, Trung Quốc

 Trong hai tỉnh – vùng  Trung Quốc Việt Nam cần biết rõ hơn, đây là đôi chút về :


    Tỉnh Vân Nam - Yunnan, Trung Quốc

                                     G S Tôn thất Trình


Vân Nam là một trong 23 tỉnh Trung Quốc ngày nay,  cùng  với vùng tự trị Qủang Tây, có biên giới chung với Việt Nam. Còn tỉnh Quảng Đông - Guangdong  lại không tiếp giáp gì với nước nhà cả ( xem bản đồ đính kèm ). Quảng Tây -Guangxi  tiếp giáp nhiều với Bắc Việt, lại  không phải là  một tỉnh Trung Quốc,  mà là một vùng tự trị   như Nội Mông, Ninh Hạ- Ningxia , Tây Tạng và Tân Cương- Xinjiang . Biên giới cùng Myanmar - Miến Điện ,  thuộc các tỉnh hay tiểu bang Shan (Sơn) và Kachin; cùng Lào thuộc các tỉnh  Phongsaly, Oudomxay và Luang Namtha và  cùng Việt Nam thuộc các tỉnh  Hà Giang , Lào Cai , Lai Châu và Điện Biên ;  dài đến 4060 km. Ở vùng biên giới đếm ra có  12  cảng sông quốc gia, 8 cảng biên giới tỉnh và trên 90  đường bộ  dẫn tới các quốc gia láng giềng. Những nơi vượt biên giới  là   Hà Khẩu  ( Hekou )- Lào Cai bằng đường bộ và đường xe lữa và đây là  cửa khẩu biên giới duy nhất Việt ( Nam )- Trung ( Quốc ) chỉ mở cửa cho ai không phải là Tàu ( Hoa ) - không phải là Việt.  Cửa khẩu Lào và Trung Quốc là  Boten. Cửa khẩu  Ruili - Muse là nơi duy nhất   mở cửa cho ai không phải  là Tàu, không phải là Miến Điện. Thêm vào đó, địa lý Vân Nam kế cận  Thái Lan, Căm Bốt, Bangladesh và Ấn Độ. Diện tích tỉnh Vân Nam là   394 000 km 2, nghĩa là lớn hơn  tổng diện tích Việt Nam  chỉ là 329 277 km2 ( niên giám thống kê 2002 ). Nhưng chỉ đứng hàng thứ 8 về diện tích các tỉnh Trung Quốc  .Biên giới Vân Nam chung với các  tỉnh Trung Quốc là Tây Tạng - Tibet , Tứ Xuyên Sichuan, Quí Châu - Guizhou và Vùng tự trị  Quảng Tây- Guangxi .  Tọa độ Vân Nam là  25003’ Bắc vĩ tuyến và 101 0 52’ kinh tuyến Đông.

    Dân số Vân Nam, năm  2006 là 40.5 triệu người,  năm 2010 là 45.97 triệu , năm  2014 là  47.14 triệu . Ít hơn Việt Nam năm 2002 đã là 79.7 triệu rồi. Tính đến 1 tháng 7 năm 2014 dân số Việt Nam  là 92,5  triệu, theo Ngân hàng Thế giới.  Vân Nam là tỉnh Trung Quốc có 25 tộc dân,  nhiều tộc dân nhất Trung Quốc, trong số 56 tộc dân Trung Quốc công nhận ( vùng tự trị  Tân Cương -  Xin Jiang  chỉ có  47 tộc dân).  Muốn được công nhận,  tộc dân  phải có ít nhất là  5000 người. Tộc dân chánh ở Vân Nam ngày nay là Hán , chiếm  67 % tổng số năm 2010.  Cũng như nhiều nơi  vùng Tây Nam Trung Quốc , Nhật chiếm đóng  miền Bắc  trong Thế Chiến Thứ II  đã  khiến dân Hán  phải di cư vào Vân Nam. Nay  Hán là đa số dân Vân Nam . Các tộc dân khác thành thiểu số chỉ còn  chiếm 33 % tổng số, kể cả  tộc dân chánh là “ Nghi  - Yi”,  chiếm 11 % tổng số.  Các tộc dân khác là  Bái ( 3.6 % ),  Hà Nhì - Ha Ni ( 3.45 )  , Tráng - Zhuang ( 2.5 7 % ,  Đại ( 2.7 % ), Miêu - Miao 9 (2.55 % ), Hồi  Lisu ( 1.55  %), Tây Tạng  ( 0.3 % ),  La Hủ - La hu , Va , Naxi, Dao , Mán- Yao, Jingpo, Blang, Pumi, Nu, Achang, Benglong, Mông Cỗ, Drung,  Ji nuo ….   

   Về hành chánh quản trị , nay  Vân Nam gồm  có  16 phủ,  huyện - prefecture chia ra làm 8 thị tấn cấp huyện và  8 thị trấn  tự trị :( xem bản đồ  ghi số  16 phủ huyện tỉnh Vân Nam) 



Tên          
Thị Trấn Huyện Lỵ     
Tên phủ huyện    
(Bính âm)     
Dân số          
Diện tích
(km2)
1- Côn Minh - thủ phủ       
Cheng gong
Kunming Shì       

6 432 000      
21 001. 28

2-  Qujing
KhúcTĩnh                             
Qilin                 
Qủjìng Shì             
5 855 000       
28 939 .41

3 -  Yuxi            
Ngọc Khê                 
Hongta      
Hồng Tháp     
Ỳuxì Shì
2 304 000       
14 941.53
4 -  Baoshan
Bảo Sơn                        
Longyang
Long Dương         
Băoshàn Shì         
2 506 000       
19 064.53
5 -  Zhaotong     
Chiêu Thông            
Zhaoyang      
Zhaoyang   
5213 000        
22 439. 76

6-  Ligiang
Lệ Giang                            
Gucheng
Cổ Thành      
Lijiàng Shì             
1 254 000      
20 557. 25

7 - Pu’er
Phổ Nhĩ                               
Simao  
Puer  Shì                 
2 543 000     
44 264. 79
8-  Lincang
Linxiang       
Lincàng Shì             
2 430 000      
23 620. 72
9- De Hong ( Dai, Jingpo)
Mang
Dé hóng   zìzhizhòu  
1 211 000    
11 171. 41
10 - Nujiang (Lisu)
Lushui       
Nùjìang  zhizhizhòu   
534 000       
14 588 .92
11 – Dêqên
Shangri-La
Hương Cách Lý Lạp
Díqình zhizhizhòu    
1400 000       
23185.59

12- Dali (Bai )
Đại Lý (của người Bạch)          
Dali
Dàli  zhizhi zhòu         
3456 000       
28 299.43
13- Chuxiong ( Yi)
Chuxiong  
Chuxíong zhizhizhòu  
2 684 000    
28 436 .87
14 – Honghe (Hani và Yi)
Hồng Hà (của người Hà Nhì & Di
Mengzi
Hónghé zhizhizhòu     
4 501 000     
32 167 .67

15 –Wenshan (Zhuang, Miao )
Văn Sơn (của người Choang & Miêu)     
Wenshan   
Wénshan zhizhizhòu  
3 518 000     
31 408. 12
16 - Xishuangbanna     
Jinghong
Dăizú zhizhizhòu         
1 134 000   
19 107. 05
 

