Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2010

Nuôi Cá Biển Việt Nam

 Việt Nam cần tiến mạnh hơn nữa về ngành nuôi cá biển nước mặn :
                       
Cá hồi, cá vược - chẻm biển  và cá ngừ , ngoài cá mú ?
S Tôn thất Trình

Cá vược 
cá Mú      
Cá Ngừ 
                              
Cá Hồi 







 Còn nhiều thách thức cho ngành nuôi cá biển
Việt Nam đã tiến nhanh  từ các thập niên 1990 và 2000 về ngành nuôi  trồng thủy - aquaculture . Mức sản xuất thủy sản nuôi trồng thủy sinh   ở Việt Nam tăng từ 480 000 tấn năm 1999  lên đến  1 437 000 tấn  cuối năm 2005, 5,7 % nhiều hơn dự trù qui hoạch , tăng 956 583   tấn  nhiều hơn năm 1999.  Trong đó sản xuất thủy sản nước mặn và nước lợ   là  546 716 tấn   và nước ngọt   849 640 tấn . Cá nước ngọt sản xuất  nhiều nhất ở  tỉnh An Giang.  Năm 2005 đã đạt dược, 180 000 tấn, phần lớn là nuôi loại cá da trơn, cá râu mèo-catfish như cá tra Pangasius hypothalamus và cá bông lau  Pangasius boncourtii . Nhưng ba tỉnh  khác châu thổ sông Cửu Long là Cà Mau  ( 120 263 tấn) Đồng Tháp ( 118 920 tấn ) và Bặc Liêu  (  110 000 tấn ) không mấy thua kém. Thủy sản nuôi nước lợ - brackish water aquaculture  ở Việt Nam nhắm vào ba nhóm chính : tôm , nhuyễn thể- mollusks và  cua. Mạnh nhất là nuôi tôm. Từ  năm 1999 đến năm 2005, diện tích nuôi tôm tăng trung bình 31.2 % một năm, từ  210 448 ha năm 1999 lên đến 604 479 ha năm 2005. Sản xuất tôm năm 2005 cũng tăng 4,1 lần hơn hơn năm 1999, tăng thêm 324 000 tấn so với năm 1999. Sản xuất nhiều nhất cũng ở châu thổ sông Cửu Long năm 2005 là 263 560 tấn, 4,5 lần hơn năm 1999 và chiếm 81.2 % tổng số tôm sản xuất toàn cỏi Việt Nam. 
Tôm Hùm 
Sơ lược  sản xuất hải sản nuôi trồng ở Việt Nam 5 năm nay
Tuy nhiên  ngành nuôi  cá biển , hải sản  còn gặp nhiều thách thức khó khăn để phát triễn đúng nhịp đà phát triễn thủy sản nước ngọt và nước lợ. Nuôi trồng hải sản biển Việt Nam nhắm  vào cá, tôm hùm- lobster, sò trai ngọc pearl oysters  và  nuôi rong làm aga, thạch trắng - agar culture . Năm 2005 đã có 15 000 lồng nuôi tôm hùm, tăng gấp đôi năm 1999, nhiều nhất ở ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận ( Phan Rang ).  Nhưng nuôi sinh sản làm giống tôm hùm con và đánh bắt lại là ở  Bình Định. Năm 2005, Việt Nam nuôi trồng được 20 600 tấn rong biển, hai giống chánh là rong câu- Gracilaria verrucosa  ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa và Thái Bình và  rong tảo Kappa  - Kappaphycus alvarezii , nhiều nhất ở Phú Yên, Khánh Hòa Ninh Thuận và Bình Thuận ( Phan Thiết ). Mức sản xuất rong tảo Kappa  kém xa rong câu, năm 2005 ước lượng chỉ đạt  3000 tấn .

Năm 2008,  sản xuất thủy hải sản nuôi trồng  ở Việt Nam đã  cao hơn mức dự trù sản xuất trên 2 000 000 tấn năm 2010, và trị giá xuất khẩu dự trù là 2 tỉ đô la Mỹ. Thật tế, sản xuất  cá và nghêu sò nhuyễn thể  năm 2009 đã tăng thêm 4%, từ 4.58 triệu tấn năm 2008 đến 4.78 triệu tấn; 2.51 triệu tấn nuôi trồng và 2.27 triệu tấn bắt  trên biển hay nội địa. Năm 2009 cũng là năm” Thử nghiệm Lớn “,  hơn  cả các năm 1997-98,  cho ngành ngư nghiệp nước nhà, vì khủng hoảng tài chánh toàn cầu, những luật lệ điều hành quốc tế mới  và những vấn đề  phẩm giá thủy sản đều ảnh hưởng mạnh đế phảt triễn ngư nghiệp Việt Nam. Tuy vậy, dù giá trị tổng thủy ( hải ) sản Việt Nam xuất khẩu năm 2009 giảm đi  300 triệu đô la Mỹ  so với năm 2008,  chỉ còn 4.2 tỉ đô la, 6.6 % ít hơn con số năm 2008, Việt Nam vẫn  củng cố địa vị là nước xuất khẩu “ đồ ăn biển - sea food  “ hạng năm thế giới , chiếm 4 % giá trị cá xuất khẩu toàn cầu. Nhắc lại  4 nước  xuất khẩu  “ cá” năm 2008 đứng trên Việt Nam là  Trung Quốc ( 10 % ) Na Uy - Norway ( 6% ) , Thái Lan (6%), Hoa Kỳ( 5% ) ; còn Canada -  Gia Nã Đại và Chilê - Chí lợi - Chi Li ít hơn Việt Nam đôi chút ( 4 % )  ( theo tài liệu Lương Nông Quốc Tế- FAO )              .


Cũng  như những năm trước, tôm vẫn là món hàng thủy sản xuất khẩu lớn nhất nước nhà, số lượng xuất khẩu  là 209 000 tấn trị giá 1.68 tỉ đô la, tăng thêm 9% số lượng và 3 % trị giá so với năm 2008. Nuôi trồng thủy sinh ở Việt Nam tiếp tục khuynh hướng thế giới: thủy sản tăng thêm nhờ nuôi trồng hơn là đánh bắt. Xuất khẩu cá Pangasius ( cá tra, cá basa … ) năm 2009, đạt 607 000 tấn, giá trị 1.34 tỉ đô la  Mỹ, giảm  5% về số lượng và 8% giá trị so với năm 2008.  

 Vài biện pháp hữu hiệu Việt Nam đã áp dụng những năm gần đây
Những vấn đề Việt Nam đang cố gắng khắc phục  để tiến mạnh hơn nữa ỏ ngành ngư nghiệp  và nuôi trồng hải sản là :  giải quyết  khả năng quá lớn của chế biến làm lạnh, phẩm giá thủy hải sản, chống đở các rào cản kỷ  thuật về Thương mãi Quốc tế, sản xuất vững bền môi trường, thủy sản sinh thái …     Cuối năm 2009,  Cục Ngư Nghiệp  gồm 9 Nha-Sở ( hình như bộ Ngư nghiệp nay sáp nhập trở lại với Bộ Nông Nghiệp ? ) đã có dự án nâng cấp khía cạnh kỷ thuật các hệ thống làm lạnh - cold storage systems  hầu đạt chỉ tiêu  xuất khẩu  5.5 tỉ đô la năm 2015.  Làm thêm 584 cơ sở dung lượng ít hơn 100 tấn, 254 ít hơn 300 tấn  và 50 trên 500 tấn.  Mọi cơ sở nâng cấp đều có đơn vị làm đông lạnh mau lẹ -fast freeze. Khả năng làm “ Đông lạnh Cá nhân Mau lẹ-Individually Quick Freeze , IQF “    sẽ làm gia tăng khối lựợng Pangasius và  Tôm  đông lạnh mau lẹ, giúp cải thiện phảm giá, sản xuất sạch sẽ hơn, giảm bớt số tôm cá”  chết thối” thị trường dễ chấp nhận hơn , giảm giá thành ….  Ngày mồng 1 tháng giêng 2010 là ngày thực thi luật Nông Trang  Hoa kỳ 2008 USA Farm Bill , cũng sẽ gây khó khăn  cho ngành cá Pangasius Việt Nam. Luật này gọi mọi cá Pangasius Việt Nam là “ catfish “, chắc chắn sẽ có sự phản đối  của các nhà sản xuất “catfish “Hoa Kỳ, cho đây là cạnh tranh không công bằng - unfair competitionLuật Nông Trang  - Farm Bill 2002 gọi  cá  râu mèo Việt Nam đúng hơn dưới từ Pangasius (? )  .  

 May thay,  Việt Nam đã biết  mở rộng thị trường  xuất khẩu thủy hải sản  ra hơn 150 quốc gia trên thế giới. Năm 2009, ba quốc gia nhập khẩu thủy hải sản Việt Nam lớn nhất là  Cộng Đồng Âu Châu - European Commmunity, EC  chiếm 26 % , thứ đến là Nhật Bổn 18% và thứ ba là Hoa Kỳ  17%. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng kiếm thêm thị trường ở Nam Mỹ : Brasil, Chi , Argentina, Venezuela, và Trung Đông như Ai Cập , Cộng Đồng Ê Mir Ả Rập.  Việt Nam cũng  cố gắng  đa  dạng ngành thủy hải sản nước nhà, tài trợ  lớn lao ba ( ? ) Trung tâm Thủy sản Quốc gia,  đào tạo,  khảo cứu, khuyến ngư và phát triễn .

Rất nhiều giống mới được  thí nghiệm thành công ở những trại giống, nhưng chưa giống mới nào đạt mức  phát triễn Tôm và Pangasius . Chẳng hạn Việt Nam đã nuôi hơn 10 loại cá mú Epinephelus sp. thế giới nuôi thường  nuôi , có giá trị kinh tế cao:  mú chấm đen , chấm nâu, mú ruồi , mú đỏ,  mú cọp , mú nghệ, mú chuột…Tốc độ  tăng trưỡng cá mú nuôi ở nước ta sau một năm  cao nhất là cá mú nghệ E. lanceolatus  3-4 kg,  cá mú ruồi E. tauvina  1-1.2 kg,  cá mú đen chấm đen  E . malabaricus  0.8 kg . Nhưng để tránh những vấp ngã vì cạnh tranh phần nào với cá biển ôn đới nuôi, khi  xuất khẩu hải sản tương lai sang  các nước Tây Phương như đã xảy ra  giữa cá basa, cá tra  Pangasius  nhiệt đới nước nhà với cá da trơn  Mỹ, như đã kể trên,  tưởng cũng nên biết thêm khuynh hướng nuôi trồng hải sản thay đánh bắt ở các quốc gia này ra sao ?        

Những đề nghị có thể hữu ích cho ngành nuôi cá biển Việt Nam?  
          Sau đây là  tóm tắt những khía cạnh về cá biển ở Hoa Kỳ, thảo luận ở sách “ Bốn loại cá biển - Four fish “  , tác giả là Paul Greenberg,  sẽ xuất  bản ở Ca Li, Hoa Kỳ, ngày  8 tháng 8 năm 2010 ở buổi dạ tiệc  đặc điểm là dọn 4 món  cá - sò biễn  đánh bắt vững bền được: sò hàu - oysters nửa mảnh; kampachi trộn lát trái bơ- avocado, ớt cay, chanh ; sò -trai musselsnghêu -  clams  chiên lò  trộn đậu cô ve,  đậu nành… nguyên trái và thì là - fennel ; một loại cá bắc cực xông khói nướng cháy đen trộn xà lát dưa chuột và cà chua vắt chanh hay barramundi nướng vĩ trộn  caponata.

                Khía cạnh thực phẩm trồng trên đất, đã làm bạn lúng túng, không phân biệt nổi  thuộc nguồn gốc  nào : địa phương, theo mùa, hửu cơ, vững bền, không xịt thuốc, qui ước…  Nhưng chắc bạn vẫn sẽ còn lúng túng hơn nữa, khi mua cá (  và tôm cua, nghêu sò, rong biển ) …, vì vậy cái ngữ hải sản nói trong sách này cũng đáng lưu tâm, có khi càng đáng ưu tư hơn cả thực phẩm trồng trên đất nữa đó ! Ngay cả  trước khi xảy ra tai họa nổ dàn khoan, phun dầu  ở vùng Vịnh Mexico - Mễ tây Cơ, sỉ số vài loại cá làm thực phẩm quan trọng nhất thế giới đang du dây trên  lưỡi dao cạo sắc bén.

            Mà lại ít có dấu hiệu là tình trạng sẽ cải thiện. Tiêu thụ đồ ăn biển - seafood  mỗi đầu người trên thế giới đã tăng lên hơn gấp đôi, kể  từ thập niên 1950. Nếu chúng ta theo lời khuyên  của đa số các nhà dinh dưỡng, chúng ta cũng đã tăng số lượng dinh dưỡng này ít nhất là một phần ba rồi .

            Tuy nhiên,  ít có điều trên đời sống lại phức tạp hơn việc lựa chọn  xuyên qua  các   liên quan  đạo đức  loại cá nào bạn nên ăn. Chúng ta không thể nhìn vào các  ngư phủ  để tự chế, nếu muốn lịch sử đóng  một vai trò  quan tòa nào đó ở vụ này. Phản ứng của ngư phủ  có khuynh hướng thẳng thừng là :  không có vấn đề “, “vấn đề đã nói quá đáng “  hay “ vấn  đề đó là của người khác  “ ,  để cuối cùng  kết luận là “ tại sao không  nói chúng tôi  ngừng lại sớm hơn “   khi ngành ngư nghiệp có  nguy cơ sập tiệm.      
                                                                                                       
Đàn cá

4 loại cá 
 Thế cho nên  càng nên đọc  sách mới của Paul Greenberg “ Bốn Loại Cá “, giúp thám hiểm vài khía cạnh phức tạp này. Tuồng như bây giờ, cứ mỗi 5 phút là ở Hoa Kỳ    lại ra  mắt một cuốn sách bàn về các  vấn đề  thực phẩm. Nếu bạn  chỉ cần đọc một cuốn thôi, thì bạn phải đọc cuốn  sách “ Bốn loại Cá “ .
 Một phần làm cho tổng thể điều cá phức tạp như vậy, đơn giản  là vì có là nhiều loại cá qúa chừng, mỗi loại  lại có  một lô tình trạng đặc biệt riêng cho mình.  Chính vậy mà tấm túi thẻ - cạc ( card )  Lựa chọn  Đồ Ăn Biển  Bể Nuôi Cá -Aquarium   Monterey Bay  thật là tiện lợi  và tại sao các nhà chủ nghĩa thuần túy cũng than phiền ngay khi  thẻ còn khiếm  khuyết.

Greenberg  lựa chọn thông minh, khi chỉ  tập trung  vào 4 con cá thần tượng cho tây phương, đề cập đến  căn bản sinh học của chúng và lịch sử con người sử dụng chúng . Rồi dùng chúng để tung ra những điểm cần thám hiểm sâu xa, sâu đậm hơn .

 Ông bắt đầu bằng cá hồi - salmon, dẫn tới bàn cải trước tiên về lạm thác đánh bắt cá - overfishing , thứ đến  vài nuôi trồng thủy sinh - aquaculture và các vấn đề liên hệ. Nhắc lại là Việt Nam đã khởi sự nuôi cá hồi ở các suối nước lạnh đất cao miền Bắc và Tây Nguyên ( ? ), loại  cá hồi nguồn gốc Phần Lan - Finland ( ? ).  Cá  vược - chẻm biển- sea bass  ở Hoa Kỳ ( cá chẻm Hậu Giang là một loại cá nước lợ, thịt rất ngon )  trờ thành một ca nghiên cứu cách nào nuôi trồng cá biển đứng đắn. Cá  tuyết to đầu - cod, morue , không chỉ là một  câu chuyện biểu trưng  ngành cá trở thành xấu xa, nhưng cũng  còn có thể xoay đầu, đổi hướng được và đổi hướng, xoay đầu  thế nào cho đúng nghĩa tốt đẹp.  Cuối  cùng là nuôi cá ngừ - tuna  ( đặc biệt là cá ngừ vi- vây  xanh - bluefin , trong khi biển Đông - biển Tây nước ta lại là cá ngừ vi vàng- yellowfin )  tiêu biểu cho ca - trường hợp tệ hại nhất ở màn kịch; nơi đây ngay cả khi có  hành động tức thời, phục hồi cũng vẫn còn rất khó khăn. Cũng xin nhắc lại là 4 cá ngừ đại dương ở Việt Nam là ngừ vi vàng  Thunnus  albacares ,  ngừ mắt to  Thunnus obesus , ngừ albacore Thunnus alalunga , ngừ vănKatsuwonus pelami . Dù rằng sách “ Bốn Loại Cá “ khảo cứu  và  đầy sự kiện sâu đậm, sách không khô khan tí nào cả thảy. Khi thám hiểm các loại cá này, Greenberg  dẫn chúng ta tới lều cắm trại cá Yu’Pik  ở bang Alaska, Hoa Kỳ . tới một trang tại  “ branzino “ ngòai khơi đảo Greek Island , tới   trại cá barramundi ở Úc Châu  và  trại nuôi cá ngừ  ở vịnh - baja Mễ Tây Cơ , phía Thái Bình Dương.

Có vẽ như là thiết lập quá nhiều trang trại nuôi cá  như chúng ta đã biết, là điều xấu xa.  Hoặc có khi không  có gì xấu xa đâu nhé !  Nếu sách  này hay ho chăng nữa, chính là nhờ tác giả vừa là một nhà lý tưởng, vừa là  một nhà thực tiễnGreenberg không nhìn vào các vấn đề đồ ăn biển  theo nhãn quan, viễn cảnh ý thức hệ hẹp hòi.

Đúng là khẩn thiết, đặc biệt  khi nói đến cá, vì chúng hiện diện  trên nhiều góc cạnh đa dạng, xét xem cá là thực phẩm- đồ ăn hay là đồ hoang dại ?  Chúng là một cái gì  chống đói cơ cực hay  chúng là thành phần một hệ thống sinh thái chúng ta mới khởi sự thông hiểu ? Tuy mắt Greenberg  luôn luôn nhìn về  những liên hệ  sinh thái và sinh học những gì đang xảy ra, ông cũng thông minh, may mắn thoát khỏi sáo ngữ, đạo đức giả của một kẻ có  đức tin thành thật.

Nuôi trồng thủy sinh có thể  chưa hoàn toàn và có khi  rất nguy hiểm. Nhưng vì lẽ  dân số toàn cầu tăng mau lẹ và dân gian đòi hỏi thêm nhiều cá để ăn, chúng ta còn có lựa chọn nào khác không  đây?  Nay  gần phân nữa tiêu thụ đồ ăn biển  toàn cầu là nuôi trồng ở trang trại. Đúng  là một hồi chuông , tuồng như không thể không rung chuông.     

  Thay vì buộc tội các trang trại cá vì những lỗi lầm quá khứ, thật sự đầy rẫy, Greenberg đã mong muốn  nhìn vào  những thay thế có cơ xảy ra, khen ngợi những thay thế khi chúng thành công ( tỉ như nuôi cá chẻm - vược biển - sea bass chẳng hạn ) và đánh ngã chúng khi chúng thất bại  ( cá tuyết to đầu hình như  không  nuôi được trên phương diện kinh tế, và nuôi cá ngừ  hiện nay tuồng như  lấy  nhiều cátạp ra khỏi sinh khối - biomass hơn là đánh bắt cá ngừ , vì  những cá tạp này đều được xuất xử từ  các tập hơp cá sinh đẻ - breeding pool ).

Dây chuyền thực phẩm

Tuy nhiên  có vài điều Greenberg cần đi sâu xa hơn nữa. Ông chỉ tụ điểm phần lớn về  cá nước mặn - saltwater fish. Nhưng trên thế giới ngày nay,  các nông trang ôn đới nuôi trồng  thành công nhất ( trên phương diện sinh thái ) lại nuôi cá nước ngọt - cá rô phi - tilapia ,  cá  da trơn , râu mèo - catfish  và cá lai nước lợ - brackish  water ,  chăng hạn  “ cá chẻm ( vược ) sọc  lai-  striped bass hybrid “ .  Ông có nói đến chúng , nhưng phần lớn  chỉ phớt thoáng qua.  

   Song song khía cạnh này , có lẽ  ông cần để tâm hơn nữa đến các nghêu sò - shell fish (  sò hàu- oysters  và sò trai- mussels ) đã nuôi thành công  từ nhiều thế kỹ , và hiện nay  nuôi chúng  cận đại lại làm sạch  hay cải tiến  phẩm giá nước vùng  nuôi chúng . Công nhận là ông đã tham quan  một dự án hứa hẹn  ở Novia Scotia, một nơi phối hợp  nuôi cá hồi chung với sò trai và rong biển - sea weed, tái lập  một kiểu hệ thống sinh thái hoạt động tốt đẹp. Từ năm 2001, Cà Mau đã  nuôi tôm sinh thái thí điểm ở 4000  ha rừng ngập mặn; tôm sinh thái là cách nuôi tôm gần giống với môi trường tự nhiên mà con tôm từng sống, năng xuất thấp nhưng bù lại giá cao hơn 15 - 33%.

Rốt cuộc,  có lẽ ông nên đả động đôi chút đến những loại cá nhiều dầu, tỉ như cá trống -trích - anchovies, cá mòi xácđin - sardines và các thu - mackerels, nhiều người ưa thích.  Không những vì chúng là cá ngon, nhưng chúng còn mau lớn, có nghĩa là sỉ số chúng  chịu đựng đàn hồi được áp lực đánh bắt lớn hơn là những loại cá to bự, tăng trưởng chậm như cá ngừ. Nhưng kìa, mấy ai lại để ý đến những loại cá này !  
           Greenberg tóm gọn theo những dòng ngắn những ý kiến  hướng dẫn chúng ta  cách nào chúng ta cần suy tư về xử lý  tổng quát ngành cá toàn cầu lẫn  nuôi trồng đặc thù thủy sinh .

            Phần tổng quát  gồm  vài đề nghị cấp tiến: giảm bớt kích thước tàu đánh cá thế giới,  chuyễn hướng nhiều vùng lớn đại dương thành những vùng cấm đánh bắt cá, hầu giúp cho  sỉ số cá phục hồi, thiết lập những luật lệ bảo vệ những  loài cá xa xôi và bảo vệ  động vật đáy  của dây chuyền  thực phẩm “, nay được sử dụng phần lớn làm thức ăn cho cá  nuôi trồng thủy sinh.( Việt Nam đã thử nuôi nhiều loại cá rô phi( ? ) làm thực phẩm nuôi tôm  cá  khác ).


         Khi đề cập tới  nông trang cá, chỉ dẩn của ông tuồng như có thể thực thi được :  nhấn mạnh đến những loại cá và hệ thống có thể tăng trưởng  hửu hiệu nhất, ít phá hủy   môi trường hoang dã nhất, và suy tư  đến  nuôi đa loại  thay vì đơn loại, nuôi nhiều loại cá bổ sung cho nhau trong một nông trang thay vì chỉ nuôi một loại cá mà thôi.  Ở Việt Nam từ nhiều năm qua, nhiều công ty  Duyên hải Bặc Liêu đã  nhập cảng các cá rô phi , cá măng Đài Loan  về nuôi trong các ao hồ  nuôi tôm ).  Ngư dân Bảc Liêu cho biết,  sau vụ tôm cái tạo lại nuôi cá rô phi,  trám cỏ, lóc … các loài cá này sẽ  ăn hết những dư thừa  trong ao của quá trình nuôi tôm .
            Như  Greenberg
chỉ rõ : tại sao nuôi cá ở đại dương  lại lập lại những sai lầm   trồng trọt trên đất ?  

                   ( Irvine , Ca Li,  ngày  6  tháng 8 năm 2010 )



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét