Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Bắc Ninh


Lạm bàn phát triển tỉnh Bắc Ninh:
   Bắc Ninh tỉnh lúa nước cổ truyền  châu thổ Sông Hồng, mau chuyển qua  tỉnh công nghệ năm 2015 được không ?
                                             G S Tôn thất Trình

                                       
          Đôi nam “ liền anh” đầu đội khăn xếp , mặc áo the dài, quần trắng ống rộng, cất lời :
                                                       “ Cổ tay vừa trắng vừa tròn,
  Để cho ai gối đã mòn một bên ? …

Đôi nữ “ liền chị”mặc áo tứ thân nhiễu điều, dây thắt lưng hoa lý buông chùng, tay cầm nón quai thao  đáp lại:
  Ngày ngày ra đứng mà trông,
  Bạn thì thấy bạn, tình không thấy tình!
 ( Lời dân ca Quan Họ, Kinh Bắc xưa – Bắc Ninh nay )

             Vị Trí và lãnh thổ

          Bắc Ninh là một tỉnh đẹp đẽ và nổi tiếng thuộc đồng bằng sông Hồng. Chỉ cách thành phố Hà Nội 30 km,  phía  Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Hải Dương , phía Tây và Tây Nam giáp  thành phố Hà Nội  và tỉnh Hưng Yên . Đây là một tỉnh nhỏ, nằm  một phần ở vùng  đất trũng thấp và vùng đồi  Bắc Bộ.  Diện tích tự nhiên tòan tỉnh  là 823.1 km2 ,  thuộc vĩ tuyến Bắc 210 5’N và  kinh tuyến Đông 1060 10’ E . Dân số tháng tư năm 1999 là 941 400 người, năm 2004 là 987 400 người và tháng tư năm 2009 là  1 024 200 người. Đây là tỉnh diện tích nhỏ nhất Việt Nam , nhưng mật độ dân số lại cao nhất nước, trên 1200 người một cây số vuông. Sở dĩ như vậy, một phần  là do nằm trong  khu vực Đồng Bằng sông Hồng. Đây là nơi con người đã sinh sống và klhai phá từ lâu đời  và là một trong những địa bàn  cư trú đầu tiên  của người Việt cổ. Nơi đây  có nhiều điều kiện thuận lợi cho con người sinh sống; tài nguyên, đất đai, nước, khí hậu khá phong phú là cơ sở để  phát triển một nền kinh tế đa dạng. Bắc Ninh nằm trên đầu mối giao thông, giao điểm của hai quốc lộ  huyết mạch miền Bắc  là quốc lộ 1A ( Hà Nội-BắcNinh-Bắc Giang- Lạng Sơn )  và quốc lộ 18  ( Nội Bài- Bắc Ninh- Đông Triều- Hạ Long ). Bắc Ninh còn nằm trên  trục đường sắt Xuyên Việt  Nam Bắc, có mạng lưới sông ngòi (  4 sông lớn chảy qua tỉnh là sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình và sông Ngũ Huyện Khê, mật lưới  sông trung bình  khỏang 0.95 km / km2 )  nối liền với các tỉnh lân cận, và cũng nằm rất gần sân bay Nội Bài .

           Năm 1962, Bắc Ninh và Bắc Giang sáp nhập thành một tỉnh lấy tên là Hà Bắc, tỉnh lỵ là thị xã Bắc Giang.  Năm 1996,  tỉnh Hà Bắc lại tách  thành  hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Bắc Ninh được tái lập với 1 thị xã là tỉnh lỵ Bắc Ninh và 7 huyện là  Quế Võ, Yên Phong, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài và Từ Sơn ; gồm  113 xã, 5 phường và 5 thị trấn. Các tộc dân Bắc Ninh gồm Kinh, đông nhất, rồi đến Tày, Nùng và Mường.

                Xuôi dòng thời gian
               
              Nôi  Văn Minh Sông Hồng
               Bắc Ninh là một nôi văn hóa đặc sắc Việt Nam, trọng tâm của  nhiều văn minh lớn và tôn giáo đất nước. Trước tiên phải kể đến nền văn minh Sông Hồng Phùng Nguyên – Đồng Dậu- Gò Mun – Đông Sơn . Nhiều di tích đã được các nhà khảo cổ học nước nhà  phát hiện từ năm 1960, từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến thời đại sắt sớm  trên lưu vực sông Hồng từ thượng nguồn Hòang Liên Sơn  đến vùng đồng bằng ven biển Hải Phòng, Thái Bình và lưu vực sông Mã.   Tương đương niên đại  cùng văn minh Sa Hùynh ở các tỉnh ven biển miền Trung từ đèo Hải Vân đến miền Đông Nam Bộ,  như di tích Long Thạnh ( sơ kỳ thời đại đồng thau ), di tích Bình Châu ( qua giai đọan trung kỳ đồng thau ), nở rộ, đạt đỉnh cao  thuộc sơ kỳ thời đại sắt, theo các di tích  Gò Ma Vương, Tam Mỹ, Dầu Giây, Phú Hòa v.v… Niên đại C14 ở Long Thạnh -Phú Hòa cho thấy văn minh Sa Huỳnh  phát triển từ đầu  thiên niên kỷ 2 đến 1,2 thế kỷ trước Công Nguyên. Phần lớn các nhà nghiên cứu  cho rằng văn minh  Sa Hùynh đã tiến lên thành văn minh Champa – Chiêm Thành  sau này.  
Một góc thành Cổ Loa xưa
Trống đồng Cổ Loa
Cổ Loa - Bắc Ninh, thủ đô của nước Âu Lạc  thời vua An Duơng Vuơng Thục Phán còn lưu giữ dấu vết của con người thời  đá cũ cách đây mấy vạn năm, nhiều di tích của đủ các chặng đường  phát sinh và phát triển  của thời đại kim khí từ Phùng Nguyên  đến Đông Sơn của nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Ở Cổ Loa, khảo cổ học đã tìm thấy hàng vạn mủi tên đồng, hàng trăm các lọai lưỡi cày đồng  và mấy chiếc trống đồng. Trồng đồng Cổ Loa phát hiện năm 1982 được xếp cùng trống  Ngọc Lũ, trống Hòang Hạ thành bộ ba trống đồng to và đẹp nhất  hiện nay trong dòng  trống đồng Đông Sơn.  Như vậy Cổ Loa không chỉ là một trung tâm chánh trị, quân sự, một trung tâm lúa nước mà còn là một trung tâm luyện kim  lớn thời Cổ đại .           
              
              Thời vua  Hùng:   Các huyền thọai Kinh Dương Vương ,  Con Rồng ( Lạc Long Quân) cháu Tiên ( Âu Cơ
50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển....
                Rất nhiều huyền thọai Bắc Ninh vẫn còn trong trí óc của dân Việt, tỉ như  Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng , Mỵ Châu và Trọng Thủy. 


Từ thuở xa xưa, Kinh Dương Vương cầm đầu nước Xích Quỷ, lấy con gái của Thần hồ Động Đình, thuộc nòi rồng tên là Long Nữ. Hai người sinh được con trai là Sùng Lâm  , lấy hiệu  là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân có thân hình rồng, tính ưa ở nước, có sức khỏe phi thường và nhiều tài biến hóa . Nối nghiệp cha, Lạc Long Quân  cai quản Đất Lạc Việt, thuộc miền Lĩnh Nam. Lúc ấy ở biển Đông Nam bây giờ là đất tỉnh Quảng Đông ( Trung Quốc ) và miền Bắc Bộ nước ta, có một con cá rất dữ tợn, sống lâu đời thành tinh, dân chài gọi là Ngư Tinh. Thân dài hơn 50 trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể  nuốt chửng 10 người một lúc.  Chỗ ở của Ngư Tinh là một hang lớn, trên hang là  một dãy núi cao ngăn miền duyên hải làm thành 2 vùng. Ngư Tinh lấy đá  lấp ngang làm cho eo biển hẹp đi, gây khó khăn cho thuyền bè đi lại. Lạc Long Quân liền cho đóng một thuyền lớn,  rèn một khối sắt nung đỏ tiến đến hang Ngư Tinh.  Khi con quái vật  há miệng, Lạc Long Quân  ném khối sắt lữa vào miệng nó. Ngư Tinh không chống nổi  bị chém làm 3 khúc.  Khúc đầu nó hóa thành con chó biển , bị Lạc Long quân  đuổi theo chém chết ném lên một ngọn núi,  nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Khúc giữa trôi ra xứ Mạn Cầu , nay gọi là Cẩu Đầu Thủy. Khúc đuôi bị Lạc Long Quân lột da đem phủ lên một hòn đảo giữa biển, bây giờ  là hòn đảo Bạch Long Vĩ . Trừ xong Ngư Tinh, Lạc Long Quân  đến miền Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi, hay hóa thành người, thành vật, trà trộn  trong đám đông, gieo rắc bệnh họan, hảm hiếp phụ nữ. Lạc Long Quân đến sào huyệt, đánh nhau  với hồ tinh, cuối cùng giết được cáo. Rồi cho chảy nước sông Cái làm ngập hang nó. Nước xóay mạnh , đánh băng núi đá đi mất tích, còn lại  một cái hồ, sau gọi là Đầm Xác Cáo , Hồ Tây ngày nay. Diệt trừ được các lòai yêu quái, Lạc Long Quân lo cho dân cư an cơ lạc nghiệp, bày cho dân biết  cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ  làm nhà sàn và xây dựng lâu đài, cung điện ở đất, không về với mẹ ở dưới thủy cung. Lúc bấy giờ ở phương Bắc có thần Đế Lai  đem quân tràn xuống, cùng đi với con gái  là nàng Âu Cơ cho dựng thành, đắp lũy, định ở lâu dài trên đất Lĩnh Nam. Lạc Long Quân đem quân về đánh,  biến thành một chàng trai đẹp đẽ,  khỏe mạnh đến trước cửa thành của Đế Lai  gảy đàn và hát chọc ghẹo. Hai người yêu nhau  và Âu Cơ theo về cung  điện chồng. Đế Lai mất  con đi tìm. Quân lính bị nhiều ác thú Lạc Long Quân  sai ra chặn đường, xé xác. Ngày một  ngày hai, lực lượng Đế Lai  hao tổn nặng, phải  thu quân về Bắc. Lạc Long Quân và Âu Cơ lấy nhau sinh được một cái bọc. Quá 7 ngày, bọc nở ra  một trăm cái trứng, mỗi cái trứng nở thành một người con trai.  Lạc Long Quân hay về  dưới quê mẹ  nơi thủy cung. Âu Cơ ở nhà cùng đàn con, có lúc định đưa con về phương Bắc, nhưng bên ấy Đế Lai đã bị một ông vua khác đánh đuổi, đành cùng con giữ gìn đất Lạc. Nhưng sau họ cũng chia tay: 50 người theo Âu Cơ lên núi, 50 người theo Lạc Long Quân xuống biển. Thành Tổ tiên  người Bách Việt.  Người con truởng ở  lại Phong Châu thành  vua Hùng  của nước Văn Lang . Dân  Việt Nam  tự nhận là  nòi giống Rồng Tiên, tôn vua Hùng làm  thủy Tổ  chính là  do sự tích này.   