25 tộc dân thiểu số   sống thành cộng đồng đông đúc , mỗi cộng đồng trên 5000 dân.  10 tộc dân thiểu số  sinh sống ở các vùng biên giới  và các thung lũng sông  gồm các tộc dân Hồi - Hui( hồi giáo )  Mãn Châu , Bái , Naxi , Mông Cổ , Tráng - Zhuang , Dai , Achang , Buyei, và Shuiu  cọng chụng lại là 4.5 triệu người, các tộc dân Hani, Yao, Lahu, Va, Jingpo , Blang và Jino,  tổng   số là 5 triệu, sinh sống  ở các vùng núi thấp ; và ở các vùng núi cao là Miao, Lisu, Tây Tạng , Pumi , và tổng số là 4 triệu.  Đa  tộc dân cho nên ngôn ngữ cũng da dạng  nói tiếng Miến Tạng là  Bái, Nghi- Yi , Tây Tạng , Hani,  Jingpo,  Lisu, La hu , Naxi .  Nói tiếng Thái  ( Việt Nam gọi là tiếng Tày - Thái )  là  Tráng - Zhuang, Bouyei, Dong,  Shui, Lục Trấn - Tailu  và Thái Hoành Tainua . Cũng như ngôn ngữ Mèo, Hmong, Miêu  - Miến. Đặc biệt là tộc dân Naxi  nay dùng chữ viết - script Dongba  là hệ thống chữ viết dựa trên hình vẽ -pictographic writing system , duy nhất còn dùng trên thế giới ngày nay. Chữ viết Dongba  là cốt để cho các  thầy chùa- sư sải  Dongba chỉ thị cách nào   thực hiện lễ lạc , nay  chỉ còn là một đặc điểm  cố hút dẫn khách du lịch  mà thôi. Đa số thổ ngữ  Tàu nói ở Vân Nam   thuộc chi nhánh   Tây Nam   ngôn ngữ phụ tiếng Quan thọai -  Mandarin   và như vậy rất gần  thổ ngữ địa phương  các tỉnh Tứ Xuyên hay Quý ( Quế ) Châu - Guizhou. Ngòai các thổ ngữ địa phương,  dân Vân Nam cũng  nói tiếng Hoa ( Tàu )  tiêu chuẩn - standard  chinese  ( Hoa phổ thông - putonghua  , cũng thường được gọi là “ quan thọai - mandarin :  báo chí, chánh phủ hay để dạy học dùng.  Về tôn giáo thì có 5 triệu người  theo 5 tôn giáo Trung Quốc chấp nhận : 2.6 triệu  nghĩa là 6 % tổng số dân là Phật giáo,  620 0000  hay 1.4 % là Hồi giáo, 530 000 hay 1.2 % là Tin Lành -Protestants, 240 0000  hay 0.5 % là   Đạo ( Lảo ) giáo -   Taoists ,  và 66 000 hay 0.1% là Cơ  đốc- Catholics  Theo các điều nghiên  các năm 2004 và 2007  thì  các năm đó  chừng 32.22% thờ  đạo ông bà-  thờ cúng tổ tiên  và 2.75%  tuyên bố là theo Thiên Chúa Giáo .  Tàu Hán theo các tôn giáo truyền thống, dân Di (Lô Lô)- Yi  theo Bimoism,  dân Bai theo Benzhuism. Dân Di là một trong vài tộc dân Tàu   theo  Phật Giáo Theravada ( Tiểu thừa- Phật giáo Nguyên Thủy ) . Đa số dân Hui theo Hồi Giáo và đa số các tộc dân Lisu, Jingpo  và Derung   theo Thiên chúa giáo - Christianity.   

    Chút ít lịch sử tỉnh Vân Nam            

   
Điêu khắc bằng đồng thời Dian
    Người  tiền cổ Nguyên mẩu -Yuanmou    Homo erectus  các kỷ sư làm đường xe lữa khai quật vào thập niên 1960,  đã được  qui định  là họ người- homonid   xưa cổ hóa thạch nhất Trung Quốc . Vào thờI kỳ  Đồ Đá Mới,Tân Thạch- Neolithic period đã có nhiều  người định cư  ở vùng hồ Dian, dùng dụng cụ bằng đá  và dựng lên nhà  gỗ sơ sài. Khỏang thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, CN- BC ,  vùng trung tâm Vân Nam là quanh thủ phủ Côn Minh- Kunming  ngày nay, có tên là Di An . Tướng nhà Châu ( Chu ) là Tráng Kiều - Zhuang Qiao  chiếm vùng này   từ thượng lưu sông Dương tử - Yangtse River , tự xưng   là  “Vua Dian - King of Dian” .  Chính ông và những kẻ theo ông đem tới Vân Nam ảnh hưởng  Tàu ( Hán) , khởi đầu một  cuộc di cư và mở rộng văn hóa vùng này.   Năm 221 trước C. N., Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc  và nới rộng uy quyền  về phía Nam  . Các khu quân sự và phủ huyện được thành lập ở Vân Nam.  Một đường cũ  ở Tứ Xuyên tên gọi là  “Đường Năm Bộ - Five Foot Way “  được mở rộng về phía Nam  gần Qùi, Khúc Tỉnh  - Qujing  ngày nay, ở  phía Đông Vân Nam . 

   Các cuộc  chiến tranh  Hán ( Tàu ) và Dian bắt đầu thời  vua Vũ , muốn mở rộng  triều đại nhà Hán. Năm 109 trước CN , vua Vũ  phái tướng Quốc Thường ( Chương ? )-  Guo Chang tiến đánh Vân Nam , thiết lập  dinh quân sự  Nghi, Nghĩa Châu - Yizhou   và  24 huyện.  Dinh đóng  quân là huyện Dianchi - Di an Trì , thị trấn  Kim Ninh- Jinning ngày nay.  Một huyện khác có tên là Vân Nam - Yunnan lần đầu tiên.  Để mở mang thêm  buôn bán với Miến Điện và Ấn Độ,  Vua Vũ   cũng  phái  Đường Mãng,, Mạnh  - Tang Meng  đên duy trì và nới rộng  “ Đường Năm Bộ”  , đổi tên là”   Đường Man Di Tây Nam - SouthWest Barbarian Way “. Tới lúc này, kỷ thuật nông nghiệp đã  cải thiện đáng kể ở Vân Nam. Dân địa phương đã sử dụng dụng cụ đồng thau, nuôi   một lọat súc vật như trâu bò, ngựa, cừu, dê,heo và chó.  Các nhà nhân chủng học  đã qui định là các dân gian này liên quan đến tộc dân Thái.  Họ sinh sống bằng cộng đồng bộ lạc , đôi khi  do dân Tàu bị đày ải lảnh đạo. Vào thời đại Tam Quốc , lãnh thổ Vân Nam, Tây Quý Châu và  Nam Tứ Xuyên gọi chung là Nam Trung - Nanzhong . Suy sụp uy quyền Tàu trung ương  đưa  đến một tự trị lớn hơn cho  Vân Nam và uy quyền lớn hơn  cho cơ cấu bộ lạc địa phương. Năm 225 sau CN, nhà chánh trị  lỗi lạc Gia Cát Lượng( Khổng Minh )  - Zhuge Liang  chỉ huy 3 đạo quân đánh dẹp các bộ lạc  Vân Nam . Ông bắt Mạnh Họach - Meng Huo  bảy -lần và được ca dao truyền khẩu Tàu ca tụng.   

Hốt tất Liệt
    Trong thế kỷ thứ 4, miền Bắc Trung Quốc  bị các bộ lạc du mục  phía Bắc  chiếm cứ .  Vào thập niên 320,  nhóm  Khương ? -Cuan  di cư vào Vân Nam. Trần Khương  - Cuan Chen   tự xưng Vương   và bá chủ  Hồ Dian,  khi đó còn tên là Hồ Côn Chuân - Kunchuan .  Nhóm  Cuan cai trị  Vân Nam trên  400 năm. Năm 738 , Mông Bì La Cát - Piluoge, được vua Đường  xác nhận là Vua Vân Nam ,  thiết lập  vương quốc  Nam  Châu- Nanzhao.  13 vua Nam Châu cai trị  hơn 2 thế kỷ  và đóng một vai trò quan trọng  cho liên hệ năng nổ giữa Trung Quốc và Tây Tạng . Năm 937,  Đòan  Tây Bình- Duan siping  lật đổ Nam Châu và  thiết lập vuơng quốc Đại lí - Dali.  Năm  1253, Đại Lí  bị đế quốc Mông Cổ  chiếm đóng, triều đại Đòan nhập vào  Mông Cổ và trở thành tòan quyền tỉnh mới . Hòang tử Mông Cổ gửi đến  cai trị vùng này bị giết chết.  Năm 1273, Hốt Tất Liệt- Kublai Khan   cải cách tỉnh và bổ nhiệm Semuren Sayid Ajall  làm tòan quyền . Tỉnh Vân Nam thời nhà Nguyên cũng gồm có miền Thượng Miến Điện, sau các chiến dịch Miến Điện vào  các thập niên 1270 và 1280.  Nhưng khi nhà Nguyên  thất thủ năm 1368, triều đại Minh  phá tan các  kẻ trung thành với nhà Nguyên  do Basalaxarmi lảnh đạo  và chiếm Vân Nam  các năm đầu thập niên 1390. Nhắc lại  là năm thế kỷ  từ  buổi đầu độc lập, dưới các triều Ngô (939 - 965 ), Đinh ( 968 - 979 ), tiền Lê   ( 980 - 1009 ) đến các triều Lý  ( 1010 -1225 ), Trần ( 1226 -   1400 ), Lê ( 1428- 1527 ), nước Việt Nam  đã thành tựu tiêu biểu một nền văn minh   Phục hưng  Đại Việt , hay nền văn hóa Thăng Long, kế thừa và phát huy  di sản  văn hóa cổ đại thời dựng nước  vừa phát triễn nâng cao  cơ sở sáng tạo của nhân dân và  giao lưu  văn hóa  với các nước láng giềng. Trong thời kỳ này,  dân tộc  ta còn ghi vào lịch sữ những võ công  hiển hách của hai lần phá Tống (  981 và  1077 ) , ba lần  bình Nguyên –Mông ( các năm 1258, 1285- 1288 )  và 20 năm đuổi Minh( 1407 – 1427 ) .   

    Trong triều đại Minh và Thanh, nhiều vùng rộng lớn Vân Nam  được  cai quản  dưới quyền  chế độ tù trưởng - thủ lãnh địa phương.  Cuộc chiến với Miến Điện  cũng xảy ra  ở thập niên  1760,  vì  các tù trưởng  địa phương cả hai nước Trung Quốc và Miến Điện đều cố gắng cũng cố  đất đai biên giới.  Dù rằng  phần lớn đã bị bỏ quên, cuộc Nổi Lọan  Panthay đẩm máu của tộc dân Hồi  hồi giáo và  các tộc dân thiểu số khác  chống lại nền cai  trị Mãn Châu của triều  đại Thanh  đã gây ra cái chết của gần 1 triệu người tại Vân Nam.  Chánh sách  Thanh triều có tên là  làm sạch   tỉnh khỏi dân hồi giáo - washing off   the Muslims -xiHui. Vân Nam cũng bị các sự cố chiến tranh kháng Nhật, khiến cho nhiều  dân tị nạn miền Biển Đông và các cơ xưởng công nghệ dờì sang Vân Nam.  Tỉnh đảm nhận  một ý nghĩa chiến lược, đặc biệt  khi  Con đường Miến Điện - Burma Road từ Lashio  ỏ Miến đến Côn Minh được chống giữ mảnh liệt, vì đây là con đường  cung cấp  quan trọng sống chết cho cố gắng chiến  tranh của Trung Quốc, Chống Nhật. Viện đại học Liên Đạt - Lianda University ở miền Đông Trung Quốc bỏ chạy đến Trường Sa - Changsa , thủ phủ tỉnh Hồ Nam - Hunan.  Nhưng  quân Nhật thả bom Trường Sa tháng hai năm 1938. 800 giáo viên và sinh viên   phải chạy trốn một lần nữa, cuốc bộ  1000 dặm ( trên 1600 km ) đến Côn Minh, thủ phủ  Vân Nam  thuộc vùng  núi non Tây Nam Trung Quốc. Nơi đây họ thiết lập Viện đại học Liên Đại - Lianda.  


Trong 8 năm trời chiến tranh thảm khốc, họ đã sống còn và họat động  ở những nhà của tạm dựng, thỉnh thỏang còn bị Nhật dội bom.  Thiếu thốn đủ mọi thứ  thực phẩm, trang bị, sách vỡ, áo quần  và các nhu cầu khẩn thiết khác;  thế nhưng họ đã  quản trị một viện đại học cận đại. Trong 8 năm chiến tranh ( 1937 -1945 ), Lianda  đã nổi tiếng khắp Trung Quốc vì đã đào tạo  ra  rất  nhiều  nhà hàn lâm, học giả, các nhà khoa học và trí thức Trung Quốc.  Đặc biệt  là hai nhà duy nhất  đọat giải Nobel  vật lý học  của Trung Quốc,  đã  tòng học ở Lianda  tại Côn Minh.                              

    Đôi chút địa lý


     Địa chất

 Vân Nam là bìa mép  viễn đông của nâng cao Hy Mã Lạp Sơn. Được đẩy lên  vào thời Pleitoxen - Pleistocene, đặc biệt Trung Pleistocene, dù rằng nâng cao vẫn tiếp diễn ngày nay.  Phía Đông tỉnh  là một cao nguyên đá vôi  có địa hình Karst  và sông ngòi không đi lại được  chảy qua  các hẻm - gorge  núi cao.  Các hình thành  chánh yếu  trên mặt  cao nguyên là Hình thành   Mao Khẩu - Mao Kou    thời Permian Thấp hơn- Lower Permian,   đặc điểm là các trầm tích đá vôi dày ;  Hinh thành thời Lower Permian  Kỳ Hạ -  Qixia đặc diểm là  đá vôi đolomitic và đá đôlomitic - dolostones, các basalt  của Upper Permian  của Hình thành Ermeishan( tên cũ  là cao nguyên basalt  Omeishan )  và các đá cát đỏ, đá bùn, đá đất thịt và các  tập hợp của Mesozoic - Paleogene, gồm luôn cả Hình thành  Lữ Phong - Lufeng  và nhóm Lữ Nam - Lunan,( Lumeiyi, Xiaotun , và các hình thành  Caijiacong ). Ở vùng này là  Rừng Đá - Forest Stone hay Thích Lâm -Shi Lin , những tháp nhọn  xoi mòn thẳng đứng  đá vôi ( Hình thành Mao Khẩu ). Ở vùng   miền Đông này, sông ngòi chảy theo hướng Đông. Nửa phần Tây  có đặc điểm là  các rặng núi và các sông ngòi  chảy theo hướng Nam hay  hướng Bắc.
               

    Khí hậu     

    Vân Nam là một khí hậu dịu dàng, thời tiết dễ chịu và  hiền lành,  vì tỉnh nằm về phía sườn núi hướng Nam, nhận ảnh hưởng  cả hai đại dương Thái Bình Dương và Ấn Độ  Dương , nhưng dù cho thời gian canh tác được  dài, địa thế  gồ ghề cống hiến ít đất đai trồng trọt được.  Theo xếp lọai  khí hậu Koppen, phần lớn tỉnh nằm trong cao nguyên phụ nhiệt đới  ( Koppen Cwb ) hay vùng phụ nhiệt đới ẩm thấp ( Cwa ), có mùa đông  dịu dàng  đến ấm áp, và mùa hè vừa phải. Ngòai  phía Nam  gần như nhiệt đới, nơi  nhiệt độ thường cao hơn 300 C (  86 0 F )  trong nữa năm ấm áp. Tổng quát, nhiệt độ trung bình tháng giêng là  từ 210  đến 27 0C  ( 70- 81 0 F ). Vũ lượng trung bình hàng năm  là từ 600 mm đến 2300 mm ( 24 đến  91 ngón - inch Anh ) . Phân nữa mưa rơi xuống từ tháng 6 đến tháng 8.  Vùng cao nguyên có nhiệt độ ôn hòa.  Vùng vực sâu - canyon phía Tây nóng nực và ẩm thấp tại các đáy thung lũng, nhưng trên các đỉnh núi gió  băng giá thổi qua.  

 Địa hình

  Lảnh thổ Vân Nam  phần lớn núi non, đặc  biệt ở phía Bắc và phía Tây. Những lọat dãy núi cao  lan tràn khắp tỉnh. Có một vùng vực sâu  khác biệt  phía Tây  và một vùng cao nguyên  phía Đông.  Độ cao trung bình là 1960 m ( 6500 bộ Anh ).  Các núi cao nhất là  ở phía Bắc, có khi trên 5000m- 16000 bộ ( nhắc lại là PhăngXiPăng cao nhất Việt Nam  chỉ hơn 3000m ). Phía Nam, núi không cao qúa 3000 m ( 9800 bộ ).  Núi cao nhất phía Bắc là  đỉnh Kawagdebo  ở huyện Deqin- Đức Khâm   thuộc  cao nguyên Di Khánh- Diking  cao  6 740 m ( 22 110 bộ ). Núi thấp nhất ỏ thung lũng sông Hồng  huyện Hà Khẩu, gần biên giới Việt Nam, chỉ cao  76.4 m ( 251 bộ ) . 

    Vân Nam có rất nhiều hồ. Tỉnh chứa 9 hồ lớn diện tích  trên 30 km2( 12 dặm Anh vuông ).  Gồm:  Hồ Dian Trì- Dianchi gần thủ phủ Côn Minh, Hồ  Phúc Hiến - Fuxian  ở Dư  Tây- Yuxi   là hồ sâu đưng thứ hai Trung Quốc , Hồ Erhai gần TP Đại Lí ,  Hồ Lữ  Gù - LuguNinh Lăng - Ninglang   gần ranh giới  Tứ Xuyên,  Hồ Kỳ Lữ - Qilu  phía Nam hồ Fuxian ở huyện Tống  Hải- Tonghai , Hồ Dương Vĩnh - Yangzong ở  huyện Yi Liang, Hồ  Yilong và hồ Hưng Tôn - Xing yun
   Vân Nam là nguồn hai   sông  Tây Giang- Xi River  (tên địa phương là  Nam Bàn - Nanpan    và  Suối Hồng - Hongshui )  và sông Nguyên - Yuan River. Hongshui  là suối nguồn chánh của Sông Tây .  Bắt nguồn   từ Nanpan  ở phía Đông Vân Nam,  chảy về Nam và về Đông  làm  thành ranh giới giữa  tỉnh  Quý Châu và vùng tự trị Quảng Tây . Dài 345 km ( 214 dặm Anh ) , nó  hiệp với sông  Dư - Yu ỏ Quý Bình ,  rồi sau đó trỏ thành Tây Giang.  Đúng ra, Vân Nam  có 6 hệ thống sông chánh yếu chảy qua :

sông Nam Bàn (nanpan) Trung Quốc
-Sông Dương Tử  tại tỉnh có tên là  Tân Sa Giang - JinshaJiang ( sông Cát vàng - Golden Sands   )  ỏ phía Bắc
- Sông Châu - Pearl River  bắt nguồn gần  Khúc tỉnh- Qujing  chảy về Đông
- Sông Cửu Long ( Mê kông )- Lạn Thương Giang,  Lancang jiang, chảy từ Tây Tạng đến Nam Hải ( Biển Đông ) làm thành biên giới  giữa Lào và Miến Điện, giữa Lào và Thái Lan và ngang qua Lào, Căm Bốt và Việt Nam     
-  Sông Hồng - Red River ( Nguyên - Yuan,  hay Hồng Hà- Honghe ) bắt nguồn  ở núi phía Nam Dali  rồi đến Biển Đông qua Hà Nội, Việt Nam.
- Sông Salween - Nujiang chảy đến Vịnh Martaban và Biển Andama, ngang qua Miến Điện.
- Sông Irrawaddy  bắt nguồn từ  nơi hai sông hợp nhau của tiểu bang Kachin - Miến Điện, có vài phụ lưu nhỏ tại viễn tây Vân Nam, tỉ như Dulongjiang và sông Taping và các sông thuộc huyện Đức Hồng - Dehong.

   Tài nguyên thiên nhiên


   Nguồn giàu có Vân Nam là tài nguyên khóang chất  rộng lớn. Khai thác hầm mỏ  là công nghệ đứng hàng đầu tỉnh. Vân Nam đã  chứng minh chứa 86 trầm tích khóang chất lọai lớn nhất nước  ở 2 700 vị trí.  Chừng 13%  trầm tích khóang chất chứng minh lớn nhất Trung Quốc   và ⅔ trầm tích  cũng thuộc lọai lớn nhất  thung lũng sông Dương tử  và miền Nam Trung Quốc.  Vân Nam đứng hàng nhất nước về  trầm tích kẻm,  chì, thiếc, cadmium, indium, thallium , và crocidolite.  Các trầm tích khác là sắt, than đá ,  đồng, vàng, thủy ngân, bạc, antimony và sulfur. Hơn 150 lọai khóang chất  đã được klhám phá ở Vân Nam. Tiềm năng các trầm tích chứng minh trị giá 3 ngàn tỉ đồng nhân dân tệ, 40% là khóang chất nhiên liệu, 7.3% là khóang chất  kim lọai và 52.7 %  là khóang chất không kim lọai.        

   Vân Nam  có đủ và nhiều sông, hồ.  Dòng nước chảy hàng năm trong tỉnh  là 200 km khối – cubic kilometers, 3 lần hơn sông Hòang Hà – Yellow  River.  Các sông từ ngòai chảy vào tỉnh  tăng thêm 160 km khố , có nghĩa là mỗi ngườI Vân Nam có hơn 10 ngàn mét khối nước.  Đây là con số 4 lần hơn  trung bình Trung Quốc. Các nguồn  tài nguyên thủy tính này  tạo ra năng lượng thủy điện cao.  Trung Quốc  đang xây một lọat  đập trên sông Mê Kông  để  phát triễn giao thông  đường sông và nguồn điện lực. Đập thủy điện đầu tiên là ở Manwan năm 1993.

     Đa dạng sinh học


     Vân Nam là tỉnh đa dạng sinh học  cũng như văn hóa nhất Trung Quốc. Tỉnh chứa  núi đỉnh tuyết phủ đầy vàcác môi trường  nhiệt đới thật sự, cho nên giúp hổ trợ một quang phổ  to lớn nhiều lọai  các lòai và cây cối  khác nhau. Hoa trà mi Vân Nam – Camellia reticulata  là biểu hiệu tỉnh. Mùa hè, Đại Cao Nguyên Tây Tạng hành động như thể một rào cản gió mùa, chụp bẩy  ẩm thấp cho tỉnh. Điều này giúp cho hệ thực vật núi cao – alpine flora Vân Nam  có lần được xem là “Tình trạng um tùm không nơi nào có   cả” . Địa hình phối hợp với  ẩm thấp nhiệt đới chịu đựng đa dạng sinh học cao cực kỳ    tính cách đặc hữu – endemism  cao độ, có lẽ giàu thực vật học nhất các vùng ôn đới thế giới .  

 
Hoa Trà My
Tỉnh  đếm được  17 000  lòai thực vật cao cấp,  trong đó  ước lượng 2500 lòai là đặc hửu. Có người đã nói: Tỉnh Vân Nam chứa đa dạng thực vật trổ hoa  bằng tất cả mọi  loài  cây cối trổ hoa  nhập chung của Bắc Bán Cầu.    
 Vân Nam  chỉ chiếm ít hơn 4 %  lãnh thổ Trung Quốc  , nhưng lại chứa khỏang phân nữa chim chóc và lòai vật có vú Trung Quốc . Vân Nam là gia cư  của  con min – gaur  Đông Nam Á , con bò rừng khổng lồ - giant forest dwelling ox , cọp Đông dương,  và voi Á châu .  Vài lòai đã biến mất ,có thể đã tuyệt tích  tỉ như    rùa hộp box turtle Vân Nam ,và vượn thần giữ nhà – lar gibbon Vân Nam . Khỉ mủi tẹt hếch snug nosed mon key Vân Nam  hay khỉ Đen mủi tẹt hếch là một lọai linh trưởng – primates   họ Cercopithecidae  đang bị hiểm  nguy.
    

Phần II: Phát triển kinh tế , kỹ thuật 

 

Các vùng  phát triển kinh tế và kỹ thuật Vân Nam 


      Giữa thế kỷ thứ 19, Vân Nam xuất khẩu chim chóc, đồng thau, thiếc, đá quí,  xạ hương – musk,  hạch quả - nuts và lông công  đến các tiệm Quảng Châu.  Lúc đó, Vân Nam nhập khẩu lụa, len, áo quần bông vải, thuốc lá và sách vỡ.  Vân Nam   là một trong những tỉnh Trung Quốc  chưa mở mang, nhiều phủ huyện  đói khổ- nghèo nàn  hơn là ở các tỉnh Trung Quốc khác.  Năm 1945 ,khi Tưởng Giới Thạch gửi quân sang  Việt Nam giải giáp quân đội Nhật đầu hàng Đồng Minh  đến   tận vĩ  tuyến 16 , dân quân Tàu lúc đó phần lớn thuộc Vân Nam, đã bị dân Việt chê là  Đoàn quân Tàu Ô đi , Sao mà ốm thế ?” .  Năm 1994,  chừng 7 triệu người  sống dưới mức nghèo khổ , dưới mức lợi tức hàng năm  là 300 yuan – RMB (  chừng 45 Mỹ kim )  cho mỗi đầu người.  Nhờ chánh phủ Trung Ương trợ cấp,  năm 2002  là 3.15 tỉ yuan-RMB, số dân nông thôn nghèo khổ đã giảm từ  4.05 triệu người  xuống 2.86 triệu “ Chống đói giảm nghèo Vân Nam”   nằm trong 5 dự án lớn  nhắm vào  cải thiện hạ tầng cơ sở ; như cải thiện đất đai, bảo tồn nước, điện lực, đường xá, và xây dựng “các vòng đai xanh – green belts.     
      Ngày nay, các cột trụ  công nghệ, nhờ tài nguyên thiên nhiên phong phú là : nông nghiệp , thuốc lá , thủy điện và du lịch.  Công nghệ thứ cấp – secondary   hiện nay  lớn nhất  ở Vân Nam chiếm hơn 45% GDP. Công nghệ tam cấp – tertiary   chiếm 40 % và nông nghiệp chỉ còn  10 %.  Đầu  tư là  then chốt  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Vân Nam  ngày nay , đặc biệt về xây cất . Thách thức  chánh yếu cho tỉnh là thiếu các  đại công trình phát triễn , cũng như các vấn đề xã hội  tỉ như bảo vệ môi sinh,  gạt bỏ nghèo khổ, di cư bất hợp pháp,  buôn bán ma túy- thuốc phiện  và bệnh HIV/AIDS .  

Đại Doanh Nhai, được mệnh danh "Vân Nam đệ nhất thôn", là điển hình làm giàu từ kinh tế nông thôn Trung Quốc. Năm 1995, Đại Doanh Nhai trở thành thôn đầu tiên của tỉnh Vân Nam có tổng thu nhập kinh tế nông thôn hơn 1 tỷ tệ (120 triệu USD). Các ngành công nghiệp sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, thiết bị điện, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, luyện kim cũng bùng nổ tại đây

   Như đã nói trên, 4 cột trụ công nghệ Vân Nam là thuốc lá, nông nghiệp /sinh học , hầm mỏ và du lịch. Công nghệ chế tạo chánh là  sản xuất sắt và thép, nung chảy đồng , xe cộ vận chuyễn, hóa chất,  phân bón hóa học, tơ sợi và các dụng cụ quang học.    Vân Nam  liên lạc thương mãi  với hơn 70 nước và vùng ngọai quốc thế giới. Vân Nam  xuất khẩu chánh là thuốc lá,  máy móc, và dụng cụ điện, các sản phẩm hóa học, nông sản và các kim lọai không phải là sắt.   Năm 2008, tổng số xuất nhập hai chiều lên đến   9.6 tỉ đô la Mỹ.  Khế ước đầu tư ngọai quốc trực tiếp là 1.69 tỉ $. Con số dân thất nghiệp là  4.21 %, ít hơn con số trên 5% của Hoa Kỳ năm 2015.  Năm 2011, GDP Vân Nam là 875.1  tỉ yuan – RMB ( 138.92 tỉ đô la Mỹ )  với mức  tăng trưởng hàng năm  là 13.7 % . GDP mỗi đầu người là 13 494 yuan ( 1 975 đô la Mỹ).  Nông nghiệp chiếm  17.9 % , xây cất  và công nghệ chiếm  43% và du lịch chiếm 39.1 % GDP . 

      Các vùng phát triển  kinh tế kỹ thuật chánh yếu Vân Nam ngày nay là : 

 

·           Vùng   biên giới   hợp tác kinh tế Ruili, cũng thành lập năm 1992, để khuếch trương phát triển  thương mãi giữa Trung Quốc và Miến Điện,    xuất nhập khẩu đầy hứa hẹn  gồm có các công nghệ chế biến , nông phẩm địa phương  và tài nguyên  sinh học. Doanh nghiệp Trung Quốc và Miến Điện  tăng mau lẹ.  Nay Miến Điện   là một trong những nhà  chung sức thương mãi lớn nhất với Vân Nam.  Thương mãi  Miến  Trung, năm 1999,  lên đến 77.4%  ngọai thương Vân Nam.  Năm đó,  xuất khẩu  dụng cụ điện cơ - electromechanical đạt 55.28 triệu $. Xuất khẩu chánh là sợi dệt áo quần, chỉ sợi bông vải,  sáp ceresin, dụng cụ máy móc cơ học, trái cây, chỉ sợi và thuốc lá.  


·          Vùng  Côn MinhThành lập năm 1992 là một vùng cấp quốc gia . Côn Minh nằm  ở trung đông tỉnh.   Sau nhiều năm phát triễn,  vùng  đã hình thành  nhiều công nghệ cột trụ gồm  chế biến thuốc lá, chế tạo máy móc, thông tin điện tử và kỷ thuật sinh học.  Công nghệ cao kỷ  thiết lập về phía Đông Nam thủ phủ Côn Minh,  cách ga Đường Xe lữa Côn Minh  4km và  cách phi trường quốc tế  Côn Minh  5 km.   Diện tích 900 ha ( 3.5 dặm Anh vuông  hay 9 km2) .   


·              Vùng  phát triển kinh tế  Châu  Xương, Sở Hùng  – Chuxiong  là một vùng quan trọng cho Vân Nam . Diện tích 12 km2 , gồm có  4 công viên công nghệ. Nay đã hút dẫn nhiều dự án đầu tư    của công nghệ theo nền tảng mới mẽ.  


·           Vùng hợp tác kinh tế  Vạn đình –Wanding là một công viên  công nghệ   Ủy ban Quốc gia Trung Quốc chấp nhận,  cũng thiết lập năm 1992   tại thị trấn Vạn Đình , Ruili và Đức Hồng - Dehong hầu đề xướng thương mãi giữa Trung Quốc và Miến Điện. Diện tích là 6 km2( 2.3  dặm Anh vuông ), tụ điểm vào  thương mãi, chế biến tài nguyên nông nghiệp và du lịch .


·            Vùng phát triển kinh tế và kỷ thuật KhúcTỉnh   – Qujing  do tỉnh  chấp   nhận tháng 8 năm 1992 , tại  phía Đông  thị trấn Qujing , đứng hạng nhì Vân Nam  trên phương diện kinh tế . Diện tích là 106 km2( 41 dặm Anh Vuông ,  mục đích phục vụ  cho  400 000   dân quanh Vùng . 
              

     Nông  nghiệp Vân Nam


     Nông Nghiệp Vân Nam giới hạn  vào các đồng bằng trên cao , các thung lũng mở và các  đồi núi bậc thang . Đất bằng hiếm có, cho nên chỉ có 5% đất đai Vân Nam trồng trọt được. Lúa gạo  là mùa màng chánh, sau nđó là bắp ( ngô ), lúa mạch , lúa mì , hột cải làm dầu ăn  - rapeseed , khoai lang, đậu nành ( đổ tương ),  trà , mía, thuốc lá  và bômg vải. Trên dốc núi cao ở miền Tây,  nuôi súc vật và trồng cây đốn gỗ  tỉ như giá tị - teck  , một tài nguyên gía  trị ở Tây Nam.  Thuốc lá  là sản  phẩm xuất cảng chánh yếu  và là một thành phần lớn của GDP.  Hơn nữa,   tiềm năng cạnh tranh  mạnh mẽ của Vân Nam là  công nghệ  trồng cây trái  và rau  đậu –vegetables , đặc biệt là rau đậu tươi  hay  sấy khô  táo tây-pom tươi. Vân Nam là  một trong những vùng thế giới  tài nguyên  dồi dào nhất về nấm hoang dã ăn được.  Trung Quốc kê khai là có 938  lọai nấm ăn được, trong số này  800 lọai thuộc Vân Nam.  Năm 2004, Vân Nam xuất khẩu 7 740 tấn nấm hoang dã ăn được, chiếm  70% tổng số nấm Trung Quốc xuất cảng . Lọai nấm tên gọi là “ nấm thông- pine mushroom”   là một sản phẩm chánh yếu của tỉnh và xuất khẩu số lượng lớn sang Nhật.  

       Vì Trung Quốc  tăng thêm nhiều tiêu thụ các đồ sữa , cho nên ngành  công nghệ sữa – dairy industries  cũng phát triển mau lẹ  và cũng nhắm xuất cảng sang các láng giềng ASEAN ( Đông Nam Á ). Ngành hoa (kiểng )  cũng bắt đầu phát triễn  vào những năm cuối thập niên 1980.  Vân Nam chiếm 50%  tổng số hoa cắt cành – cut flower sản xuất ở Trung Quốc. Năm   2003, Vân Nam  đã trồng 4000 ha hoa cắt cành , tổng số sản xuất là 2.3 tỉ thân cắt. Tổng trị gía  công nghệ trồng hoa Vân Nam   năm 2002 là 3.4 tỉ Đồng Nhân Dân Tệ-  RMB .  Xuất khẩu 18 triệu đô la Mỹ, sang Nhật , Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và Singapore.   

    Cải thiện chuyên chở Vân Nam

    

               Đường xe lữa 

           
Đường xe lửa Hải Phòng Côn Minh (Vân Nam) được xây vào thời Pháp thuộc và hoàn tất năm 1910

 -Đường xe lữa đầu tiên ở Vân Nam là đường rầy khổ hẹp  Vân Nam – Việt Nam  Pháp thuộc địa xây dựng  từ năm 1904 đến 1910 nối Côn Minh với Việt Nam. Tại Vân Nam,  khúc đọan Tàu này có tên là Đường Xe lữa Vân Nam – Hà Khẩu  và giúp cho Vân Nam đến  được cảng Hải Phòng . Vào Thế Chiến Thứ Hai, Anh Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu xây cất  một đường rầy xe lữa  từ Vân Nam đến Miến Điện nhưng phải hủy bỏ cố gắng này vì quân Nhật tiến tới.    núi non hiểm trở   tại Vân Nam cũng như tại các tỉnh lân cận ,  và thiếu tư bản xây cất đường rầy, Vân Nam bị gạt ra  ngòai   mạng lưới xe lửa nội địa Trung Quốc   mãi cho đến năm 1966,  khi Đường Xe Lữa Quí ( Quế ) Dương, Guiyang - Côn Minh hòan tất. Đường này cũng chỉ họat động  năm 1970  cùng năm hòan tất  đường  Thành Đô , Chengdu ( tỉnh Tứ Xuyên ) – Côn Minh  . Đường   Nam Ninh, Nanning- Côn Minh đến tỉnh Quảng Tây  hoàn tất  năm 1997 ,  tiếp theo là đường   Nội Giang , Neijiang  - Côn Minh  hòan tất năm 2001. Đường Phan Tây – Panxi Railway xây cất năm 1975 có mục đích   chuyễn vận than đá từ tỉnh Quý Châu – Guizhou đã được điện hóa năm 2001    tăng thêm  chuyên chở miền Đông Vân Nam  ra ngòai tỉnh.  

  Trong tỉnh ,  đường Côn Minh  - Hứa Tây ,yuxi  khai trương năm 1993 và đường  Quảng Đông – Đại Lí  mở năm 1998 , nới rộng   mạng lưới với miền Nam và miền Tây Vân Nam .  Đường Đại Lí - Lý Giang , Lijiang  khánh thành năm  2010  đưa xe lữa đến phục vụ Tây Bắc Vân Nam . Đường này có dự tính kéo dài lên phía Bắc đến huyện Xamyi’nyilha .  Tỉnh cũng đang  nới rộng mạng đường sắt   đến các quốc  gia láng giềng Đông Nam Á.   Từ Yuxi, đường  Yuxi – Mông Tự - Mengzi  xây cất từ năm 2005  đến 2013,  và đường Mông Tự  - Hà Khẩu   xây cất từ năm 2008   sẽ có khổ  tiêu chuẩn nối với Việt Nam. Đường Dali –Ruili  xây cất từ tháng   5 năm 2011, sẽ  đến biên giới với Miến Điện . Tỉnh cũng dự tính  thiết lập đường sắt  từ Yuxi đến Mohan  ở huyện Xishuangbana-Tây Tráng Bản Nạp, biên giới với Lào . Đường  này  có thể  kéo dài thêm  phía Nam đến  Thái Lan , Mã Lai Á   và Singapore . 

                     Vân Nam, đọan xe lữa  có tên   là Đường xe lữa  quốc  tế  biên giới Hà Khẩu – Hekou   được Ủy Ban  Quốc Gia ( Tàu )   đề xướng,  để  mở rộng thêm thương mãi  giữa Trung Quốc và Việt Nam. Theo báo cáo ngày 26 tháng 9 năm 2015 của phóng viên Châu Đồng Hoa – Chudonghua, Giang Hoa Tràng- Jiang huachang,  giám đốc  ga Xe lữa Bắc Hà khẩu, thì Vân Nam sẽ hòan tất  tháng 12 năm 2015 ,  một  sân công ten nơ chở xe lữa.  Đến ngày 15 tháng 9 năm 2015,  Đường xe lữa  Trung Quốc – Việt Nam  đã  chuyễn  vận 219 500 tấn hàng hóa    ngang qua  các   thể thức  nhiều mốt – multimodal  chuyên chở quốc tế, tăng thêm 62 lần hơn so với năm  ngóai 2014.   Hà khẩu – Hekou  cảng trong đất liền  lớn nhất giữa  Trung Quốc và Việt Nam, chiếu theo các từ ngữ  thể tích chuyên chở.  Tháng 4 năm 2015,   lần đâu tiên khai trương  thể thức chuyên chở quốc tế công ten nơ  kể từ  khi  Đường Xe Lữa Vân Nam –Việt Nam   họat động cách đây  105 năm. Ngày nay, số chuyến tàu  chuyên chở theo thể   thức nhiều mốt  mỗi ngày, đã tăng  từ một mỗi phía,  đến hơn 3 chuyến  mỗi quốc gia . Mốt chuyên chở “ mới” cũng   thay cách chuyên chở   một chiều lên  mốt chất tải hai chiều  và hàng hóa chuyễn vận  gồm phân bón họa học, hóa chất, máy móc, gỗ săng  và hột cà phê .   
 
    Phát triển  chuyên chở  quốc tế thể thức quốc tế nhiều mốt  của hệ thống Đường Xe Lữa  Trung Quốc – Việt Nam  là một thành  tựu  đáng kể   những cố gắng  của Vân Nam  muốn trở thành trung tâm  tỏa chiếu  cho tòan vùng  Nam và Đông Nam Á . Tháng giêng 2015  khi thanh tra  tỉnh, tổng thống Tập Cận Bình   khuyến khích Vân Nam   phục vụ tích cực  và gia nhập  các chiến lược   phát triễn quốc gia Tàu ,  làm rực cháy một  phát triễn nhảy vọt , tự biến thành  một  vùng trình diễn  thống nhât và tiến bộ quốc gia ( Tàu ) , một tiền phong  cho xây dựng  một nền văn  minh sinh  môi và một trung tâm tỏa  chiếu  cho Nam và Đông Nam Á , góp phần  thực hiện Giấc Mơ Tàu – Chinese Dream.

          Đường Miến Điện – Burma Road
         
   
     Đường Miến Điện là một xa lộ  dài 1100km ( 680 dặm Anh )  qua đất đai núi non  từ Lashio  Đông Bắc Miến Điện   đến Côn Minh . Do Trung Quốc  khởi công   ngay lúc vừa mới  xảy ra Chiến Tranh Tàu – Nhật năm 1937  và hòan tất năm 1938 là một con đường chuyên chở khẩn thiết  cho cung cấp chiến cuộc  đến Chánh phủ Tàu  từ Rangoon  và chở bằng xe lữa đến Lashio  từ năm 1938 đến năm 1946 .  Một nới rộng chạy ngang qua nước Tàu  từ Côn Minh , rồi về phía  Bắc đến Trùng Khánh – Chongqing.  Chuyên chở  càng thêm quan trọng cho Trung Quốc   khi Nhật thật sự  chiếm bờ biển Tàu và Đông Dương .  Nhật chiếm đường này  năm 1942  và được mở lại  khi  nối  với  Đường Stillwell  từ Ấn Độ,   Đường Ledo Road ( sau đó  có tên là đường Stillwell )   từ Ledo - Ấn Độ   đến  Miến Điện   khởi công tháng12 năm 1942.  Năm 1944,   Đường Ledo  tới Myitkyina và nối liền với  Đường Miến Điện.  Cả hai đường nay đã mất hết tầm quan trọng xưa cũ  và cần sửa chửa nhiều . Đường Miến Điện  bớt  quan trọng sau thế Chiến Thứ Hai, nhưng vẫn duy trì nối kết   với hệ thống đường bộ dài 3 400 km từ Yangon- Rangoon –Ngưỡng Quảng ( Miến Điện )  đế Trùng Khánh .   


         Xa lộ


      Xây cất đường xá Vân Nam  tiếp tục rộn rịp như chưa bao giờ có : trong những năm  vừa qua , tỉnh  mở thêm những đường mới hơn bất cứ tỉnh nào khác của Trung Quốc .  Ngày nay xa lộ cao tốc – expressway nối  Côn Minh ngang Đại Lí đến Bảo Sơn – Baoshan , Côn Minh đến Mặc Giang - Mojiang ( trên đường đến tỉnh Cảnh Hồng – Jinghong ),    Côn Minh đến Khúc Tĩnh – QuJing , Côn Minh đến  Thạch, Thích Lâm-Shilin ( Stone Forest ) . Kế họach chánh thức  là nối mọi thị trấn chánh  và các thủ đô láng giềng với  các cao tốc vào năm 2010 và hòan tất  một  mạng lưới   đường cao tốc năm 2020. Mọi  thị trấn huyện  nay đều đã lát đường ,chạy được mọi thời tiết  từ Côn Minh ;  thị trấn cuối cùng được nối kết là Dương La – Yangla ở cực Bắc, nhưng Đô Long Giang –Dulongjiang vẫn không đến được sáu tháng mỗi năm . Và chỉ mới phân nữa làng xã Vân Nam là có đường đến được.   Xa lộ cấp hai quốc gia trải dài 958 km (595 dặm Anh ), cấp ba là 7571 km ( 4 704 dặm Anh )  và cấp 4 là 52 248 km ( 32 465km )   . Tỉnh đã hình thành một mạng lưới    đường giao thông   tỏa ra từ Côn Minh  đến Tứ Xuyên – SichuanQuý Châu – Guizhou , Quảng Tây và   vùng tự trị Tây Tạng , và xa hơn nữa đến Miến Điện, Lào, Việt Nam và Thái Lan . Xa lộ  chạy suốt  tỉnh Vân Nam là  các  xa lộ quốc  gia Tàu 108 , 213,. 214, 320, 323 , 324, 326 .


   Cao tốc – Expressways

   
      Sau khi khai thông  Cao tốc  từ  Tỏa Long Tự - Suolongsi đến  Bình Nguyên  Kiệt –Pingyuanjie , cao tốc Lạc Phủ - Luofu   đầu tiên   giữa Vân Nam và Quảng Tây , khai thông tháng 10 năm 2007, giúp chuyên chở  vật liệu và hành khách giữa hai tỉnh thuận tiện hơn.  Cao tốc Lạc Phủ khởi đầu từ  đừơng rẽ làng Lạc Phủ giữa hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây   và chấm dứt  ở huyện Phù Ninh –Funing thuộc Văn Sơn – Wenshan.  Tổng chiều dài là 79.3 km   rút ngắn thời gian  di chuyển từ Vân Nam đến Quảng Tây  xuống chỉ còn 50 phút thay vì 3 giờ rưỡi.  Cao tốc trong nội địa tỉnh Vân Nam là  các cao tốc Côn Minh – Bangkok – Vọng Các,   DaLi G 5611 từ Đại Lí đến Lý giang – Lijiang ,  Sơn Côn – Shankun  G78 từ  Sán Đầu  – Shantou đến Côn Minh, Quảng Côn – Guangkun G80  từ Quảng Châu  đến Côn Minh,    Khải Hà- Kaihe  G 8011  từ Khải Nguyên – Kaiyuan  đến Hà Khẩu  ở biên giới với Việt Nam , 

    Đường sông - water ways

    Tổng qúat  sông là rào cản  chuyên chở cho tỉnh. Chỉ một phần nhỏ các hệ thống sông ngòi  Vân Nam là đi lại được.  Tuy nhiên , Trung Quốc đang xây dựng một số đập  trên sông Mê Kông để  phát triễn  chúng thành những đường sông  và nguồn gốc thủy điện . Đập đầu tiên  hòan tất năm 1993 là đập Manwan như đã nói trên. Năm 1995 , Vân Nam  đầu tư 171 triệu Nhân Dân Tệ  để  thêm 907 km ( 501 dặm Anh )  cho giao thông đường sông . Tỉnh đã làm hai bến tàu  khả năng  mỗi bến  hàng năm là 300 000 đến 400 000 tấn  và 4 bến tàu  mỗi bến khả năng hàng năm là 100 000 tấn. Tổng thể tích hàng năm  chở hàng hóa là  2 triệu tấn  và 2 triệu hành khách .                              

    Phi trường

     -Tỉnh có 20 đường bay  nội địa  từ Côn Minh đi Bắc Bình , Thượng Hải , Quảng Châu, Thành Đô , Hải Khẩu , Trùng Khánh , Thẩm Dương , Cáp Nhĩ Tân –Harbin,  Vũ Hán , Lan Châu , Hạ Môn , Nam Ninh, Thẩm Dương, Quế  Dương , Tràng Sa , Quế Lâm, Lhasa và Hồng Kông  ; 10 đường    bay trong tỉnh  từ Côn Minh đi Tĩnh Hồng – Jinghong ,  Mạnh Thạch – mangshi , Lâm Thương- Lancang ,  Tengchong , Lý Giang , Đại lí , Xamgýinyilha,  Zhaotong,   Baoshan ,  và Simao  : 10   đường bay quốc tế   từ Côn Minh đi Bangkok ,  Kolkata – Calcutta, Chiêng Mai,  Yangon, Singapore,  TP HCM – Sài Gòn,  Kuala Lumpur ,  Viên Chanh – Vientiane.   Phi trường quốc tế Côn Minh  Trường Thủy-  Changshui  khai trương ngày 28 tháng 2 năm  2012  thay thế  phi trường Côn Minh Wujiaba cũ .   


 Danh Lam Thắng Cảnh Vân Nam     

 

Thành cổ Đại Lý Vân Nam

 

 Năm 2004, lợi tức  du lịch thâu về cho tỉnh là 37 tỉ RMB , chiếm 12.6 % GDP tỉnh.  Năm 2010, tỉnh  đón chào  trên 2.3 triệu du khách ngọai quốc và   tỉnh cố đạt 4.3 triệu  khách ngoại quốc  đến trong thời gian 2012 - 2016 . Còn kém Việt Nam, năm 2013 đã có trên 7 triệu du khách  ngọai quốc. Các trung tâm  du lịch Vân Nam là : 
-DaLi , trung tâm  lịch sử   của hai vương quốc  Nam Châu – Namzhao  Đại Lí 
Chu Xiong là nơi ngừng đầu tiên   giũa Đại lí và Lijiang , quê huơng của tộc dân Yi và là thị trấn  xưa củ của Yi 
Jing hong trungtâm và  huyện lỵ  huyện Xishuangbanna, huyện tự trị của tộc dân Đai-   Lijiang , thị trấn của tộc dân  Naxi , được UNESCO  công nhận là Di sản Quốc tế từ năm 1997 
-  Xamgyi’nyilha ( còn có tên là  Shangri-La, trước đây là   Zhongdian ), một   thị trấn  tộc dân Tây Tạng   trên cao các núi  Tây Bắc 
- Thạch ( Thích) Lâm -Shilin  là một lọat núi karst ( đá vôi )   phía Đông Côn Minh -  Nguyên ( Viên ) Dương 
– Yuanyang nơi định cư của  tộc dân Hani- Hà Nhì , chứa nhiều ruộng bậc thang  trên núi-   Tây Hòang Bản Nạp Xihuangbanna   là một  cảnh tượng  nghĩ dưỡng  quốc gia Tàu , có những hút dẫn  nổi tiếng thiên nhiên - văn hóa …   

           ( Irvine , Nam Ca Li , ngày  4 tháng 10 năm 2015 ) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét