Thứ Tư, 7 tháng 7, 2010

Tài Chánh Trung Quốc

               Làm sao đương đầu với uy lực tài chánh Trung Quốc
                                          G S Tôn Thất Trình
     

Việt Nam đã và đang phải đương đầu khó khăn công cuộc phục hồi việc Trung Quốc tàn phá các tỉnh miền Bắc sau cuộc xâm lăng của Đặng Tiểu Bình ” dạy Việt Nam một bài học là đã  dám xua đuổi chế độ Khmer đỏ khát máu Pol Pot, Trung Quốc bảo trợ, đe dọa miền Nam ở các vùng Tây Ninh , An Giang , Châu Đốc , Tịnh Biên - Hà Tiên , khỏi Cam Bốt năm 1979 “...


               ... Đẩy lui quân xâm lăng truyền thống Tàu  về biên giới như các cha ông anh hùng đã làm,  nhờ chiến cụ và bảo trợ của Liên Xô (Liên Bang Sô Viết ( ? ) . Nhưng sau đó,  lại phải mất luôn các đảo Hoàng Sa và nhiều đảo Trường Sa,  Biển Đông, đôi chút lảnh thổ thuộc vài tỉnh biên giới chung với Trung Quốc và một phần lảnh hải Vịnh Bắc Bộ.  Nay lại phải chống đở đe dọa xâm lăng kinh tế , tài chánh… còn nguy hiểm hơn nữa,  của một Trung Quốc mỗi ngày một lớn mạnh, đang trở thành cường quốc  thứ hai thế giới ( ? ) về  uy lực kinh tế, tài chánh , trong khi  phát triễn và chấn hưng nền kinh tế nước nhà  vẫn còn phụ thuộc quá lớn vào đầu tư và kỹ thuật  Hoa - Tàu  ( Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên…) .

Sau đây là phần lớn quan điểm của Ken Miller , tổng giám đốc điều hành vã chủ tịch hảng ngân hàng thương mãi  Ken Miller Capital LLC , giám đốc  Đình tạ Hoa Kỳ  ở Triễn Lãm  Thế Giới năm 2010 tại Thượng Hải, hội viên  của Ủy Ban Cố Vấn về Chánh sách Kinh tế Quốc tế cho  Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đăng ở báo  Ngoại vụ - Foreign Affairs số tháng 7/8 năm 2010, về uy lực tài chánh ngày nay của Trung Quốc, thiết tưởng Việt Nam cũng nên biết qua .
       
             Phương diện tài chánh của chính sách ngoại giao Bắc Bình
       
Phương sách phải triễn kinh tế  của Trung Quốc  đã biến  quốc gia này thành một  khổng lồ nghiêng lệch, một nước xuất khẩu  hạng xe tải nặng khổng lồ cán nát bất cứ ai , có một cánh tay tài chánh dài thòng. Tiếp theo  những cải cách Đặng Tiểu Bình năm 1979 , doanh nghiệp Trung Quốc đã khởi sự  sử dụng  xuất khẩu  nhân công rẽ , tư bản rẽ  để cạnh tranh  trên thị trường thế giới, với hiệu năng mỗi ngày mỗi tăng.  (may mắn cho Việt Nam  là nhân công nay có phần rẽ hơn Trung Quốc , tuy bất lợi cho giới  lao động , dân nghèo , chưa được huấn nghệ đúng mức). Trợ cấp của Trung Quốc, trực tiếp, xuyên qua  tiền vay thuận lợi  cho doanh nghiệp và hối xuất  thuận lợi cho người ngoại quốc mua hàng hóa Trung Quốc.  Và gián tiếp, qua thể thức  các nhà kinh tế học gọi là “ đàn áp tài chánh - financial repression “ bằng cách đặt ra kiểm soát  đầu tư của các công dân Trung Quốc giúp  thu thập  tư bản vào doanh nghiệp Trung Quốc. Ngân hàng Nhân Dân  Trung Quốc  đã thu lượm  một phần khá lớn  thành quả lợi lộc thương mãi  đồ sộ và dòng tiền mặt chảy vào  - cash inflow. Cuối năm 2009 , Ngân hàng đã  nắm giữ 2.4 ngàn tỉ - trillion đáng giá của  hối đoái ngoại quốc.( hầu so sánh , kiều hối Việt kiều gửi về giúp cân bằng cán cân tiền tệ Việt Nam năm 2010, theo ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam cho biết, có lẽ chỉ khoảng 6- 7 tỉ đô la Mỹ ).  Đây là số lượng hối đoái ngoại quốc lớn nhất của  bất cứ một  ngân hàng trung ương thế giới nào làm chủ, nhưng chưa phản ảnh dự trữ của những ngân hàng  thương mãi chánh Trung Quốc. Hơn nữa,  con  số này sẽ tăng thêm 300 tỉ đô la Mỹ nữa, năm 2010.

        Từ trước đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ có uy lực  tài chánh mạnh như thế cả và bây giờ Trung Quốc đang thí nghiệm cách nào  dùng uy lực này  tốt nhất vào những  mối liên hệ với các quốc gia khác.  Một mục tiêu then chốt của tổng thể chánh sách ngoại giao Trung Quốc là cố  tái hội nhập Đài Loan , nhưng đích nhắm chính  của chánh sách ngoại giao tài chánh Trung Quốc là khích lệ  tăng trưởng kinh tế  và tạo công ăn việc làm  trong nước. Đeo đuổi mục tiêu này, chánh phủ Trung Quốc đã thụ hưởng một tính cách hợp pháp to lớn, được kiêu hảnh quốc gia  hổ trợ, vì đã  biến Trung Quốc thành  một trung tâm  trật tự  vĩ đại thế giới một lần nữa.  Tham nhũng ,  bất bình đẳng tăng thêm  , hạn chế tự do, và tàn phá môi sinh  là những thách thức cho Đảng Cọng Sản  Trung Quốc - Chinese Communist Party - CCP.  Thế nhưng CCP vẫn giữ chánh quyền, duy trì an định này, nhờ tiếp tục phát triễn kinh tế và tạo công ăn việc làm ở Trung Quốc.

        Trung Quốc   hiện đang ở giai đoạn sớm  tăng gia ảnh hưởng mình  trên tài chánh quốc tế, dù rằng đôi khi có vẽ quá tham vọng, nhưngTrung Quốc đã tỏ ra thận trọng. Tháng 3 năm 2009, chủ tịch Ngân Hàng Nhân Dân   Trung Quốc kêu gọi  chấm dứt dùng đồng đô la Mỹ  như thể là một tiền tệ dự  trữ thế giới  thay bằng  một loại tiền tệ mới  do Quỹ Tiền tệ Quốc tế -International Monetary Fund, IMF, sẽ tạo dựng . Tuy nhiên  chưa thấy dấu hiệu gì  là chánh phủ Trung Quốc  có ý định đẩy mạnh sắp tới chánh sách này . Tương tự như thế, Trung Quốc di chuyễn quốc tế đồng tiền tệ của mình là nhân dân tệ - renminbi ( đồng Nguyên hay đồng Viên -Yuan ),  đã tăng dần thật đều đặn.  Trung Quốc  đã ký kết đổi chác tiền tệ  với Á Căn Đình - Argentina, Belarus,  Hồng Kông, In đô nê xia, Mã Lai Á , và Hàn Quốc ( Nam Hàn ). Trung Quốc đã  khởi sự cho phép vài quốc gia  dùng nhân dân tệ  trả tiên nhập khẩu hàng Trung Quốc . Và  nay đã để cho  các doanh nghiệp  căn cứ ở Thượng Hải  và 4 thành phố khác miền Nam tỉnh Quảng Đông,  dùng nhân dân tệ trả tiền mua  hàng nhập khẩu vào Trung Quốc.  Nhưng  Bắc Bình   chưa dám  để trương mục tư bản mình chuyễn hoán , nghĩa là để cho đồng  nhân dân tệ  chuyễn đổi tự do  thành ngoại tệ  ( và ngược lại ) . Các nhà lảnh đạo Trung Quốc  có thể để cho  công dân Trung Quốc   chiếm giữ  những vị trí chánh  tại IMF  và  Ngân Hàng Thế Giới, nghĩ đến tham gia  các cơ quan mới  tài chánh vùng  và đề xướng  chuyễn đổi  nhân dân tệ  ở ngành thương mai vùng, nhưng hiện nay chúng vẫn còn trong sập bẩy thế giới đô la Mỹ .

        Thế cho nên chánh sách ngoại giao  tài chánh Trung Quốc vẫn còn  dựa trên hai chiến lược đơn giản : tích lũy  dự trữ ngoại tệ  và gửi tiền ra ngoại quốc - dưới hình thức  đầu tư trực tiếp , viện trợ ,  phụ giúp , và cho vay - hầu  bảo đảm nguyên liệu ( vật liệu thô hào ), kỷ thuật mới,  mức hiểu biết xử lý ( quản trị ), và mạng lưới phân phối  cũng cố tăng trưởng nội địa  cùng tính cách hợp pháp của CCP. Chánh sách này khiến cho ai đó phải thêm  thận trọng về mất căn bằng các cân thương mãi toàn cầu, phiền muộn  về phương cách Trung Quốc sẽ sử dụng  ảnh hưởng tài chánh   Hoa- Tàu tương lai.  Nhiều chức quyền Chánh phủ Hoa Kỳ và các chuyên gia về Trung Quốc  nghĩ rằng Trung Quốc sẽ không dùng sức mạnh tài chánh mình làm gián đoạn thị trường tư bản quốc tế.  Nhưng sức mạnh này cũng đáng lưu tâm, ngay cả khi không thực thi nó.   Và chính  sức mạnh  uy vũ tài chánh chưa bao giờ thấy của Trung Quốc  nay đã cho phép Bắc Bình gây thêm ảnh hưởng  trên mọi khía cạnh của nền kinh tế toàn cầu.
            
        Mức giàu có giữa các quốc gia

        Dự  trữ ngoại tệ quá kích thước ( qúa cở ) Trung Quốc là một  vận động thị uy của  quốc gia  có tỉ xuất tiết kiệm rất cao và những giới hạn nặng nề trên cơ hội đầu tư các tiết kiệm này.  Dân chúng Trung Quốc  vẫn không có thể  gửi  nhiều tiền ra khỏi nước : vì đó là  bất hợp pháp; tỉ dụ như  ai đó đầu tư  hơn 350 000 yuan ( khoảng 50 000 đô la )  một năm ở ngoại quốc.  Thị trường chứng khoán Tàu, trao đổi tùy thuộc tin đồn  và đổi thay chánh sách của chánh phủ, rất là hời hợt, không ổn định gì cả. Thị trường gia cư là một đầu cơ  khổ đau thăng trầm theo  thịnh vượng và sa sút.  Ký quỉ ngân hàng là nơi  an toàn nhất để  gửi tiết kiệm, đã trả tiền lời âm - negative interest  nếu ai đó  tính thêm lạm phát vào trương mục.

         Khi kinh tế Trung Quốc trở nên  cao năng hơn và khi tin tưởng của CCP về  kế hoạch  kinh tế nội địa  tăng thêm trong hơn 10 năm qua, chánh phủ Trung Quốc bắt đầu xây nền móng cho  bành trướng hiện diện tài chánh Tàu ở hải ngoại. Những mục tiêu của Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc  luôn luôn cố gắng trước tiên  là bảo tồn tư bản, thứ đến là thừa tiền thanh toán- liquiditylợi nhuận - profitability.  Thuở ban đầu  của mô hình tiết kiệm -và -xuất khẩu, chánh phủ mua công phiếu - obligations  của các chánh phủ ngoại quốc và mua vài lô vàng.  Rồi mười năm qua, với giá trị đồ sộ  số lượng tích trữ, Trung Quốc khởi sự thí nghiệm những lề lối mới đầu tư ngoại quốc, chẳng hạn mua chứng khoán- securities không thuộc chánh phủ.  Kích thước dựng đứng cao ngất dự trữ ngoại tệ Trung Quốc ngày nay, phối hợp cùng  nhận thức là mức dự trữ sẽ tiếp tục tăng gia, tạo  cho Trung Quốc  một ảnh hưởng quá cở trên thị trường tài chánh  quốc tế,  so với lợi tức thấp kém mỗi đầu người Tàu trong nước .

         Những món tiền đồ sộ như thế  cho phép Trung Quốc  đủ sức mạnh làm gián đoạn những thị trường Ngân Khố Hoa Kỳ và các nợ nần tính  theo đồng euro. Dù rằng những can thiệp này sẽ là tự hủy và Trung Quốc đang và đã tham gia thị trường tài chánh thế giới  một cách  phức tạp và  trách nhiệm hơn, các nhà chỉ trích vẫn nhấn mạnh  đến tiềm năng  Trung Quốc xén bớt kinh tế thế giới . Họ lo ngại Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương, nếu Trung Quốc  mua những công phiếu Ngân Khố Hoa Kỳ, hay tệ hại hơn nữa, bắt đầu bán tháo đổ các nợ  Hoa Kỳ. Ít nhất theo thống kê  công cọng của Ngân Khố Hoa Kỳ, Trung Quốc đã  cho Mỹ vay  theo  những thời gian   càng ngày càng ngắn hạn hơn. ( nhưng vì các công phiếu ngân khố Hoa Kỳ  mua qua trung gian, nên  tiến trình có vẽ mờ tối, không một ai biết được con số đích xác ).  Trong số 2801 tỉ đô la Mỹ  chứng khoán Hoa Kỳ, Trung Quốc mua thêm  năm 2009 vào tổng số  chứng khoán, có đến 130 tỉ  là nợ ngắn hạn. 151 tỉ còn lại là con số tăng gia  nhỏ nhất hàng năm về  nợ Hoa Kỳ dài hạn, kể từ năm 2004 . Trung Quốc che dấu đô la Mỹ  và các ngoại tệ khác, có thể gia giảm theo thời gian. Nhưng hiện nay  ( song song với  thặng dư thương mãi Trung Quốc ) vẫn là điểm nhức nhối cho các nhóm cử tri quan trọng ở Hoa Kỳ và ở Âu Châu.

           Tuy nhiên sự thật là cả hai bên, Hoa Kỳ và Trung Quốc, đều là con tin bị bắt giữ. . Hoa Kỳ  cần Trung Quốc mua công phiếu Hoa Kỳ, và trong tương lai nhìn thấy được, Trung Quốc có ít nơi khác đồng đô la Mỹ  để tồn trữ giá trị ngoại tệ đã tích lũy. Theo  Cục Thống Kê Quốc gia Trung Quốc, thặng dư  thương mãi năm 2009 là 196 tỉ đô la,  trụt xuống từ 298 tỉ đô la  năm  2008. ( Xin nhắc lại là năm 2009, Việt Nam xuất khẩu chừng 15 tỉ đô la sang Hoa Kỳ ). Nhưng ngay cả vào năm 2009,  tiền nợ theo đồng euro, đồng phật lăng Thụy Sĩ , đồng yên Nhật và vàng kim,  không đủ để  hấp thu hết dự trữ Tàu. Trung Quốc có thể  ngày nào đó quyết định giữ đô la ngoài hệ thống Ngân Khố Hoa Kỳ, đặc biệt  khi lãi xuất  thấp. Nhưng dưới phần lớn  trường hợp  bình thường, làm như vậy sẽ  gia giảm giá trị đồng đô la Trung Quốc cầm giữ, sẽ gây nên gia giảm mạnh mẽ, làm rối loạn  quá nhiều tài chánh, khiến  chế độ không còn di chuyễn được  như trước đóHoa Kỳ trả đủa, dưới hình thức ngăn cấm thương mãi, có thể làm kinh tế Trung Quốc tổn thương lớn hơn nữa, vì khả năng chánh phủ Tàu  cung cấp công ăn việc làm  cho nhân công Tàu  tùy thuộc vào việc  gia nhập thị trường Hoa Kỳ.                  

        Các nhà làm chánh sách ở Hoa Thịnh Đốn lẽ dĩ nhiên phải  xét đến khả năng của Băc Bình sẽ hành động  theo những phương cách tự hủy hoại. Nhưng đây cũng là một sự kiểm tra nội địa chánh bảo đảm thái độ tài chánh tốt đẹp của chánh phủ Trung Quốc. . Con số 2.4 ngàn tỉ  Ngân Hàng Nhân dân Trung Quốc nắm giữ  đã được  cho cả cấp lảnh đạo tại Bắc Bình lẫn công dân Tàu  thông hiểu rộng rải đó là tiền mồ hôi nước mắt của dân  chúng, thành quả công  lao  cố tâm , cố sức làm việc của họ .  Lảnh đạo đã bị  một thác lũ  dân gian chỉ trích mỗi khi  tiết kiệm của dân Tàu bị đầu tư kém cỏi. Cảm giác duy nhất có cơ cân nặng hơn,  là nhiệt tình ái quốc của dân Tàu.  Đó là lý do tại sao  chánh phủ  Bắc Bình  đã khổ tâm   cố  gắng không bao giờ   tỏ vẽ nhân nhượng  áp lực ngoại quốc.  Các chánh phủ tây phương  cũng không mấy thành công quấy nhiễu Bắc Bình tăng giá trị  đồng nhân dân tệ, giống như tổ hợp Google cố bảo đảm đường vào Internet, không chút nào giới hạn, cho các khách hàng Tàu ở Trung Quốc.  Tất cả mọi điều này có nghĩa là  chánh phủ  Trung Quốc  không thể nào phá tan tành hệ thống tài chánh quốc tế  mà vẫn nắm giữ được chánh quyền, trừ phi tinh thần ái quốc  thắng hẳn  mối ưu lo dân gian về trị giá, một kích bản khó lòng xảy ra.