            Thánh Gióng (Dóng), Sơn Tinh – Thủy Tinh , Mỵ Châu – Trong Thủy,  dân gian hình dung, chống bảo lut, gìn giữ, phát triển đất nước và cuối cùng mất nước  (chiếu theo chuyện kể của Hoàng Khôi )
Phù Đổng Thiên Vương
Đời Hùng Vương thứ 16  ở làng Đổng, có một bà già không chồng. Một ngày ra vườn, thấy một vết chân người to lớn, bà ướm thử  bàn chân mình và từ đó có thai;  sau 12 tháng sinh được  một cậu bé đặt tên là Dóng.  Lên ba rồi mà  Dóng vẫn không biết đi và chẳng nói, chẳng cười. Khi giặc Ân sang cướp phá, nghe sứ giả cầu hiền, Dóng tự nhiên ngồi nhổm dậy, nói với sứ giả: xin đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một nón sắt và một roi sắt, ta sẽ đi dẹp giặc. Các đồ roi, ngựa  giáp sắt đúc đến 3 lần mới vừa sức Dóng. Thiết bị đầy đủ, dân làng bày tiệc  có 7 nong cơm, tiễn chân Dóng. Dóng ăn lóang một cái đã xong 3 nong phần mình. Vươn vai đứng dậy, Dóng thành người khổng lồ, đội nón cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngưa phi như bay, thét ra lữa. Ngựa Dóng đi tới đâu, lữa cháy rực trời đến đó. Giặc bị chết cháy, chết chém. Vua Ân cũng bị bỏ  mạng  giữa trận tiền.  Dóng đuổi theo đến chân núi Sóc Sơn thì  giặc không còn một mống. Đến núi Sóc,  Dóng cởi giáp và treo nón  lên một cành cây, cúi xuống uống một hơi cạn cả giếng nước cạnh đường. Rồi cả người cả ngựa  bay thẳng lên trời.  Nhà vua biết ơn  thần tướng, sai lập đền thờ, tôn Dóng là Phù Đỗng Thiên Vương .   
         
Trận chiến Sơn Tinh Thủy Tinh
Hùng Vương thứ 18 có người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Trong số người đến dạm hỏi, có 2 người tài giỏi khác thường. Một người là thần núi Tản Viên, gọi là Sơn Tinh. Người kia gốc gác chưa rõ lắm , ở mãi ngòai biển Đông, thường gọi là Thủy Tinh. Hai người đến cầu hôn, thi tài . Sơn Tinh làm  phép dựng núi  san đồi . Thủy Tinh hô mưa gọi gió, không ai chịu kém ai. Vua Hùng nghĩ  một cách bảo hai người ngày mai đem lễ vật đến: một trăm  ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, cùng các thứ quí khác . Ai đến trước thì nhận làm rể.  Sơn Tinh may mắn có quyễn sách ước  Lạc Long Quân và thần Thái Bạch biếu, nên giở sách, lầm nhầm một lúc là  đồ lễ vật đã hiện ra.  Tờ mờ sáng hôm sau Sơn Tinh đến trước, được phép đưa dâu về núi. Thủy Tinh chậm chưn, không lấy được vợ, đùng dùng nổi giận, đem quân đuổi theo để cướp lại Mỵ Nương. Thủy Tinh  hô mưa gọi gió, dâng nước theo nhiều ngã, đánh vào tận dinh lũy của Sơn Tinh. Sơn Tinh chống lại, cho bộ hạ chắn các dòng nước, dùng lưới sắt che ngang các khúc sông. Hễ nước dâng cao lên bao nhiêu thì Sơn Tinh lại nâng núi cao lên bấy nhiêu. Quân lính Sơn Tinh đứng trên cao bắn xuống. Bộ hạ của Thủy Tinh là các lòai ba ba, thuồng luồng, giải … chết xác nổi đầy sông. Mấy ngày ròng rã, Thủy Tinh  không sao tiến lên được, bị thiệt hại nặng, đành phải rút quân về. Tuy thất bại, nhưng Thủy Tinh vẫn cứ hậm hực. Bởi thế, nên năm nào cũng vào khỏang tháng 8, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh, gây nên ngập lụt hàng năm.
Giặc ngồi sau lưng nhà vua đó!
      
Huyền Thọai Nỏ Thần  Mỵ châu-  Trọng Thủy ở quê hương truyền thuyết là -kinh đô Cổ Loa, An ( ? ) Dương Vương Thục Phán, thay vua Hùng  lên ngôi , dời từ vùng Bạch Hạc – Việt Trì xuống- bị Triệu Đà, gửi con là Trọng Thủy sang đấy làm rể ( lấy con gái  Thục Phán là  Mỵ Châu ) –  làm con tin 3 năm do thám, điều tra tình hình, rồi  trốn về nước, báo vua cha xuất quân  đánh chiếm Cổ Loa  và Âu Lạc năm 179 trước Công Nguyên.  Đánh dấu ngàn năm giặc Tàu đô hộ, một  chặng đường bi tráng  lịch sử Việt Nam cổ đại. 





      Từ trận Bạch Đằng Giang đến  trận Như Nguyệt , Tuyên ngôn Độc Lập đầu tiên đọc ở  bờ sông Cầu
Ngô Quyền và Bạch Đằng giang 
      
Trận thắng lớn  trên sông Bạch Đằng của  Ngô Quyền năm  938, đánh tan ý đồ xâm lăng của vua tôi Nam Hán, ghi dấu một cơ sở cho  việc khôi phục quốc thông, một cái mốc  mở ra nền  Độc Lập – Tự Chủ  của dân tộc. Trận Như Nguyệt thắng các đạo quân xâm lăng nhà Tống;  đêm tháng 3 năm 1077, Lý Thường Kiệt đem 400 chiến thuyền  của quân ta ngược dòng sông Như Nguyệt , (sông Cầu tỉnh Bắc Ninh ) bất ngờ đánh vào cụm quân  Quách Quỳ từ hướng Đông, rồi  nắm đại quân vượt sông đánh thẳng vào cụm quân Triệu Tiết. Quách Quỳ cuối cùng phải phá vòng vây  chạy về phía Bắc, lại bị quân của phò mã Thân Cảnh Phúc chặn ở Chi Lăng, bị truy kích mạnh, đại bộ phận bị tiêu diệt, buộc lòng phải rút hết  quân về nước Tàu .  

              Bắc Ninh cũng là nơi sinh quán ở làng Cổ Pháp ( nay là  làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn-Bắc Ninh )  của Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên Lý Thái Tổ ( 974- 1028 ) triều đại  nhà Lý ( 1010- 1225 ) , truyền ngôi được 8 đời, lập ra “văn minh Đại Việt”, con tinh thần của những vị cao tăng xuất sắc  như nhà sư Vạn Hạnh, nhà sư Lý Khánh Văn chùa Ứng Tâm còn có tên là chùa Dặn  …  của trung tâm kinh tế  văn hóa Lục Tổ- Cổ Pháp thế kỷ thứ 10, chiếu theo giáo sư sử học Trần Quốc Vượng.  Sau thắng trận Như Nguyệt năm 1077, bài thơ của danh tướng Lý Thường Kiệt  “ Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư” nhiều người xem đó là bản Tuyên Ngôn Việt Nam độc lập đầu tiên, được đọc trên bờ sông Cầu.           
           
            Từ trấn Kinh Bắc  qua trấn Bắc Ninh, rồi tỉnh Bắc Ninh, sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, rồi trở lại tỉnh Bắc Ninh hiện nay .
           Trấn Kinh Bắc được thành lập  thời vua Lê Thánh Tông năm  1469.  Năm 1822, vua Minh Mạng  đổi trấn Kinh Bắc  ( phía Bắc kinh đô ) thành trấn Bắc Ninh ( an ninh phía Bắc ? ). Năm  1831, trấn Bắc Ninh  đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Từ những năm đầu thế 20 đến  cuộc Cách Mạng tháng 8 năm 1945, địa lý hành chánh Bắc Ninh ít thay đổi.  Bắc Ninh lúc đó gồm  2 phủ ( phủ là huyện lớn nay cấp này đã bị bỏ ), 8 huyện, 78 tổng ( cấp này nay cũng đã bỏ ) và 599 xã.  Như đã nói trên, năm 1962, Bắc Ninh và Bắc Giang sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc. Năm 1996  Hà Bắc tách thành 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang .  

                  Địa hình , đất đai
          Địa hình Bắc Ninh chủ yếu  là đồng bằng châu thổ được phù sa của sông Đuống và sông Thái Bình bồi đắp.  Tác động các quá trình địa mạo  và họat động  kinh tế của con người tạo ra  các dạng đồng bằng sau đây :
             - Đồng bằng tích tụ  xâm thực đồi sót  ở Yên Phong, Quế Võ với độ cao  100-200m, có các đồi  bào mòn xâm thực hình thành các thềm phù sa cổ  cao 10-20m .
             - Đồng bằng  tích tụ xâm thực  phù sa ở các huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài.  Ở đây không có đồi sót, chỉ có phù sa sông Hồng, sông Thái Bình  mới bồi tụ, phủ trên lớp trầm tích biển. Hiện nay là vùng đất phù sa trong đê, nên không còn được bù đắp nữa . 
            -  Ở một số xã thuộc huyện Thuận Thành, nơi giáp ranh với thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, có  một vài nơi là đồng bằng tích tụ  trên nền địa  chất phù sa mới của sông Hồng, nhưng do đê ngăn không còn được bù đắp  hằng năm nữa .
        
         Đất đai phân chia ra: ( phần này chiếu theo Thái Công Tụng )  
           - Đất xám bạc màu trên phù sa cổ - Haplic Acrisols ở các huyện Yên Phong - Quế Võ , hình thành gắn liền với qúa trình sử dụng và canh tác lúa nước, qúa trình rửa trôi và bào mòn.  Cấu trúc phẩu diện  đất bạc màu  phân tầng rỏ rệt theo màu sắc, trong phẩu diện xuất hiện loang lổ đỏ vàng xen lẫn các ổ kaolin trắng. Hàm lượng hửu cơ ( mùn ) các chất dinh dưỡng: lân, đạm, ka li  nghèo nàn -  thấp. Năng xuất  cây trồng cũng thường rất thấp. Vài nơi có hiện tượng gley- hóa thành đất  chua- acid, nghèo hửu cơ, các dưỡng liệu. 
            - Đất phù sa  được xám gley – Gleyish Acrisols,  Low –humic gleysoils, gặp ở độ cao trên 10m, địa hình bậc thang thấp vùng gò đồi, bồi hằng năm- Eutric Fluvisols,  ởcác vùng ngòai đê sông Đuống, sông Thái Bình, dọc theo sông Cầu. Đây là  lọai đất phù sa trung tính nhiều dưỡng liệu, độ  phì nhiêu khá cao, làm được nhiều vụ lúa mỗi năm.
           - Đất phù sa không được  bồi hằng năm ở Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài. Hàm lượng hửu cơ trung bình, dưỡng liệu từ trung bình đến khá  cao, ít chua. Tuy nhiên ở địa hình  chiêm trũng, ngập nước  gần quanh năm có hiện tượng gley hóa,  biến thành đất  Gley – Dystric Gleysols, hay đất Gley chua, có phản ứng rất acid ở tầng đất mặt, khả năng hấp thu kém, nghèo dưỡng liệu. Quá trình gley hóa  này ở những nơi quá yếm khí, nhiều hửu cơ có thể tạo ra “đất phèn” . Bắc Ninh, năm 2000, ước lượng còn  5000 ha đất trũng thuộc các huyện Gia Bình, Quế Võ và Yên Phong;  chỉ mới làm  ruộng được hai vụ mà thôi, cố gắng lắm mới làm đến  2.5 vụ một năm.   

              Thủy Văn , khí hậu  

                                                              Sông Cầu nước  chảy lơ thơ
                                                          Đôi ta thương nhớ bao giờ cho nguôi .
                                                                                         ( Ca Dao )
                                                                
                                                    …Em ơi buồn làm chi
                                                       Anh đưa em về sông Đuống
                     Ngày xưa cát trắng phẳng lì

                  … Bên kia sông Đuống
                     Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
                     Tranh Đông Hồ gà lợn  nét tươi trong
                     Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…. 

                … Ai về bên kia sông Đuống
                    Cho ta gửi tấm the đen
                    Mấy trăm năm  thấp thóang mộng bình yên
                    Những hội hè đình đám
                    Trên núi Thiên Thai
                    Trong chùa Bút Tháp .
                    Giữa huyện Lang Tài
                                                      Gửi về may áo cho ai
                                                      Chuông chùa văng vẳng  nay người ở đâu ? …
                           
                                                                       ( Hoàng Cầm 1922 - 2010 )

            Như đã nói trên, Bắc Ninh có 4 sông lớn chảy qua là sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình và sông Ngũ Huyện Khê.  Sông Đuống dài 65 km, nối sông Hồng với sông Thái Bình, đoạn qua Bắc Ninh  từ Đình Tổ ( Thuận Thành ) đến  Cao Đức ( Gia Bình ) dài  42 Km. Sông Cầu  dài 290 km, đọan chảy qua địa phận Bắc Ninh  từ  Tam Giang ( Yên Phong ) đến Đức Long ( Quế Võ )  dài 69km. Sông Thái Bình dài 63 Km, đọan chảy qua Bắc Ninh từ Đức Long  đến Cao Đức dài 16km. Sông Ngũ Huyện Khê chảy qua Bắc Ninh 24 km, từ Châu Khê đến Vạn Yên ( Yên Phong ). Dòng chảy  sông ngòi phân phối thành hai mùa rỏ rệt. Mùa lũ từ tháng  6 đến tháng 10; các tháng lũ lớn nhất là  6, 7 và 9;  cực đại vào tháng 8 ( như đã nói ở huyền thọai Sơn Tinh – Thủy Tinh ). Lượng dòng chảy  mùa lũ chiếm 70-85 %  lượng dòng chảy cả năm. Mùa cạn từ tháng 10 đến tháng 5; cực tiểu vào tháng 2, tháng 3. Các sông Bắc Ninh  là nguồn lợi về thủy sản, nguồn nước tưới  cho đồng ruộng và là các tuyến giao thông đường thủy tỉnh nhà.
Ba con sông ( sông Cầu, sông Đuống và sông Thái Bình ) chảy qua Bắc Ninh tạo ra một mạng lưới đường thủy, có thể nối liền Bắc Ninh với các tỉnh khác.  Tổng chiều dài đường thủy là 127km; có 2 cảng  trong đó cảng Thị Cầu năng lực năm 1999 chỉ mới đến 200 000 tấn . 

          Bắc Ninh thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến, á đới có mùa đông lạnh và khô rõ rệt.  Lượng bức xạ phong phú , tổng xạ  cao  100- 120 kcal / cm2 / năm. Vì thế  Bắc Ninh có nền nhiệt độ cao, tổng nhiệt độ  trên 75000 C. Hòan lưu khí quyển  gồm : - gió mùa  mùa đông  có không khí cực đới từ Xibêria  đến theo  hướng đông bắc  làm mùa đông Bắc Ninh lạnh khô rỏ rệt- và gió mùa mùa hè  là gió mùa tây nam hội tụ với tín phong bắc bán cầu, gây ra  mưa lớn.  Xen kẻ  với gió mùa còn có tín phong  đế  từ áp xuất cao  Tây Thái Bình Dương  và từ khối  chí tuyến Đông Nam Á . Nhiệt độ trung bình cả năm là 21 – 230C, cao nhất vào tháng 7 tới  29.2 0C, thấp nhất vào tháng  giêng  150C. Mùa đông lạnh khô, tòan tỉnh có 3 tháng nhiệt độ dưới 180 C. Lượng mưa trung bình trong năm là 1800mm. Số giờ nắng  khoảng  1700- 1800 giờ /năm , nên rất thích hợp  cho cây trồng.
                    
                      Thắng cảnh, danh nhân tỉnh nhà

               Ngòai di tích Cổ Loa, phải kể đến :

Đền Đô
·             Đền Đô ở làng Đình Bảng , huyện Từ Sơn,  cách thủ đô Hà Nội  18 km. Thờ 8 vua đời nhà Lý; hằng năm có lễ hội lớn. Đền Đô được xây dựng dưới triều Lê, sau đó được trùng tu nhiều lần, lớn nhất  vào thời Lê Trung Hưng  thế kỷ thứ 17  với kiểu “ nội công ngọai quốc” xung quanh có tường thành vây bọc. Đền Đô còn giữ được nhiều tài liệu lịch sử quan trọng, đặc biệt  là tấm  văn bia cổ  của Phùng Khắc Khoan, khắc năm 1602 .  
               
 *   Đình  Đình Bảng , cách Hà nội 20km. Theo kiến trúc sư Đặng Thái Hòang,  đây là một trung tâm kiến trúc lớn với vô số các điểm di tích ghi trên bản đồ,  trong đó  có ngôi đình Đình Bảng  nổi tiếng đất Kinh Bắc, ca dao xưa từng ca ngợi  
                                                 Hỡi cô thắt lưng bao xanh
                                            Có  về Đình Bảng với anh thì về …
Bên ngòai Đình Bảng
      
Đình làng Đình Bảng do ông Nguyễn Thác Lượng  cùng vợ là bà Nguyễn thị Nguyên hiến gỗ đứng ra tạo dựng, dân gian và thợ trong vùng góp công, góp sức 36 năm sau ngày khởi công ( 1700- 1736 ) ngôi đình mới hòan thành. Đình Bảng thờ thần Cao Sơn ( Thổ thần), Bạch Lễ ( thần Ngày mùa ), Thủy Bá ( thần Nước ), sau đó thờ thêm vợ chồng Nguyễn Thác Lượng. Đinh gồm  tòa Đại Đình đồ sộ  nối với Hậu Cung  ở phía sau  theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ. Tòa Đại đình dài 20m , rộng 14m cao 8m phần mái rủ xuống đẹp đẽ đã chiếm tới 5.5m. Vẽ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở sự tỏa rộng trong không gian của mái đình, sự đồ sộ của những đầu đao, khả năng thích nghi với khí hậu  của công trình (  kiểu nhà sàn, của bức bàn chống mưa, nắng ) và sự sung mãn về trang trí điêu khắc. Những cây gỗ lim  ở đây to hiếm thấy, đường kính 0.65m  đối với cột lớn và 0.55m đối với cột con. Trang trí, điêu khắc nội thất đình Đình Bảng với những đường uốn lượn tài tình, khi bay bổng mạnh mẽ  khi lan tỏa nhịp nhàng, thể hiện cụ thể ở các vì nóc, cốn, cữa võng  gây cho người xem một cường độ xúc cảm mạnh mẽ, là một điểm trội đáng ca ngợi nhất của ngôi đình. Hình khối tổng thể của kiến trúc ngôi đình nói chung đơn giản, giàu sức khái quát, nhưng chi tiết trần thiết lại phức tạp, đó cũng chính là một trong những nguyên lý nghệ thuật đưa công trình tới chỗ thành công.
bên trong Đình Bảng 
* Đền Bà Chúa Kho. Từ Hà Nội  theo quốc lộ 1A, qua ga Thị Cầu, rẽ trái đi khỏang 500m là đến làng Cổ Mễ, xã Vũ Ninh, thị xã Bắc Ninh nơi có đền thờ bà Chúa Kho. Tương truyền bà là một  người phụ nữ đã khéo tổ chức, tích trữ lương thực, trông nom ngân khố thời kỳ trong và sau chiến thắng Như Nguyệt ( 1076 ). Khi bà qua đời, dân gian lập đền thờ ghi lại công ơn của Bà. Đền Bà Chúa Kho nay đã được tu sửa khang trang, thu hút nhiều khách thập phương từ Bắc đến Nam về lễ .

* Chùa Dâu ở thôn Khương Tự ( còn gọi là làng Dâu ), xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, cách Hà Nội 30km.  Chùa được dựng vào thế  kỷ thứ 2 hay đầu thế kỷ thứ 3 và trở thành Trung tâm Phật Giáo thời bấy giờ. Đây là   chùa đền xây dựng đầu tiên ở Việt Nam.   Chùa được  Mạc Đĩnh Chi  tái dựng và nới rộng vào thế kỷ thứ 14, trùng tu lại nhiều lần ở thế kỷ thứ 15. Hiện nay trên sân chùa có Tháp Hòa Phong, ba tầng cao 17m. Trong tháp, Vua Minh Mạng năm  1817  đã cho đúc  một  thạp  chiêng- gong đồng thau lớn,  tiếp theo chuông đồng lớn  kiểu thời Cảnh Thịnh ( 1793 ). Từ thế kỷ thứ nhất  sau Công nguyên, vùng Thanh Khương đã lừng danh Phật Giáo trong nước và ngọai quốc. Trong Phật điện  chính có pho tượng  nữ thần Pháp Vân  ( nữ thần Mây ) ngồi trên tòa sen,  cho nên chùa còn có tên là  Pháp Vân tự . Ngòai ra còn có tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ.

Chùa Phật Tích được khởi dựng  vào khỏang thế kỷ 11 ở sườn núi Phật Tích, xã Phật Tích , huyện Tiên Du

Chùa Bút Tháp
* Chùa Bút Tháp  cũng theo kiến trúc sư Đặng Thái Hòang xây dựng năm  1646- 1647 đời Hậu Lê, nhưng theo những bia đá ghi lại thì có lẽ còn sớm hơn nữa, từ thời Trần,tên chữ là Ninh Phúc  tự . Chùa được xây dựng  trong một  thời kỳ lịch sử đất nước đầy những biến động, giằng xé. Chùa Bút Tháp với hệ thống không gian phát triển nhiều tháp và bia đá tự nó nói lên  tầm quan  trọng kiến trúc  chùa tháp trước xã hội đương thời.  Quần thể kiến trúc chùa Bút Tháp  như một ốc đảo dài  điểm xuyết cây xanh, nổi bật trên một cánh đồng sóng lúa mênh mông, đã được bố cục theo một quy luật trật tự nghiêm khắc nhất. Một dây chuyền công năng bảo đảm cho  những thủ tục tôn giáo theo đúng trình tự đã được bài trí: khách hành hương sẽ phải lần lượt qua Tam Quan, gác chuông, Tiền Đường, Thiêu Hương, Thượng Điện, tòa Cửu Phẩm, nhà Trung, Phủ Thờ, Nhà Tổ …  Chỉ có những tòa tháp trong đó có Tháp Báo Nghiêm ( Tháp Bút )  bằng đá là được sắp đặt tương đối  tự do, tưởng như không ở trong vòng quy luật của bố cục mặt bằng. Tháp Báo Nghiêm cao 13.05m, năm tầng với một tầng đỉnh  xây bằng đá xanh. Ngòai tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2m. Phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan  can cũng có những đặc điểm đáng chú ý. Riêng ở tầng trệt  có 13 bức chạm đá lấy đề tài  động vật là chánh. Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ  chịu lực nhưng nền, bệ, lan can dùng đá rất phổ biến. Hình  khắc đá ở đây chủ yếu là động vật, có điểm xuyết thêm mây trời, hoa lá , đáng chú ý là  tư thái của chim, cò, hươu, khỉ, rồng, hổ, ngựa,  trâu v.v…  thảy đều rất sinh động, đặc biệt là mấy chú khỉ được tác rất thần tình. Trong chùa, tượng gỗ Quán Âm nghìn mắt nghìn tay của nhà điêu khắc họ Trương, hòan thành năm 1656,là tác phẩm tiêu biểu  của điêu khắc Việt Nam  300 năm trước. Hai kiệt tác điêu khắc  khác nữa  làm thành một bộ ba tác phẩm danh bất hư truyền là tượng Tây Thiên  Đông Đô Việt Nam lịch đại  tổ  và tượng Thị Kính.  Ngoài ra còn tượng các nhà sư đã trụ trì nơi đây. Và đặc biệt nữa là các tượng Hòang Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ .     
Tượng Phật ngàn tay bên trong Chùa Bút Tháp
            Ngòai ra còn có đình Cổ Mễ , đình Đông Hồ ( còn gọi là đình Tranh, thuộc làng Đông Hồ, huyện Thuận Thành)  nơi chợ Tranh họp vào dịp tết Nguyên đán, khách xa gần nô nức về mua tranh và nơi tổ chức hội thi đồ mã phản ảnh một nét đặc thù họat động kinh tế và văn hóa người dân làng Đông Hồ .
Tranh Đông Hồ
          Di tích lịch sử Bắc Ninh thường nói đến di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt thuộc thôn Thọ Đức,Tam Đa, huyện Yên Phong. Tại Thọ Đức, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng nhiều trại quân lớn, hiện còn  dấu tích trong lòng đất: trại Chinh, trại Chùa, trại Quýt, trại Mái Ấm, trên khu vực bãi Miễu, Lý Thường Kiệt cho xây dựng một phòng tuyến lớn chặn giặc ở cửa sông Thọ Đức. Xung Quanh là các khu hậu cần: kho Dốc Gạo  kho Cung ở gò Cung, kho Gươm ở gò Guơm.  Di tích Núi Dinh còn có tên là núi Thanh hay núi Pháo Đài, nằm trên đất của hai phường Thị Cầu và Đáp Cầu.                

Danh nhân Bắc Ninh  là Lý Vạn Hạnh, Lý công Uẩn,  Lý Nhân Tông và Nguyên Phi Ỷ Lan…. đã được nhiều người đề cập đến nên không bàn thêm ở đây nữa.  Trên phương diện văn hóa, văn học, Bắc Ninh là một tỉnh hiếu học từ  ngàn xưa, có nhiều người đổ  hòang giáp tiến sĩ (đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân), tam khôi ( đệ nhất giáp hay tiến sĩ cập đệ ): trạng nguyên , bảng nhãn, thám hoa …  Trong 800 năm  lịch sử các kỳ thi hội, thi đình  Việt Nam thời xưa, Bắc Ninh có hơn  600 tiến sĩ và 17 trạng nguyên, chiếm 1/3  tiến sĩ và trạng nguyên cả nước. Trong số trạng nguyên xứ Kinh Bắc  như  Nguyễn Quan Quang (đổ trạng năm 1232), Lý Đạo Tái ( đổ trạng năm  1272 ), Nguyễn Nghiêu Tư ( đổ trạng năm 1446 ), Vũ Kiệt ( đổ trạng năm 1473 ), Nguyễn Quang Bật ( đổ trạng năm 1484 ), Nghiêm Hỏang ( đổ trạng năm 1496 ), Nguyễn Giang Thanh ( đổ trạng năm 1508 ), Ngô Miên Thiều ( đổ trạng năm 1518 ), Nguyễn Lượng Thái ( đổ trạng năm 1553 ), Phạm Quang Tiến ( đổ trạng năm 1565 ), Vũ Giới ( đổ trạng năm 1577), Nguyễn Xuân Chính ( đổ trạng năm   1637 ), Đặng  Công Chất ( đổ trạng năm  1661 )… đáng lưu ý thêm là  Lý Đạo Tái ( 1254- 1334 ) làng Vạn Tài, huyện Thuận Thành. Lý Đạo Tái  làm quan  ở Đông Các Viện Hàn Lâm, nhưng bỏ đi tu ở chùa Quỳnh Lâm ( Hải Dương ), được sư Pháp Loa và Trần Nhân Tông ( tổ thứ nhất  phái Phật Trúc Lâm) rất trọng. Năm  1371, Pháp Loa ( vị tổ sư  thứ 2 ) đem y bát  của Điều ngự giác hòang ( tổ thứ nhất ) truyền cho. Sau Lý Đạo Tái lên tu ở núi Yên Tử  làm vị tổ thứ 3 của phái Phật Trúc Lâm, với đạo hiệu  Huyền Quang tôn giả. Huyền Quang tôn giả  giỏi thơ văn.  Hiện còn tác phẩm Trần Triều thế phả hành trạng .    

   Trong số các nhà văn Bắc Ninh phải kể đến  Ngô Tất Tố (1894-1954), con một nhà nho nghèo làng Lộc Hà , huyện Từ Sơn là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu Hán học. Lớn lên  trong lúc Nho học suy tàn, Ngô Tất Tố đã “ bỏ bút lông, cầm bút sắt”, viết báo , viết văn. Sáng tác văn xuôi của ông là các tiểu thuyết  “ Lều chỏng”, “ Việc Làng “ , phóng sự “ Việc Làng”.  Các sách nghiên cứu lịch sử và văn hóa là: “ Vua Hàm Nghi và  việc kinh thành thất thủ”, Phê bình cuốn  “Nho giáo của Trần Trọng Kim” , “ Lảo Tử” , “Mặc Tử” v.v…   Các tác phẩm sau Cách Mạng tháng 8 là vở chèo Bùi Thị Phát , các bút ký  Phiên Chợ Trung Du  , Quà Tết Bộ Đội ….Ngô Tất Tố còn là một nhà chính luận xuất sắc, có uy tín, mang tư tưởng dân tộc - quốc gia và xã hội cấp tiến.

Phần II : 
Lạm bàn phát triển tỉnh Bắc Ninh

Khái niệm một quốc gia công nghệ
          
               Năm 1996, Việt Nam đã tự cho là đang ở giai đọan ” cất cánh phát triễn kinh tế”  khi Tổng Giá trị Sản phẩm Nội địa - Gross Domestic Products (GDP)  đạt khỏang trên 200 đô la Mỹ ( USD )  mỗi người ( vào năm 1990 ), tuy rằng  đến năm 2000 dự kiến cũng chỉ  dưới 600 USD, theo cách xếp hạng của Ngân hàng Thế giới vẫn thuộc  nhóm các nước có thu  nhập thấp kém.  Dự kiến đến năm  2020, GDP trên mỗi người sẽ đạt trên 2000 USD , chỉ mới tương đương mức quân bình của các Nước Công nghiệp Mới – Newly Industrializing Country ( NIC ) ở giữa thập niên 1980, nằm trong số  các nước có mức thu nhập trung bình,  mặc dầu vẫn còn dưới mức quân bình  GDP/ người tòan thể thế giới. Và đến năm 2020, Việt Nam  sẽ có cơ cấu kinh tế căn bản  của một nước công nghiệp. Nhắc lại  là một nước muốn được xem là NIC  phải có GDP xấp xĩ bình quân tòan thế giới, thu hút tập trung vốn đầu tư  của các tổ chức  đa quốc gia, tiến tới  có sản phẩm  công nghiệp chế biến hiện đại  xuất khẩu với qui mô lớn, tốc độ  tăng trưởng GDP  bình quân cao  8-10%  hàng năm  và liên tục nhiều năm, tỉ trọng dân cư đô thị  vượt trên 50 % dân số cả nước v.v …  Tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 1990-95 là 8.2%, năm 1995  trên 9% , tương đương  mức tăng trưởng các nước mạnh Đông Nam Á ( Singapore 9%,  Thái Lan 8.5%,  Malaysia 9.3 % ). Sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận và Việt Nam tham gia ASEAN, đầu tư nước ngòai vào Việt Nam  cuối năm 1995  tăng gần gấp đôi, so với số đầu tư giai đọan 1988- 1994 , nâng tổng số vốn đầu tư  của nước ngòai vào Việt Nam lên trên 18 tỉ USD . Cơ cấu kinh tế trong nước bắt đầu  chuyễn biến theo  hướng công nghiệp hóa;  tỉ trọng các ngành công thương nghiệp dịch vụ tăng lên. Tỉ trọng nông nghiệp ở GDP giảm dần từ 39,5%  năm 1991 xuống 28.7% năm 1994. Công nghiệp chiếm tỉ trọng 29.5 % , dịch vụ là số còn lại. Dự kiến năm 2000, nông lâm ngư nghiệp sẽ chỉ còn 19- 20 % ; công nghiệp và xây cất căn bản tăng lên đến 34- 35 %  và dịch vụ  tăng lên đến 45 – 46 % .    

        Theo Dự án Trung Ương - Hà Nội năm 1982, phân chia phát triễn kinh tế Việt Nam thành 5 vùng kinh tế lớn. Bắc Ninh thuộc Vùng I là Vùng  Đông Bắc Bắc Bộ  gồm 10 tỉnh : Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình và thành phố Hải Phòng. Trung tâm Vùng I là Hải Phòng. Vùng I có diện tích là  40 000 km2 , dân số năm 1999 là 14 triệu. Tài nguyên chánh là than, sắt, kim lọai màu , đá vôi, kaolin- caolanh, khí dầu, lâm sản, hải sản , cảng quan du lịch, nghĩ mát. Nông nghiệp vùng I có sản lượng  lương thực bình quân cao trên trung bình cả nước và chiếm  80% sản lượng đay , 30% sản lượng cói,  1/3 sản lượng  rau quả  và gia súc cả nước… Bắc Ninh của Vùng I là một tỉnh nghèo về tài nguyên khóang sản . Các khóang sản chủ yếu là phi khóang ( vật liệu xây dựng)  như đất sét làm gạch ngói, gốm với trử lượng không lớn  - khỏang  4 triệu tấn - ở Quế Võ , Tiên Du và thị xã Bắc Ninh, đá cát kết trử lượng khỏang 1 triệu tấn ở Thị Cầu – Bắc Ninh, đá  sa thạch ở  Vũ Ninh – Bắc Ninh, trử lượng 3 triệu m3, than bùn  ở Yên Phong  trử lượng  khỏang 60 – 200 000 tấn. Vì vậy cho nên chuyễn dịch qua hướng công nghệ xây cất Bắc Ninh  từ năm 1995 đến năm  2000  có phần chậm trễ , khu vực nông nghiệp  năm 1999 vẫn còn chiếm  35. 9% GDP tỉnh nhà , tuy cũng đã giảm xuống  từ 51.55 % năm 1995.  Trong công nghiệp,  chỉ có  xây dựng  tăng khá nhanh từ  8.0 % năm 1995 lên  29.5 % năm  1999. Dịch vụ  cũng tăng khá chậm từ 27.6  năm 1995 và 29.0% năm 1996, lên  31.15% năm 1998 và  34.6  % năm 1999.  Năm 1999 về qui mô GDP, Bắc Ninh đứng thứ 42 , GDP/ người thứ 35, thu ngân sách thứ 56 trong số 61 tỉnh, thành phố cả nước.

              Nhiều cố gắng đáng kể mới đây về công nghiệp hóa Bắc Ninh
Bắc Ninh ngày nay
             Từ năm 1990 đến năm 2000, nhìn chung các cơ sở công nghiệp Bắc Ninh  có quy mô nhỏ  và  tiểu thủ công nghiệp, tuy phân bố tương đối đều trên tòan tỉnh. Năm 2000, chỉ thiết lập được 2 khu công nghiệp đáng kể  là khu công nghiệp Từ Sơn, thuộc các xã Đồng Nguyên , Hòan Sơn , Nội Duệ nằm sát Từ Sơn cách  Hà Nội 23 km, giữa quốc lộ 1A cũ  và quốc lộ 1B mới, gần đường sắt đường thủy  và sân bay quốc tế Nội Bài, dự trù phát triễn chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất các sản phẩm thêu, may mặc, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử, tin học, tự động hóa ( rôbốt ), sản xuất bao bì, giấy, nhựa, xốp. Khu công nghiệp tập trung Quế Võ thuộc xã Phương Liễu – Vân Dương ( Quế Võ), cách thị xã Bắc Ninh 6km, nằm bên quốc lộ 18 ( Bắc Ninh- Phả Lại )  và gần giao điểm hai quốc lộ 18 và quốc lộ số 1B mới.  Dự trù phát triễn ở khu Quế Võ một số ngành công nghiệp nặng chế tạo các sản phẩm vật liệu xây dựng cao cấp, cơ khí, phân bón hóa học, và các ngành công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ nông nghiệp.   5 cụm công nghiệp  hình thành ở Bắc Ninh năm đó là  cụm Lạc Vệ chuyên chế biến thực phẩm, dệt, da;  cụm Thuận Thành chuyên chế biến có quy mô vừa và nhỏ; cụm Đình Bảng  chuyên về các nhành vật liệu xây dựng, cơ kim khí vừa và nhỏ, sành sứ gốm; cụm Đông Tiên- Hàm Sơn ( Yên Phong ) chuyên các ngành bảo quản chế biến nông sản thực phẩm , sản xuất vật liệu  xây dựng cao cấp, dệt may, phân hửu cơ vi sinh… ; cụm Phá Lãng chuyên chế biến nông sản thực phẩm, vật liệu xây dựng cao cấp, dệt may … quy  mô vừa và nhỏ .     

Mười năm sau , tính đến năm 2010 , Bắc Ninh  khởi sự một phục hưng đầu tư khi các hảng tòan cầu khổng lồ như Canon, Foxcom , Samsung, Orion,  Sumitomo và ABB chọn Bắc Ninh  xây dựng cơ sở  ở Việt Nam . Các hảng này cũng  làm  nam châm từ tính giúp các hảng khác thịnh vượng thêm ở tỉnh nhà. Lợi dụng hòan thành các xa lộ cao tốc, đường xe lữa Xuyên Việt cải thiện ( đọan Yên Viên –Bắc Ninh  dài 20km ) và đường sông đáng kể, kế cận thủ đô Hà Nội ….,    Bắc Ninh nhắm mục đích trở thành  một  trung tâm phát triễn kinh tế quan trọng cho Tam giác  Kinh tế Hà Nội- Hải Phòng – Quảng Ninh. Trước hết,  phát huy tiềm năng lớn lao các khu công nghiệp cận đại.  Bắc Ninh nay đã  thiết lập 15 khu công nghệ ( công viên công nghệ ) tập trung , tổng số diện tích là 7 681 ha ( 6847 ha cho  khu công nghệ và 834 ha cho khu  đô thị ); 10 khu này đã đầu tư xong xây cất và hoạt động với hạ tầng cở sở tân tiến  như  hệ thống giao thông nội khu, hệ thống điện  thắp sáng và  cho sản xuất, hệ thống nước sạch,  hệ thống trị sạch nước thải ống cống, đúng theo nhu cầu hiện đại của các nhà đầu tư.  Phát triễn  các khu công nghệ tập trung Bắc Ninh được quy họach kỹ lưỡng, nối kết  phát triễn xã hội kinh tế  giữa nhiều vùng trong tỉnh nhà,  giữa các khu công nghệ và các nhóm khác, giữa Bắc Ninh và các địa phương lân cận. 15  khu công nghiệp tập trung là :  Tiên Sơn , Đại Đồng- Hòan Sơn , VSIP- Việt Nam Singapore Industrial Park, ,Hanaka và Từ Sơn ở xa lộ 1, Yên Phong I, II ở xa lộ 188, Quế Võ 1, 2, 3 , Đại Kim và Nam Sơn – Hạp Linh ở quốc lộ 18 , Thuận Thành 1, 2, 3 và Gia Bình phía Nam sông Đuống ( chiếu theo Nguyễn Nhân Chiến, chủ tịch Ủy Ban  Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh ).

Khu công nghệ Quế Võ
Kể từ  cuối năm 2001, khi khu công nghệ  cận đại tập trung đầu tiên, rộng 134 ha giai đọan đầu, được phát triễn ở Tiên Sơn,  đến tháng 11 năm 2010 Bắc Ninh  tuần tự đã đưa vào hoạt động thêm 9 khu công nghệ nữa là Tiên Sơn , Đại Đồng ,  Hòan Sơn, Quế Võ , Yên Phong I, VSIP Bắc Ninh, Yên Phong II  Thuận Thành 3, Quế Võ 2 , Nam Sơn- Hạp Linh . Mọi công viên công nghệ  đều có những thành phần quan trọng  các dự án đầu tư ngọai quốc và trong nước,  tạo những điều kiện thuận lợi tiếp nhận những kỷ thuật tiên tiến, tăng cường các sác xuất  tăng trưởng công nghiệp, chuyễn hướng cấu tạo kinh tế và lao động, góp phần phát  triễn kinh tế xã hội Bắc Ninh.

 Đến cuối tháng 5 năm 2010, các công viên công nghệ đã sử dụng 44 506 nhân viên lao động , gồm 21 906  nhân công địa phương, nghĩa là 49.2 % tổng số người đến tuổi lao động tỉnh nhà.  Vào cuối năm 2009, có 15 quốc gia   và lảnh thổ thế giới đầu tư ở các công viên công nghệ Bắc Ninh . Gần đây nhất là các dự án lớn FDI của những tổ hợp đa quốc gia như Canon ( Nhật Bổn ),  Sam Sung ( Hàn Quốc – Nam Hàn )  và ABB ( Thụy Điển )  đầu tư mạnh mẽ vào các lảnh vực điện, điện tử, viễn thông và công nghệ chính xác – precise engineering. Tính đến cuối tháng 3 năm 2009, các công viên công nghệ Bắc Ninh  đã đầu tư tư bản tổng gọp  là 3.126  tỉ USD, gồm luôn 359 triệu USD ở ngành  công nghệ - engineering sector , 178 triệu USD vào chế biến thực phẩm, 62 triệu USD vào vật liệu sản xuất, 1 621 triệu USD vào điện tử và viễn thông và 915 triệu USD ở những lảnh vực khác. Nam Hàn dẫn đạo các nhà đầu tư ngọai quốc ở Bắc Ninh với 46 dự án tổng cọng tư bản là 989.8 triệu USD. Tiếp theo là Nhật Bổn với 36 dự án trị giá 404 .4 triệu USD, Đài Loan 18 dự án trị giá 218.2 triệu USD, Singapore 13 dự án  trị giá  172 triệu USD, Hồng Kông 15 dự án trị giá 100.69 triệu USD, Trung Quốc 11 dự án  trị giá 32.59 triệu USD, Liên Hiệp Âu Châu 3 dự án trị giá 34 triệu US và các quốc gia khác 35 dự án trị giá 285,27 triệu USD.               

Năm 2009, gía trị sản xuất công nghệ Bắc Ninh là 19 421 tỉ đồng Việt Nam ( VND). Năm 2010 đạt hơn 23 000 tỉ, cao hơn chỉ tiêu   11,4 % và chỉ tiêu cho 2011  là 38 600 tỉ VND ( ? ). Năm 2009, tỉnh xuất khẩu 1004 triệu USD ; năm 2010 ước lượng 1 485 triệu và chỉ tiêu cho năm 2011 là 1782 triệu. Năm 2009, nhập khẩu vào tỉnh là 881 triệu USD, năm 2010 ước lượng 1214 triệu và chỉ tiêu cho năm 2011 là 1457 triệu. Năm 2009,  dự trù 36 doanh nghiệp mới , năm 2010 ước lượng  30 doanh nghiệp mới, năm 2011 chỉ tiêu là  34. Năm 2009, tư bản đầu tư là 326 triệu USD, năm 2010 ước lượng 350 triệu, cao hơn chỉ tiêu là  300 triệu . Dự án đầu tư năm 2009 là  51, năm 2010  là 50  cao hơn số chỉ tiêu là 35 và năm 2011 chỉ tiêu là 40. Nhờ đóng góp của những họat động doanh nghiệp tại các công viên công nghệ,  từ năm 2007 đến năm 2011, Bắc Ninh đã tiến lên  hàng thứ 6 trong số  chỉ tiêu khả năng cạnh tranh các tỉnh tòan quốc.         

 Các sản phẩm xuất tỉnh hiện nay là áo quần,  đồ in, điện tử , bàn ghế  và tiểu công nghệ mỹ phẩm…  Đến   giữa năm 2011, các khu công nghệ sẽ tụ điểm vào các lảnh vực cao kỹ- high tech, thân thiện môi sinh , kỷ thuật sạch hầu trở thành một trong ba tỉnh có đầu tư ngọai quốc FDI  cao nhất nước  và chuyễn hướng cơ cấu kinh tế theo một chiến lược  tân tiến và bền vững để trở thành một tỉnh công nghệ vào năm 2015 ( ? )

Sau đây là sơ lược vài tổ hợp  đầu tư ở Bắc Ninh
MiTac Precision Technologi Vietnam
             Tổ hợp Kỹ thuật chính xác  -  Precision Technologies MiTAC Đài Loan, đã khánh thành tháng 10 năm 2005, một cơ sở công ty ở  công  viên công nghệ Quế Võ là MiTac  Precision Technology –  MPT . Nhà máy lớn MPT Việt Nam là nhà máy thứ ba chế tạo  hội nhập thẳng đứng – vertically integrated manufacturing  của Tổ hợp MiTAC  International Group, sau các nhà máy MiTAC Shunde ở  tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc  và MiTAC Kunshan  ở tỉnh Giang Tô. 
Nhà máy Quế Võ này  chiếm 134 600 m2, đầu tư trị giá 15 triệu USD.  Giai đọan đầu, hòan  thành giữa năm 2006,  để sản xuất giữa năm 2007  chế tạo những sản phẩm điện tử như các máy in – printers , máy chụp hình kỷ thuật số- digital cameras,  các máy chạy DVD , hộp đựng  và các bộ phận điện thọai di động. Riêng máy in sẽ sản xuất 350 000 máy một tháng.  Các chức năng nhà máy nới rộng sau 2007, sẽ gồm luôn cả họa kiểu  và phát triễn  khuôn đúc tiêm – injection molds .  Giai đọan đầu sẽ sử dụng 1000 nhân viên  giáo dục  tỉnh cấp cao.  Năm 2007, lợi tức đã  trên 1 tỉ  đô la NT và dự trù đầu tư và tuyễn thêm nhân viên, triễn khai nhà máy biến MPT Việt Nam thành một nhà máy kích thước lớn chế tạo hội nhập thẳng đứng  của Tổ hợp. Ngòai việc kế cận thủ đô Hà Nôi, so với nhiều tỉnh khác  nhân công Bắc Ninh tương đối rẽ, nhiều cán bộ chuyên viên giáo dục đào tạo tốt, chánh phủ Việt Nam có chánh sách muốn phát triễn công nghệ  cao kỹ, một khung cảnh luật pháp, hành chánh  và thuế khóa khích lệ đầu tư ngọai quốc, công viên công nghệ Quế Võ  gần nhà máy MiTAC Quảng Đông có hệ thống xe lữa và xa lộ nối mau chóng hai nhà máy; hơn nữa một khách hàng của Tổ hợp là Tổ hợp Canon cũng đầu tư thiết lập một nhà máy mới ở công viên Quế Võ, nên tổ hợp có nhiều khích lệ, khả năng mở rộng thêm trong tương lai.



           * Nhà máy Không Khí Lõng – Air Liquide Việt Nam.  Sau 11 năm họat động thành công ở Việt Nam, ngày 7 tháng chín năm 2007,  Công ty Việt Nam Industrial Gases. Ltd – VIG , một hợp doanh giữa Air Liquide-Pháp, BOC – Vương Quốc Anh và Sumitomo - Nhật Bổn, đổi tên thành Air Liquide Việt Nam, ltd-  ALV. Từ năm 1999 đến nay , Đơn vị Phân Chia Không Khí- Air Separation Unit đầu tiên ở Bắc Ninh  họat động tốt đẹp  cung cấp cho khách hàng và người cùng công ty ở miền Bắc, ALV đã quyết định  hăng hái đầu tư  cả ở miền Bắc lẫn miền Nam. Đơn vị thứ hai    phân chia không khí  ở miền Bắc đi vào họat động năm 2007, để  cung cấp tốt hơn yêu cầu tăng gia của khách hàng.   Air Liquide Việt Nam  triễn khai thị trường ở miền Nam , xây dựng đơn vị thứ ba Air Separation ở công viên Phú Mỹ 1, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu và đã được Công Viên Cao Kỹ Sài Gòn chấp thuận  cho xây dựng  thêm một đơn vị Air Separation thứ tư  ở công viên này.  Air Liquide  cung cấp khí – gases qua  đường ống dẫn – pipeline( nitrogen, hydrogen ), ngay tại vị trí nhà máy ( nitrogen , hydrogen ),  chất lỏng ở các thùng chứa , tồn trữ ( oxygen , nitrogen , argon )  và khí ép – compressed gases ở  xy lanh – cylinders.   Các sản phẩm  của Air Liquide  cũng gồm cả Helium Lỏng - Liquid Helium, những trộn lẫn  khí đặc biệt  và cho la bô, cách định cở các khí nhập khẩu từ các công ty chị em các quốc gia khác ( Singapore, Pháp, Hoa Kỳ ).                            
           * Công ty Cố Vấn Sản xuất công nghệ Thụy Điển ABB – Royal Haskoning thành lập năm 2008- 2009, ở khu công nghệ Tiên Sơn  có diện tích sàn là 11 250m2, cung cấp  dịch vụ cố vấn thiết lập công nghệ từ quan niệm họa kiểu đến hòan tất .
ABB ở Bắc Ninh
             Đô thị hóa Bắc Ninh hội nhập với phát triển các công viên công nghệ tập trung

       Đến năm 2000,  Bắc Ninh có 2 hệ thống quần cư chủ yếu : quần cư nông thôn và quần cư thành ( đô ) thị. Loại hình  quần cư nông thôn  phỏng theo địa thế , thủy văn, đất đai  truyền thống gồm 3 kiểu :
                    -  quần cư ngòai đê, bải bồi rộng và tương đối cao, dân cư thường sống tập trung  thành từng làng  chạy theo sườn ngòai đê  Có nhiều xã dân gian sống  hầu hết ngòai đê  như Thượng Mao, Hòai Thượng ( Thuận Thành ), Cảnh Hưng ( Tiên Du ).  Kiểu quần cư này giúp dân gian có thể khai thác những vùng đất mới ở ngòai đê. Khi nước lũ lên cao, dân cư có thể  mau lẹ dời những đồ đạc cần thiết  của gia đình lên trên mặt đê   
                   - quần cư trong đê, ở bên cạnh các con sông lớn có đê bao bọc, diện tích ven đê tương đối rộng, dân cư lại sống  trong các làng  chạy theo sườn sát trong đê. Kiểu quần cư này thường gặp  ở các xã nằm cạnh sông Cầu, sông Đuống. Làng xóm  phát triễn theo chiều dài của các bải bồi, giúp dân gian vừa khai thác những vùng đất trong đê, vừa khai thác những bải bồi ngoài đê.
                   - quần cư vùng đồng chiêm  trũng, ngập nước quanh năm, dân gian phải sống tập trung ở những vùng đất cao. Làng xóm ở đây không phát triễn tự do vì phụ thuộc vào  các gò đất cao, hoặc phải vượt thổ lên để làm nhà. Kiểu quần cư này thường thấy ở các xã ven sông Cầu và các xã  Âm Thịnh, Mỹ Lượng ven sông Đuống.
               Quần cư đô thị vẫn còn theo  tiến trình đô thị hóa chậm ở thị xã Bắc Ninh  và 5 thị trấn huyện lỵ. Thị xã Bắc Ninh diện tích  265km2, dân số năm 1999 chỉ  là 71 000 người, 54 %  tập trung ở 5 phường với 38.400 người, còn lại ở 4 xã  thuộc thị xã. Cũng vào năm 1999, 90.6 % dân tỉnh sống  chủ yếu ở nông thôn, dân cư thành thị  tập trung ở các thị trấn và thị xã Bắc Ninh chỉ chiếm  9.4 % dân số.

         Nay thị xã Bắc Ninh được xác nhận là một thị trấn vệ tinh quan trọng của  phát triễn Vùng “Đại Hà Nội- Hà Tây” và  có hạ tầng cơ sở, tài nguyên nhân sự tốt, nằm trong trọng điểm tam giác tăng trưởng then chốt cho đồng bằng sông Hồng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, nên đã có mức phát triễn mạnh mẽ từ 5 năm nay. Nhắc lại các đường xá quan trọng là xa lộ quốc gia số 1B  nối Hà Nội  -Bắc Ninh – Lạng Sơn, Xa lộ Cao tốc- Expressway số 18 nối phi trường quốc tế Nội Bài- Bắc Ninh – Hạ Long và quốc lộ 18  nối Bắc Ninh – Hải Dương – Hải Phòng. Hầu giúp mức đô thị hóa mau lẹ hơn, mọi quy họach  mới về công viên công nghệ tỉnh nhà, đều được qui họach  cùng một lúc với các phát triễn  đô thị, dịch vụ và cư xá. 
Sân bay Nội Bài
Như đã nói trên, trong diện tích 7681 ha ở 15 khu công viên công nghệ,  834 ha dành cho phát triễn các khu đô thị. Đáng kể ra là các dự án hội nhập  phát triễn thị trấn – townships với khu công nghệ của  Công ty Công viên Công Nghệ Việt Nam Singapore  Industrial Park- VSIP  theo kiểu phát triễn đô thị Singapore ( có lẽ nên chiếu theo trang trí, họa kiểu những kiến trúc Việt Nam cỗ truyền hay tân thời hơn là  quá thiên về những họa kiểu Tàu- Trung Quốc ? ), biến viễn cảnh đồng quê thành những giải đáp  công nghệ, thương mãi và cư xá, sử dụng lề lối quy họach đô thị cải tiến và tiện nghi cận đại. 4 dự án VSIP( 2 ở tỉnh Bình Dương, một ở Hải Phòng, một ở Bắc Ninh )tại Việt Nam  chiếm  4854 ha  diện tích sàn, diện tích đất khu công nghệ bán được là 1940 ha và diện tích thương mãi -  cư xá là 1170 ha. Diện tích VSIP Bắc Ninh là 700 ha. Cư dân ở công viên này có thể  đến thủ đô Hà Nội  trong vòng 30 phút, vì chỉ cách Hà Nội có 20km. Dự án cũng  liên kết với các cửa khẩu Việt Nam -Trung Quốc, cách  hai cửa khẩu Tân Thành – Hửu Nghị  chừng 140 km,  mở rộng thêm thị trường Bắc Việt và Nam Trung Quốc. Trung tâm hậu cần tại địa điểm gồm các cơ sở kho hàng giữ hàng hóa lại trước khi thuế được nộp hay không nộp – bonded and non -bonded warehouses .

            Theo quy họach đến năm 2020, Bắc Ninh  dự tính  thực hiện mạng lưới đô thị kế cận Hà Nội. Những thị trấn  lớn đã thành thị hóa như  thị xã Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, các vùng thành thị ở Tiên Sơn và Nam Từ Sơn sẽ là vùng thành thị vệ tinh của Hà Nội. Trung bình  đất thành thị sẽ là  45m2 mỗi người, đưa diện tích thành thị hóa Bắc Ninh lên   2 529 ha. Khoảng 379 ha  hay 15 %  đất thành thị Bắc Ninh dành cho cư dân thủ đô. Thành quả là tổng số đất thành thị  tỉnh nhà sẽ tăng thêm  đến 2 908ha, nghĩa là 1290 ha cao hơn năm 2010. Các khu cư xá quanh các thị trấn sẽ được duyệt xét lại, hướng về thành thị hóa, và đất gia cư sẽ  phát triễn mô hình  nông trang- vườn hoa, nhà cửa có tường, ban công trang trí  các lòai hoa đẹp  nhiệt đới hay bán ôn đới  tuyễn chọn, quí hiếm, hầu  cung phụng cho yêu cầu du lịch như các gia cư dọc sông Thames, Anh Quốc v.v…  Điều quan trọng, ngòai vấn đề đền bù đứng đắn đất đai bị trưng dụng, cố gắng kiểm sóat kỷ  xây cất, nhất là cao tầng cho vững chải, cảnh quan phỏng theo kiến trúc Việt Nam mới - cũ nhiều hơn, theo dõi thị trường, tài chánh và tiền vay ngân hàng …tạo  bất động sản, tránh nạn nổ  bong bóng- bubble  hay lừa gạt trong ngành, có cơ xảy ra như  trên thế giới hiện nay và cũng đang lộ diện ở Trung Quốc, như ở Việt Nam .   

           Dịch vụ du lịch

         Năm  1995,  kim ngạch xuất khẩu Bắc Ninh chỉ đạt 7 triệu USD. Đến năm 1999 tăng lên 18 triệu USD.  Bình quân là 18USD mỗi  đầu người, tương đối thấp so với bình quân  của cả nước. Như đã nói trên, năm 2010, xuất khẩu Bắc Ninh đã là 1450 triệu USD,  15 lần cao hơn dự kiến năm 1999 là khoảng 100 triệu USD cho năm  2010.  Nhờ thị xã Bắc Ninh, thị trấn Từ Sơn, các khu công nghệ tảp trung  … được đầu tư xây dựng thành  những trung tâm thương mại – du lịch- văn hóa tỉnh, có hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, mạng lưới chợ…. nâng cấp và hiện đại hóa. Đặc biệt phát triễn mạnh là du lịch .

        Năm 2010, lợi  tức du lịch Bắc Ninh đạt 125 tỉ VND, thu hút  200 000 du khách, mức tăng trưởng là 17- 20% mỗi năm.  Năm 2015 hy vọng sẽ đạt lợi tức 250 tỉ VND , đón mời 400 000 du khách. Nếu cải tiến thêm hạ tầng cơ sở ( đường xá liên  huyện liên xã …, hệ thống vệ sinh, tổ chức quét dọn sạch mau lẹ rác rưới sau mùa hội hè,  làm thêm nhiều khách sạn  3-4 sao … thì  tăng trưởng ngành  du lịch còn  mạnh hơn nữa. Bắc Ninh là một thị trấn xưa cũ, một trung tâm  thương mãi Việt Nam từ thế kỹ thứ 2 đến thế kỷ thứ 10. Phật giáo du nhập tỉnh rất sớm và nở rộ đời nhà Lý như chúng ta đều biết.  Nhiều chùa, đền, đình làng đã được xây dựng, một số đã kể ra ở phần I.  Nhiều lễ hội được tổ chức hàng năm ở các nơi này, đặc biệt trong tiết xuân. Dặc biệt là hội Lim , hội Đền Đô , hội Đền Bà Chúa Kho và hội đền Dâu …

         Hội Lim được tổ chức  ngày 13 tháng giêng âm lịch trên Đồi Lim  thuộc  xã Lũng Giang, huyện Tiên Du, đến được theo  quốc lộ số 1, 
chỉ cách Hà Nội 18km. Tục truyền trên Đồi Lim, dưới bóng cây um tùm có một ngôi chùa cổ, một người đàn bà  tên là Mụ Ả, người Duệ Đông đến tu ở đó, đắc đạo có phép  hô phong hóan vũ. Mỗi khi hạn hán, dân thường cầu bà “hóa phép “ làm mưa, linh ứng như thế nên làng Lim tôn bà làm thành hòang. Hội Lim tổ chức vào ngày bà mất.  Hội Lim xưa có nhiều  trò vui như đánh cờ,  đánh đu, đô vật , bơi …  Những trò mang dấu ấn văn hóa vùng Kinh Bắc nổi tiếng là nước ngựa chiến, thi thổi xôi, làm cỗ gà,  thi làm bánh vừng ( mè ), chè đu đủ, thi dệt vải, bình thơ, xướng đối … Và dĩ nhiên  trung tâm  của ngày hội Lim  là hát Quan họ với ba điểm hát:

     - Hát ngòai đồi : trên đồi Lim  vào ngày hội các liền anh ( tài tử nam ), liền chị ( tài tử nữ ) đi chơi thành từng nhóm nhỏ. Bên Nam nếu chưa có bạn  thì tìm bên nữ mời họ xơi trầu. Nếu nữ nhận trầu  tức là nhận lời hát ( cũng có khi nữ mời nam ). Trong khi hát với nhau, nếu thấy cách ăn ý về giọng hát và cách đối xử, họ còn hẹn nhau đến ngày nào đó  gặp lại xin kết nghĩa “ Nghĩa 


Quan Họ”.   Khi hát ngòai đồi bất kể nắng mưa, nam đều che ô ( dù ), nữ đều đội  nón thúng quai thao, vừa tình tứ vừa e ấp.  Họ ăn mặc theo theo lề lối  ngày hội của dân vùng Quan họ.

          Hát trong nhà : Những nhóm Quan họ khách đã được hẹn mời trước  buổi sáng cứ đến thẳng hội. Phía chủ nhà, từng nhóm Quan họ đã đóng góp  tiền cho  một bà trùm  cử người chịu trách nhiệm đăng cai “ làm cơm Quan họ”    Sáng ấy, một số người ra chùa đón khách. Quan họ bạn vào đến cổng là hát mừng làng đầu năm mới, mừng nhà, mừng bạn. Buổi hát bắt đầu rất tự nhiên.  Quan họ chủ  đứng ở sân hát đón khách, đưa khách vào nhà cất nón ( cất ô)  rồi ngồi xuống hai giường của hai gian cạnh hay hai bên tràng kỷ bàn khách gian giữa, đối diện nhau hát tiếp. Hầu hết mọi việc, từ mời trầu, mời nước hỏi thăm, nói chuyện đều bằng câu hát. Hát đến trưa, phía chủ mời khách ăn cơm, lời mời cũng hát. Buổi chiều, Quan họ mời khách đi xem hội và tối về lại hát tiếp.        

         - Hát trên thuyền:  Từng cặp trai gái bơi trên những chiếc thuyền  thúng dưới ao, hồ hay trên lòng sông làng. Bịu hát đối đáp nhau say sưa. Trên bờ người xem với đủ màu sắc áo quần ngày hội, lắng nghe, bình phẩm về giọng hát, lối hát để đến lượt mình vào cuộc. Ngày hội trôi qua thật mau lẹ trong lôi cuốn  của những giọng hát say đắm, để rồi Quan họ lại bịn rịn chia tay, chẳng muốn về. Người đi rồi  mà “ em vẫn trông theo, trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi”. Người đi để lại bao nhớ nhung, mong sao mau chóng đến ngày hội năm sau.

       Hát  Quan họ hình như phát sinh từ đời nhà Lý , tiến trào từ hát đùm.  Đa số hát Quan họ tỏ bày niềm thương yêu nhau : hy vọng,  nhớ nhau, ghen tuông… nhưng  không  bao giờ tỏ cảm giác tình dục cả . Không có bài hát Quan họ nào nói về công việc đồng áng. Không có anh( chị ) Bảy, Tám, Anh chị Hai bé , anh chị Ba bé… ở các nhóm Quan họ. Khi họ hát  thề thốt làm bạn – brother hood , nhưng cấm không được cùng nhau kết hôn. Các nhà khảo cứu say mê  Quan họ hiện nay là Toan Ánh,  Bùi Trọng Hiền. Nhạc sĩ quan trọng nhất về Quan họ là Đức Miêng ( 165 bài hát ). Ca sĩ Quan họ  nổi tiếng  nhất là Thùy Hương – Thùy Cái. Cử chỉ ngôn ngữ Quan họ là “Người Quan họ nói “như có  văn có sách”.  Lời như thơ văn  tình tứ, có đặc điểm  của ca dao, ngụ ngôn, truyện Kiều …  Vùng địa lý tiếng hát Quan họ là  dọc theo hai bên bờ sông Cầu,phía bắc Hà Nội tại  49 làng dân ca cũ , 44  làng ở Bắc Ninh và  5 làng ở Bắc Giang .    Ngày  30/9/2009, Cơ quan Văn hóa – Giáo dục Quốc tế UNESCO   nhìn nhận Quan họ là  di sản văn hóa  quốc tế.  Năm 2010, tuần báo Hoa Kỳ “Time Magazine” đã công nhận Quan họ là  “ hay nhất cho tâm hồn – the best for soul”  Nay đã có thể  nghe hát Quan họ qua điện thọai,  chỉ cần gọi điện thọai cho các nghệ sĩ hát Quan họ.          
  
Rước kiệu ở Hội Đền Đô
     Hội Đền Đô ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn. Lễ hội chính nhằm ngày16 tháng 3 lúc Lý Công Uẩn ( Lý Thái Tổ ) lên ngôi vua, đám rước linh đình có hàng ngàn người tham dự, từ Đền Kim Đài đến Đền Đô, dài 3km. Lảnh đạo là  các quan võ, trần truồng, có  hàng trăm quân hầu theo sau. Rồi đến đám rước có 10 người mặc áo quần, đầu đội mủ đỏ đen. Đứng đầu đám rước Thánh Mẫu là 18 nữ tướng theo  sát Bát Đệ ( ? ), có ngựa theo sau cùng 10  nam nhân mặc tòan đỏ. Cuối cùng là các  bô lảo làng mặc đồng phục. Lễ hội tổ chức nhiều trò chơi như chọi gà, thả bồ câu, đô vật, hát hỏng cùng nhiều trò chơi khác .     

      Hội Thánh Dóng ( Gióng ) tổ chức trong nhiều ngày với nhiều trò vui, song ngày mồng  9 tháng tư  mới là ngày hội đông vui nhất. Hôm ấy dân gian diễn lại thành tích Thánh Dóng, người đã giúp vua Hùng dẹp tan giặc Ân. Nghi lễ về cuộc chiến tranh, trang phục binh bị thời cỗ, tinh thần quyết chiến của quân tướng.. . tất cả đều được diễn tả bằng những hình thức tượng trưng rất sinh động. Các em nhỏ và các ông Hiệu cờ, Hiệu Chiêng  … đóng làm quân ông Dóng. Còn 28 thiếu nữ  đóng tượng trưng là quân giặc. Trong khoảng đất trống làm trận địa đã trải sẳn 3 chiếc chiếu. Trên chiếu có chiếc bát úp trên tờ giấy: chiếu tượng trưng cho cánh đồng, bát cho đồi núi, tờ giấy cho mây. Khi cuộc giao tranh bắt đầu, cờ lệnh được phất lên kéo theo hàng ngàn mảnh giấy sặc sở tung ra. Dân gian  xô nhau cướp lấy để làm khước… Khi xé xong 3 chiếc chiếu thì quân giặc cũng tan. 28 cô gái lên kiệu về làng  Phù Đỗng.  

     Các hội khác là -hội Đông Hồ diễn ra từ ngày 4 đến ngày 7 tháng giêng tại đình làng Đông Hồ, huyện Thuận Thành.  Đây là một lễ hội  mang tính chất hội làng nghề, nơi sản xuất  tranh dân gian nổi tiếng.  -  hội Chùa Phật tích  thường diễn ra từ ngày 4 đến ngày 5 tháng giêng âm lịch tại chùa Phật Tích, nhằm tưởng nhớ  công ơn vua Lý Thánh  Tông.   - lễ hội chùa Dâu vào ngày 17 tháng giêng âm lịch tại làng Dâu-Thanh Khương, huyện  Thuận Thành mở vào ngày sinh của Phật Mẫu Man Nương, tiêu biểu  cho sự hội nhập của tín ngưỡng nông nghiệp vào đạo Phật. -  hội chùa Tổ diễn  ra tại làng  Vạn Ty, Thái Bảo huyện Gia Bình  quê hương của Huyền Quang  Lý Đạo Tái, một trong ba vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Hàng năm tổ chức từ ngày 18 đến ngày 23 tháng giêng âm lịch. 

             Cải tiến không ngừng và chuyển hướng nông nghiệp Bắc Ninh để chống đói giảm nghèo

          Cho đến năm 2015, nông nghiệp vẫn có thể còn là lợi tức chánh cho 50 %, nữa triệu dân cư Bắc Ninh. Vì GDP nông nghiệp càng ngày càng thấp kém so với công nghệ xây cất và dịch vụ; muốn mức chênh lệch giàu nghèo không tăng nhiều giữa nông thôn  và thành thị,  phải mau lẹ chuyễn hướng cơ cấu nông nghiệp, lợi dụng tình trạng kế cận thủ đô Hà Nội, tính chất đô thị hóa của nhiều huyện, thị trấn tỉnh nhà  và trị giá cao hơn lúa của những lòai rau đậu, cây trái, hoa tươi cắt cành hay không, chậu kiểng hoa, trồng bồn hoa .vv…  Cần tăng cường giáo dục  kỷ thuật dạy nghề cập nhật hơn cho con em nông thôn gia nhập đông đảo công nghệ, dịch vụ mới tỉnh nhà, bổ sung lợi tức thấp kém gia đình nông thôn, vì hình như đa số công nhân cho công nghệ mới vẫn còn là tự học ( ? )     

          Trong tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Bắc Ninh năm 1999 là 79 900 ha, diện tích đất sử dụng mục đích  nông nghiệp chiếm  62%, lâm nghiệp chiếm  0.5% và chuyên dùng - thổ cư là  21.3 %. Đất chưa sử dụng còn 9.600 ha, tập trung ở Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Thuận Thành, Từ Sơn. Kiểm kê năm 2010, cho thấy Bắc Ninh  chỉ còn 43 282 ,93 ha đất  nông nghiệp chiếm 52. 61%  tổng diện tích đất tự nhiên giảm mất 10% so với  hơn 10 năm trước  do tình trạng thành thị hóa, mở mang hạ tầng cơ sở … phát triễn kinh tế xã hội  tỉnh nhà. Ở hai xã Mộ Đạo và Trúc Ô ( ? ), 300 ha đất công điền –communal land  huyện Quế Võ đã bị lấy đi xây cất thị trấn huyện lỵ và khu công nghệ. Nhưng  đất đai nông nghiệp  lại phân  tán  ra làm nhiều mảnh, lô – plots nhỏ xíu, trung bình 9.12 mảnh mỗi gia đình, một trung bình  manh mún lớn nhất nước, hơn cả những tỉnh đông dân như Thái Bình, Nam Định.  Theo báo cáo Ủy Ban Nhân dân tỉnh năm 2006,  mỗi gia đình chỉ có 3500m2  mà lại rải rác thành nhiều mảnh ở nhiều nơi khác nhau. Chẳng hạn ở xã Mộ Đạo ( ? ), điều tra năm 2006, trung bình mỗi gia đình có 8 mảnh đất, mảnh nhỏ nhất chỉ có 48m2, tuy rằng  xã chỉ có một hợp tác xã duy nhất. Có khi một mảnh này cách mảnh kia đến 2 km. Từ năm 1998, chánh phủ đã thi hành chánh sách Cũng cố điền địa- Land consolidation,  tìm cách Đôn điền,Đổi thửa- Plot Exchange, đặc biệt ở Bắc Việt,  điều kiện tiên quyết tăng gia năng xuất  lúa, hoa màu, cây  trồng trọt  nông trang gia đình ( rất khó lòng cải thiện hệ thống tưới tiêu, đê điều suy thóai, nếu không cũng cố điền địa manh mún quá độ như vậy !) . Sau khi thử nghiệm cũng cố nông trang gia đình thành công năm 2009 ở xã Mộ Đạo, theo Sở  Địa Chánh - Cadastre , mỗi gia đình chỉ còn 1-3 mảnh đất mà thôi. Mảnh đất nhỏ nhất diện tích 720m2, lớn nhất đạt 7200m2 .Nhờ vậy mới thiết lập được một hệ thống tưới tiêu mới,  xây dựng đường xá và nhiều tiện nghi  hạ tầng khác trong xã, để cho canh tác dễ dàng hơn và tăng năng xuất, sản xuất( chiếu theo báo cáo củaViện Nghiên cứu Xã hội, The Hague , Hòa Lan năm 2010 ). Thế nhưng còn nhiều lý do khiến cho công cuộc củng cố điền địa Bắc Ninh cũng như ở nhiều tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng tiến hành chậm rải , tỉ như thiếu chỉ dẫn chi tiết thực hiện cho cấp tỉnh, khung cảnh luật pháp chính sách mơ hồ, nhập nhằng – an ninh sở hửu chủ điền thổ  thiếu thông tin, nhất là khi  phương thức chánh phủ cho thuê đất ruộng 20 năm từ năm 1993 sắp hết hạn vào năm  2013, thiếu tài trợ, thiếu trách nhiệm giải thích trong trắng …  
 
    Vì vậy, có lẽ không nên cố sức khuyến khích làm thêm  một vụ lúa nữa (  chỉ số 3 vụ , nhưng nay Bắc Ninh mới đạt chỉ số 2.5 vụ  như kể trên) ; khi nước nhà hay tỉnh nhà đã cải thiện  sản xuất nhiều ruộng hai vụ, tỉnh đã trên mức bình quân thóc  cần thiết, quốc gia đã xuất khẩu nhiều gạo . Năng xuất lúa ( thóc ) trung bình Bắc Ninh cả năm1995 chỉ đến 3.4 tấn /ha, năm 2002 – 2003 đã tăng đến 5-5 -5.6 t/ha  nhờ lúa lai đời F1, phổ thông giữa thập niên 1990 ở đồng bằng sông Hồng và ở các tỉnh miền Bắc Trung Việt ( trong khi ở miền Nam và Duyên Hải Nam Trung Việt là các giống Thần Nông IR …). Có lẽ về lúa gạo, Bắc Ninh nên chú trọng khuếch trương các giống nếp cao năng, thơm nồng ( như Hòang Cầm đã nhắc đến từ thập niên 1940-50 và Bắc Ninh cũng nổi tiếng về lễ hội thi thổi xôi), trồng  các giống lai  japonica thơm cao năng hay cả những giống lai indica  kiểu gạo Jasmine, có máu Basmati 370 ( lòai lúa thơm  ngát nhất thế giới ngay từ cây lúa đang  sinh trưởng ) Hồi Quốc, Ân Độ.  Cần chuyễn hướng qua những lòai cây trồng khác cho nhiều lợi tức hơn, nếu những ruộng lúa vài vùng huyện -tỉnh nhà vẫn còn tiếp tục cho năng xuất kém cõi, dưới 6-7 tấn/ vụ là năng xuất các tỉnh sông Hồng khác đã đạt từ năm 2002 (  Nam Định, Thái Bình ) ; dù đã áp dụng các cải tiến như  Lề lối Canh nông Tốt- GAP ,Good  Agricutural Practices “ ba tiến ba thóai” ( ? ), Hội nhập Xử lý Bảo vệ Mùa màng – IPM, Integrated  Protection Management , Hội nhập  Xử lý Hoa màu- ICM, Integrated Crop Management…   Nhấn mạnh  chuyễn hướng qua  hoa cắt cành, chậu kiểng,… thích hợp tỉnh nhà, thường có thể cho lợi tức 10 – 15 lần hơn lúa hay nhiều lòai rau đậu  lợi tức 6-7 lần hơn .

          Ngay cả  có khi cần thay các vụ ngô ( bắp ), vụ  ngô đông làm thực phẩm gia súc  mà năng xuất chỉ đến 2- 3t/ha  năm 2002 và 4.5 t/ha năm 2010;  trong khi  nước nhà nay đã trồng và sản xuất hột giống ngô lai ( 90 % tổng số ngô trồng ) tiềm năng năng xuất  9-10 tấn/ha (  các gíống lai LVN 10 , LVN 4  , LVN   9 , LVN 99 v.v…). Chú trọng hơn đến các giống  ngô ăn tươi kiểu rau cải – vegetable corn , vegetable maize  ( bắp nếp , bắp ngọt, bắp bê bi – baby corn) , cho đến khi nào năng xuất, giá thành bắp tỉnh nhà sản xuất cạnh tranh được bắp làm thực phẩm của Thái Lan, bớt nhập khẩu và xuất khẩu được sang Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc ước lượng có thể lên đến 40 triệu tấn ngô – bắp các năm 2020 – 2030.

Khoai tây sạch bệnh Bắc Ninh
          Khoai tây  vụ đông tỉnh nhà cũng đã có 4 giống tốt ( KT 2, KT3 , VC 38-6 , P3)  và hai giống lai  Hồng Hà 2 , Hồng Hà 7 … ngắn ngày ( 90 ngày ) hay các giống  mới hơn nữa, năng xuất  25 – 30 tấn/ ha, thay  đại trà các giống  xưa cũ nay chỉ  đạt  11- 12 t/ ha trung bình.Cho nên khoai tây cũng là một vụ đông đáng lưu ý  thêm, để xuất khẩu sang Trung Quốc, nay  xuất khẩu đã vuợt trên 60 % tổng  lượng xuất khẩu  khoai tây cả nước. Trên những lọai đất nhẹ,  không đủ nước tưới tiêu hay khó lòng trồng lúa  hay còn bỏ không ( nhưng cố tránh cho khách thương Tàu, Trung Quốc thuê mướn đất trồng khoai  lang như xảy ra gần đây ở Quảng Trị, vài tỉnh miền Nam hay Tây Nguyên ? ), có lẽ cần cố gắng  cải tiến thêm năng xuất khoai lang, hiện chỉ mới là 11- 12 t/ha,  thua kém trung bình thế giới là   16- 17 t/ ha, tuy rằng Việt Nam đã có vài giống  phẩm giá cao như  KL1, KL 5 năng xuất 20- 25 tấn/ha, và  một số giống  khoai lang làm rau – vegetable sweet potatoes cao năng.  Đặc biệt du nhập thí nghiệm các giống khoai lang tía  Nhât cao năng