        Trung Quốc xử dụng dự trữ  ngoại tệ của mình ở thị trường tiền tệ quốc tế  nhắm vào xử lý trị giá đồng nhân dân tệ - renminbi, một thành phần  thông thường của  chánh sách tiền tệ ở bất cứ một nước nào. Tương tự Dự trữ Liên Bang Hoa Kỳ - US Federal Reserve, vai trò Ngân Hàng Nhân Dân  là tạo ra một môi trường tối đa hóa  tình trạng đầy đủ công ăn việc làm  và giá cả ổn đinh ở Trung Quốc. Hơn nữa, cách xử lý trách nhiệm  của Trung Quốc dự trữ ngoại tệ cho đến nay, đã giúp Bắc Bình hình thành những liên hệ  giá trị  với những nhà  xử lý tài chánh dẫn đạo khắp  nền kinh tế toàn cầu . Hoạt động bình thường  thị trường- mới  Bắc Bình,  mua bán mỗi ngày nhiều tỉ đô la Mỹ dụng cụ tài chánh , đã giúp Bắc Bình  tiếp xúc  kề cận  những kẻ  đóng vai chánh ở thị trường  hối đoái. Các dòng  tài chánh hàng ngày này đã làm hạ giá lãi xuất,  trong lúc đó vẫn  tăng thêm tình trạng có tiền dễ dàng và ổn định,  trên thị trường tài chánh quốc tế .
                    
Thoát ra ngoài ( một thể  thức doanh nghiệp Việt Nam chưa kịp tiến đến, ngoài vài thực hiện nho nhỏ như cao su… ở Nam  Lào , Bắc Cam Bốt… )

Sau khi đã đặt sân khấu cho tăng trưởng kinh tế, xuyên qua  các chánh sách tiền tệ , Bắc Bình cố gắng tạo ra công ăn việc làm và bảo đảm các  đầu vào, Bắc Bình tin tưởng  sẽ khích lệ tăng trưởng nội địa  theo những giao dịch  trực tiếp với các chánh phủ khác.  Ở chánh sách ngoại giao song phương, Bắc Bình ưa thích  những dụng cụ đầu tư trực tiếp  có phần nào thiếu sắc sảo, cấp không thẳng thừng- outright grantsnhững cho vay gọi là nhân nhượng - concessional  loans; những cho vay có điều khoản hào phóng hơn là ở thị trường.

Đầu tư trực tiếp ỏ quốc ngoại , thường được gọi là “ đầu tư trực tiếp ngoại quốc - foreign direct investment “ - FDI  giúp cho một quốc gia chiếm hửu kiểm soát trên tài nguyên , đi vào kỷ thuật ( mới ) và thông tin  về những gì đang xảy ra  bên ngoài biên cương nước Tàu.  Chánh phủ Trung Quốc khởi sự khuyến khích  FDI từ doanh nhân Tàu năm 1999 , nhưng chánh sách “ thoát ra - go out “ này bắt đầu một cách chậm rải.   Lúc đó , Trung Quốc  tụ điểm  vào  tu sửa lảnh vực quốc doanh còn quá vá víu, và lảnh vực tư nhân cũng  còn quá yếu  để  phát triễn đại trà , kích thước lớn . Chánh sách này chồm  lên năm 2005 , không mấy xa , sau khi dự trữ  của Ngân Hàng Nhân Dân khởi sự leo cao  và các doanh nghiệp quốc gia làm chủ , tự kiếm  ra vị trí  tốt hơn để  hướng dẫn tấn công vào lảnh vực đầu tư quốc ngoại Tàu.  Rồi thì, khi  nhu cầu về năng lượng  và nguyên liệu châm ngòi cho tăng trưởng kinh tế phồn thịnh thêm,  nước Tàu tìm kiếm tài nguyên khắp thế giới.( trong đó có bô xít , sắt, vài đất hiếm (? ) …Việt Nam )

Trong mười năm đầu tiên  của chánh sách thoát ra ngoài, Á Châu  luôn luôn là vùng, là lục địa  các công ty Tàu để ý đến nhất . Nay thì Trung Quốc mỗi ngày mỗi tăng thêm chú ý ở Phi Châu và ở Nam Mỹ.  Chánh phủ Trung Quốc  đề xướng mạnh mẽ  đầu tư dầu lữa và khí dầu , mỏ và kim loại cùng dịch vụ tài chánh, nhưng cũng  hầu như  đầu tư  trên mọi  lảnh vực kinh tế khác. Theo thời gian, chánh phủ Trung Quốc  đã đặt thêm trọng tâm  vào thu nhập kiến thức  hiểu biết- know how : một trong  những mục tiêu của  Tổ Hợp Dầu Ngoài Khơi Quốc gia - China National Offshore Oil Corporation  CNOOC,   cố gắng  chiếm lấy khổng lồ  năng lượng Hoa Kỳ tổ hợp Unocal  năm 2005, là để có được kỷ thuật ( tân tiến )  thám hiễm  và sản xuất năng lượng.

Đa số FDI Tàu do các doanh nghiệp  quốc gia làm chủ.  Dù rằng  các doanh vụ tư nhân  càng ngày càng thêm sáng kiến, nhưng đầu tư lớn  vẫn được  các cơ quan chánh phủ điều phối. Những ngày đầu tiên của chánh sách, doanh nghiệp có khuynh hướng  tiêu xài  tiền mặt dự trữ của chính mình, nhưng ngày nay,  lại được các ngân hàng lớn quốc gia hổ trợ, tỉ như  Ngân Hàng Trung Quốc - Bank of China,và  Ngân Hàng Xuất Nhập Khảu Trung Quốc - Export-Import Bank of China cung cấp nhiên liệu tài chánh. Trong khi các công ty Hoa Kỳ đi vào  thế giới  cố tìm lợi nhuận, chỉ có sự can thiệp tối thiểu của chánh phủ, hầu như  tất cả đầu tư quốc ngoại các công ty Tàu đều phải có  một mức chấp thuận nào đó của quốc gia.

Bắc Bình đứng sau lưng các đầu tư Tàu đã đến rồi. Thủ tướng Ôn Gia Bảo -Wen Jiabao tuyên bố  ở một báo cáo về hoạt động chánh phủ ( tương đương lỏng lẻo với  thông điệp  Tình trạng của Hợp Quốc Hoa Kỳ - US State of the Union address  của Tổng thống Hoa Kỳ)  giải tỏa tháng 3 năm 2010, thì Bắc Bình sẽ ủng hộ  những công ty đủ tư cách  khi sáp nhập hay thu nhận các công ty  ngoại quốc,  và  cống hiến cho các công ty này  nhiều tự trị hơn, để đầu tư ở hải ngoại.  Muốn duy trì  tuyệt đối quản lý giá trị tiền tệ, chánh phủ kiểm soát chặc chẽ  các thị trường tư bản phần lớn căn cứ trên tài trợ ngân hàng và phát hành cổ phần không có lãi xuất cố định - equity. Các công ty Tàu sẽ được chấp thuận đầu tư hải ngoại dễ dàng hơn.  Ngọai trừ những giao dịch rất lớn  hay rất nhạy cảm  chánh trị   cần được được Bắc Bình duyệt xét lại kỷ lưỡng , đa số các dự án  này được các  văn phòng địa phương  của bộ Thương mãi và  Ủy Ban Phát triễn và Cải Cách Quốc Gia , kỳ hạn lâu nhất trong vòng 1 tháng rưỡi, cho phép tiến tới và hối đoái  cần thiết  thường được cấp ngay sau đó. Tuồng như chánh phủ luôn luôn   có ý định khuyến khích  đầu tư ở hải ngoại; khuyến khích mỗi ngày  mỗi tăng thêm nhiều lảnh vực khác, tại nhiều vùng khác hơn.  Trong kế hoạch hoạt động mới nhất, bộ Thương Mãi  lần đầu tiên nói chi tiết  chú tâm  về công nghệ chế tạo, công nghệ cao kỷ , năng lượng sạch,  những nhãn hiệu danh tiếng  ở hải ngoại, và mong muốn chế biến tài nguyên ở ngoài nước hơn là chở  chúng trở lại Trung Quốc

 Chú tâm này khiến cho  FDI  Tàu  có phần ít hơn  là mức độ chúng ta chờ đợi . Năm 2009,  các công ty Tàu chỉ đầu tư 48 tỉ ở hải ngoại, khoảng 1%  GDP Trung Quốc . Các công ty Hoa Kỳ đã đầu  tư hơn 340 tỉ đô la, khoảng 2.4%  GDP Hoa Kỳ.  Đến cuối năm 2009 , tổng số FDI Tàu tích trữ là 221 tỉ đô la, khoảng 4.3 % GDP Trung Quốc . Còn Hoa Kỳ, con số ước lượng là  3 .245  ngàn tỉ, khoảng 23 % GDP Hoa Kỳ. Theo tiến triễn tỉ xuất này  thi đến năm 2047 , FDI Tàu mới mong đuổi kịp Hoa Kỳ .

 Úc Châu và nhiều nước đang mở mang khác kháng cự các mua bán xí nghiệp , tổ hợp quá lộ liễu (còn Việt Nam thì sao ?)

 Khác biệt  một phần là thành quả  việc có nhiều rào cản  cho  doanh nghiệp Tàu đầu tư ngoài lục địa Trung Quốc. Một rào cản này là  nổi oán giận chống các công ty quốc doanh, chánh phủ làm chủ,  vì dân gian địa phương ý thức là chúng  đã có trách nhiệm  chiếm giựt bớt công ăn việc làm, có khi cả gia cư của các cư dân địa phương tại những nước chúng đầu tư ( Tương tự đầu tư Tàu vào khai thác, chế biến bô xit, thiết lập dài hạn các rừng trồng thuê mướn lâu năm  ở Việt Nam: trồng bạch đàn, bạch dương…  ở Cam Bốt ?  ). Các công ty Tàu đã gặp phải  kháng cự dữ dội ở  cố tâm lộ liễu  mua các công ty  ngoại quốc, đặc biệt ở Hoa Kỳ. Công Ty Tàu Lenovo  mua thân thiện doanh nghiệp computer cá nhân IBM giá 1. 7 tỉ năm 2005,  có vẽ là một ngoại lệ. Năm đó, Chevron tổ chức một chiến dịch  quan hệ quần chúng - public relations, động viên tình thần bài ngoại của dân Hoa Kỳ chống lại CNOOC,  đã cố gắng  mua đứt  hảng Unocal, căn cứ tại bang California , Hoa Kỳ. Ngay sau đó, Chevron đã thuyết phục CNOOC  là Quốc hội Hoa Kỳ sẽ chống đổi  việc mua bán này và làm cho CNOOC phải bải bỏ  đấu thầu  mua Unocal, giá  19 tỉ đô la Mỹ.  Tháng hai năm 2008,  hảng tài nguyên thiên nhiên Úc  BHP Billiton  muốn mua chiếm  hảng Úc Rio Tinto, chánh phủ Trung Quốc  cung cấp cho  Tổ hợp  Aluminium  Trung Quốc  Chinalco , ( tổ hợp khai thác bô xít Lâm Đồng và Đắc Nông ở Việt Nam )  để giúp trúng thầu. Cũng cố  giữa BHP và RioTinto, hai nhà cung cấp chánh  quặng sắt , một thành phần then chốt  sản xuất thép  cần thiết xây đắp hạ tầng cơ sở , có thể  làm  giá quặng sắt lên cao ; cho nên  Úc muốn  phá hư giao dịch.  Hai năm sau, Chinalco  đã xử lý  chỉ bảo đảm một vị trí thiểu số khiêm tốn ở cổ phần chung của RioTinto và  BHP  Billiton.  BHP  Billiton  hiện đang trên  con đường  phối hợp với Rio Tinto, theo thể thức  một công ty  hợp doanh.  Ở Úc Châu hay ở các nước đang mỏ mang khác , các công ty Trung Quốc  đã có một vài tiến bộ  đặc biệt ở các giao dịch tài nguyên thiên nhiên nhỏ , nhưng họ lại gặp  chống đối mảnh liệtở  những cố gắng mua đứt  tại những nền kinh tế đang phát triễn.

FDI Tàu cũng bi ngờ vực về cơ hội đầu tư  hải ngoại  giới hạn, từ các doanh nghiệp Tàu. Rất nhiều doanh nhân  đã lo âu  khi các giao dịch  thất bại hải hùng , tuy rằng ban đầu  giao dịch tuồng như hứa hẹn. Tháng 10 năm 2004, Tổ hợp Công Nghệ Ô tô Thượng Hải - Shanghai Automotive  Industry Corporation  trả 500 triệu đô la  để có được 51 % cổ phần  của công ty Hàn Quốc làm xe hơi   Ssang Yong Motor  với dự tính to lớn  xây dựng một  xe hơi Tàu, sử dụng kỷ thuật  Hàn Quốc và biến tổ hợp Thượng Hải này thành một công ty Tài Sản - Fortune 500. Nhưng đầu tư này gây ra nhiều vấn đề với các nghiệp đoàn  từ lúc khởi sự. Năm 2009, sau một loạt tranh cải trầm bổng với nhân công Hàn Quốc,  SsangYong Motor  đã tuyên bố phá sản.  Hảng bảo hiểm  Bình An - Ping An tọa lạc tại Thẩm Quyến - Shenzhen  hy vọng có thêm chuyên môn xử lý tích sản  bằng cách đầu tư  vào công ty  Hà Lan  Nhóm Fortis Group , cuối năm 2007, nhưng sau một thời gian ngắn ngủi, cố gắng trở thành  hủy bỏ 3.3 tỉ đô la. Cũng năm đó, TCL một hảng chánh chế tạo ti vi Tàu, cũng gặp phải bất hạnh khi  làm  xí nghiệp hợp doanh cùng Thomson Electronics ở Pháp , đau đớn thua lỗ lớn  ở Âu Châu, khiến  hảng phải thu nhỏ lại, đóng cửa hay bán đi những hoạt động ở Âu Châu

Viện Trợ có dây trói, ràng buộc

Một phần vì những động lực này, chánh phủ Tàu đã quyết định sớm là không thể dựa duy nhất vào các công ty quốc doanh và các doanh nhân khu vực tư để đầu tư hải ngoại. Năm 2007,  chánh phủ thiết lập một quỉ  Tài sản Tối cao , Độc lập Tổ hợp Đầu tư Trung quốc - China Investment Corporation CIC , tư bản khởi sự là 200 triệu đô la.  Sau những vấp ngã đầu tiên  dầu tư cùng nhóm Blackstone Group  và Morgan Stanley ,  và trong khủng hoảng tài chánh thế giới gần đây,  thua lỗ  ở quỉ tưởng là an toàn: Quỉ Dự trữ Sơ Khởi- Reserve Primary Fund, CIC có vẽ  đã tìm thấy chỗ đứng vững chắc.  Đầu tư của CIC đã  lời 17%  năm 2009 .  Hiện nay quỉ đang quản trị hơn 300 triệu đô la và có thể có nhiều ngân khoản thêm nữa. CIC cấp tư bản cho  các nhà xử lý tiền tệ không phải là Tàu   và các công  ty cá nhân tích cực,  đã chứng minh tài nghệ,  ở những lĩnh vực tỉ như tài nguyên thiên nhiên  và kỷ thuật. Bặc Bình cũng thiết lập những quỉ nhỏ hơn có nhiều tỉ đô la,  để trực tiếp đầu tư  ở Á Châu và Phi Chẩu 

Con số bộ Tài Chánh  Trung Quốc gợi ý là cấp không thẳng thừng  và ngoại viện ( ngoại trừ  viện trợ quân sự )  của Bắc Bình năm 2009 ít hơn 2 tỉ ( so với  28 tỉ của Hoa Kỳ ) . Viện trợ thuần túy  của Trung Quốc là dưới thể y tế và kỷ thuật, học bổng, các chương trình đầu tư vào phát triễn tiếng Tàu,  và ngân khoản  nhà máy trao tay  chia khóa - turnkey plants. Khác với  chánh phủ Hoa Kỳ, chánh phủ Trung Quốc không ràng buộc viện trợ  theo  nhân quyền - human rights  hay đề xướng dân chủ - democracy . Viện trợ Tàu  trói buộc  với những dự án đặc thù : xây cất hải cảng,  đường xe lữa, ống dẫn dầu, cơ sở tiện nghi thể thao.

Trung Quốc  xem thông tin về số lượng và người thụ hưởng cấp không và cho vay là bí mật quốc gia. Nhưng chiếu theo con số năm 2007, ( đăng tải mới nhất )  từ Ngân Hàng Xuất- Nhập khẩu Trung Quốc là cơ quan cho vay nhân nhượng lớn nhất , Bắc Bình   có lẽ đã cho vay  nhân nhượng khoảng  10 tỉ đô la, năm  2009 .  Một dự án điển hình thoát ra ngoài  có thể liên hệ  đến đầu tư trực tiếp của một xí nghiệp quốc doanh  hay cho vay nhân nhượng  cho một doanh vụ ngoại quốc  hay cho chánh phủ ở một lãi xuất  dưới lãi xuất thị trường, có thời gian  hoãn trả  và điều khoản hoàn trả lâu dài . Cũng như ngân khoảng cấp không-grants viện trợ- aid, Bắc Bình cho vay nhân nhượng - con cessional loans, thường buộc các nước tiếp nhận phải  thuê các công ty Tàu thực hiện  các dự án ( trường hợp khai thác, chế biến bô xít Việt Nam chăng ? ). Chẳng hạn,  Ngân Hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc cung cấp  85%  của số 1 tỉ đô la  để xây cất hải cảng  Hambantota  ở Sri Lanka  mà  công ty quốc doanh Công nghệ Hải Cảng  Trung Quốc-  China Harbour Engineering  đang làm. Tương tự như thế, chánh phủ Tàu  cũng hổ trợ phát triễn các cơ sở hải cảng ở Bangladesh, Myanmar ( Miến Điện ) và Hồi Quốc; các đường xe lữa ở Nepal;  đường xá  và sân vận động  khắp Phi Châu. Hiện có đến 750 000   dân Tàu từ lục địa Trung Quốc  đang hoạt động  ở ngoài nước  cho các dự án chánh phủ Trung quốc tài trợ.

Trên vài phương diện  Bắc Bình cư xử y hệt Hoa Thịnh Đốn hầu  giúp đở doanh  vụ nội địa  bằng các kinh doanh hải ngoại.  Tổ hợp  Đầu tư Tư nhân Hải Ngoại Hoa Kỳ -US  Overseas Orivate Investment  Corporation cũng có những chương trình  bảo đảm và tài trợ  doanh vụ Hoa Kỳ hoạt động  trên hơn 150 quốc gia . Nhưng  các công ty Hoa Kỳ đeo đuổi lợi nhận đơn nhất - single minded  hơn là các đối giá Trung Quốc .  Nếu như các công ty Hoa Kỳ thường  hưởng lợi từ  chánh sách ngoại giao Hoa Kỳ, khác với các công ty Trung Quốc  là họ không phải là lưỡi dao sắc lảnh đạo . Mặt khác , chánh phủ Trung Quốc pha trộn sâu xa viện trợ giữa các quốc gia, cùng nhiều khích lệ cho doanh nghiệp Trung Quốc, hầu thu thập tích sản  ở ngoài nước.  Cho nên  phương diện tài chánh của chính sách  có vẽ như là óc con buôn trần truồng. Hơn phân nữa chuyên gia Bộ Ngoại Giao Trung Quốc  được xem là hoạt động cho các vấn đề kinh tế !

Sự kiện là những thỏa hiệp giữa chánh phủ - government to government agreement  không  tiết lộ  và các khế ước cho dự án được chấp thuận không theo thể thức đấu thầu công khai, tạo ra lo ngại về tham nhũng . Yêu cầu phải dùng nhân công  lao động nhập khẩu từ Trung Quốc  có nghĩa là giới hạn ích lợi cho kinh tế bản xứ , nhất là khi lương trả cho nhân công, nhân viên Trung Quốc lại điển hình đặt vào các trương mục ngân  hàng ở Trung Quốc. Trước những lo ngại và phản đối này , một ngày nào đó  Bắc Bình có thể phải quyết định  thay đổi phương cách ?

Nợ đáo hạn

Kể từ khi CNOOC thất bại mua Unocal, vài nhà đấu thầu Trung Quốc  đã bắt đầu  lộ diện tại các cuộc bán đấu giá tư nhân những tài sản  năng lượng  Hoa Kỳ giữ chặt.  Thật hửu ích, nếu Bắc Bình  đóng vai trò một chủ nợ thường xuyên hơn . Các ngân hàng thương mãi Trung Quốc  tuồng như bất an  về khả năng làm những phân tích  tín dụng  cho các công ty ngoại quốc và cảm thấy thoải mái hơn khi chỉ phục vụ cho cộng đồng Tàu. Thế nhưng  trở thành kẻ cho vay trực tiếp cho  những doanh vụ không phải là Tàu,  họ sẽ thu nhận nhiều kiến thức hiểu biết và nhiều ảnh hưởng hơn là  nếu họ chỉ là những cổ đông  thiểu số. Vi chưng tiền cho vay không được xem như là  dành giựt uy quyền , các giao dịch  có lẽ sẽ ít gặp  kháng cự chánh trị hơn. Tư bản sẽ đổ trực tiếp  vào  doanh nghiệp vay nợ hơn là vào cổ đông  và sẽ cung cấp công ăn việc làm, cũng như khích lệ  kinh tế địa phương. Là chủ nợ, chính phủ Trung Quốc sẽ  giữ một vị trí  chánh và an toàn hơn  là một chủ nhân  các cổ phần không lời cố định -equity owner .

Khi kinh tế Trung Quốc trưởng thành,  hướng về  tiêu thụ và dịch vu hơn,  tất nhiên sẽ có thay đổi. Quyết định tháng 9 năm 2009 của CIC  thu nhận  một dụng cụ tựa món  nợ trị giá  1.9 tỉ đô la  từ  tài nguyên Bumi Resources, một công ty than đá lớn nhất Inđônexia  là một dấu hiệu  Bắc Bình khởi sự  điều chỉnh chiến lược thoát ra ngoài . Hiện nay, còn quá nhiều dân Trung quốc ở gần mức nghèo khổ, để cho lảnh đạo có thể  hổ trợ rộng rải  sử dụng tài nguyên  quốc gia, hoàn tất các mục tiêu không con buôn  ở hải ngoại.  Bắc Bình có thể ít dự định  dùng  viên trợ, cấp không , cho vay nhân nhượng  ở ngoài nước một cách trực tiếp, như thế sẽ phục vụ cho nền kinh tế nội địa Trung Quốc.    Trường hợp này có thể sẽ xảy ra, nếu chế độ có cảm giác an toàn ở những phương cách khác, chẳng hạn về quân sự.

Nhưng điều này chưa có gì là chắc chắn cả . Chẳng hạn, không một ai biết là  chính phủ Trung Quốc có để cho tư bản ra, vào Trung Quốc tự do mà không có chính quyền can thiệp không ?  Một kiểu tự do như thế, đến với nhiều khoan dung  về quyết định đầu tư  cho cá nhân và cho các công ty, sẽ là một đổithay quan trọng trên phương diện tài chánh của chính sách ngoại giao Tàu.  Các công Ty Tàu sẽ  lớn mạnh  bằng cách sáp nhập và  thu nhận ( mua ). Các công ty quốc gia  và các nhãn hiệu quốc gia  sẽ trồi đầu lên , với những cương lĩnh  vững chắc  để nới rộng trên thế giới. Đến điểm này , Trung Quốc  sẽ bắt đầu đẩy mạnh  uy lực  thị trường nội địa vào đấu trường toàn cầu,  không khác  chi mấy Hoa Kỳ và Âu Châu, xuyên qua các tổ hợp đa quốc gia. Điều này còn làm cho hình ảnh Trung Quốc  đẹp mặt hơn ở  các nước đang mở mang ( chậm tiến )  Tàu đang đầu tư, nhờ giới hạn được chỉ trích  từ các dân  cư địa phương, trước đó  nghi ngờ rằng mọi giao dịch, thương thảo thảy đều bị các mục tiêu chánh trị chánh phủ Trung Quốc thúc đẩy .

Một câu hỏi công khai khác là bao giờ Bắc Bình  sẽ để cho đồng nhân dân tệ. trở thành đơn vị quốc tế trương mục , một phương tiện hối đoái và tồn trữ giá trị, như đồng đô la Mỹ và đồng euro.   Hoán chuyễn  trương mục tư bản sẽ tăng gia lớn lao ảnh hưởng  của vị trí tài chánh quốc tế Trung Quốc .Thượng Hải sẽ biến thành một trung tâm tài chánh lớn như  New York và London ( Luân Đôn ); và  các cơ quan tài chánh Trung Quốc có thể đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Ngày nay, Thượng Hải  huênh hoang là đã  có hạ tầng cơ sở  viễn thông tốt đẹp, có cơ nâng cấp thành tiêu chuẩn  bậc nhất, một điều kiện cần thiết để Thượng Hải  trở thành một trung tâm tài chánh lớn .  Đầy rẫy  tư bản nhân sự Tàu hải ngoại huấn luyện giỏi gian ở  thị trường  tài chánh  toàn cầu , đang sẳn sàng bị thu hút trở  lui về Đất Mẹ.

Một trong những chức năng của Cơ quan Quản Trị  Hối đoái Quốc Gia ( Tàu )    là “ nghiên cứu  và thực thi các biện pháp làm cho  đồng nhân nhân tệ renminbi  tiến dần về hoán chuyễn  - convertibility “. Nhưng tiến trình  đi rất chậm. Không  bị giới hạn tiền tệ, tư bản  Tàu  sẽ tuôn chảy  mạnh mẽ  trong nước và ở hải ngoại cho đầu tư , cống hiến những mức lợi nhuận cao  hơn và tư bản rẽ rề, khiến một trong những động cơ  của kỳ diệu Tàu sẽ biến mất.  Phí tổn  tư bản cao và cạnh  tranh cứng rắn hơn sẽ tai hại cho doanh nghiệp hướng về xuất khẩu của Trung Quốc , có thể bị gián đoạn mạnh  ở nội địa Trung Quốc. Dòng chảy tư bản tự do, lẽ đương nhiên, sẽ tạo ra  những cụm to bự  quyền uy kinh tế, khiến  ngay cả CCP - đảng Cọng SảnTrung Quốc cũng chống lại nữa đó . Thế cho nên đổi thay căn bản hoán chuyễn tiền tệ,  có lẽ còn lâu mới hình thành ở Trung Quốc !

 Con trẻ mới ở khu phố

Rất nhiều vấn đề kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc liên quan đến tiền tệ, công ăn việc làm và mất thăng bằng  tài chánh. Chánh quyền Obama tuyên bố dự tính  tăng gấp đôi xuất khảu  5 năm tới ; một cố gắng có thể  gây ra thêm nhiều cạnh tranh  cho các thị trường thứ ba và tăng thêm xung đột  giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Bình, Trong ca tệ hại nhất , một phát triễn như thế có thể làm cùn tiến trình giải tỏa tự do mà Trung Quốc đang tự nhiên hoàn thành, khi Trung Quốc tiếp tục phát triễn kinh tế. May thay, Hoa Thịnh Đốn tuồng như hiểu rằng khuyến khích Trung Quốc đóng vai trò quan trọng về ổn định  tài chánh quốc tế  thật là có lợi cho Hoa Kỳ. Hoa Thinh Đốn , chảng hạn, đã  minh bạch  đón mời Trung Quốc Bắc Bình tham dự bàn tròn tài chánh thế giới.

Cho đến nay , chánh sách ngoại giao Tàu trên phương diện tài chánh đã tốt đẹp cho các quốc gia khác  và ít lợi lộc cho chính Trung Quốc  hơn là khi thoạt tiên mới nhìn. Trung Quốc đã mua nợ  Hoa Kỳ . Trung Quốc  cũng đã giúp  giữ trật tự thị trường .  FDI Trung quốc đã giúp  Trung Quốc học hỏi thế giới  hải ngoại .  Về phía  viện trợ và giúp đở các nước đang mở mang, số lượng tài chánh khởi sự y tuy còn  nhỏ bé nhưng chánh phủ Tàu đã gặp phải  khá nhiều oán trách rồi . Phương thức con buôn sẽ không   cho chánh phủ Tàu an ninh thật sự  về nguồn cung cấp  hơn là   Trung Quốc mua chúng  ở thị trường  công khai . Chánh phủ Trung Quốc đã  công  nhận điều này  và chắc sẽ thay đổi thể thức mà không cần bị áp lực bên ngoài.

Khi Trung Quốc  khích lệ  yêu cầu nội địa  và  đóng một vai trò lớn hơn ở tài chánh quốc tế, công cuộc này sẽ góp phần  thiết lập ra những liên hệ lành mạnh giữa các quốc gia .  Những kinh tế đã phát triễn cần tư bản  và Tàu  no nê,  sẽ giúp Trung Quốc  một lối mòn tự nhiên  để đầu tư tại các nước này ( ngay cả khi không  có hoán chuyễn  trương mục tư bản) . Những vị trí  chủ nhân  tài chánh lớn hơn ở các công ty ngoại quốc , khi cân nhắc mọi điều sẽ  là một việc tốt đẹp cho các  công ty Tàu  và cho thế giới  như   các cổ phần   đầu tư ngoại quốc của Hoa Kỳ  trước đây . Và nếu  chủ nghĩa  tư bản Tây Phương tiếp tục hưng thịnh, Trung Quốc sẽ tiến trào  trở nên hướng thị trường hơn nữa.  Xét cho cùng, thèm khát Tàu về lợi nhuận  cũng đã làm cho Trung Quốc vẫn sống tươi mạnh, mặc dù  ở dưới ách cọng sản cai trị đã hơn 60 năm.

Mệnh lệnh là phải đôi chút kiên nhẫn. Các nhà làm chánh sách Hoa Kỳ  nên nhớ là  Trung Quốc trổi dậy  thành một uy lực  tài chánh mới chưa đầy 10 năm nay. Thông hiểu những thôi thúc nội địa Trung Quốc, Hoa Thịnh Đốn có cơ khuyến khích Bắc Bình phóng ra ngoài nước uy quyền tài chánh,  theo những phương cách  góp phần vào ổn định  nền kinh tế thế giới !             

         ( Irvine , Nam Ca Li , ngày 6 tháng 7 năm 2010 )  .          



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét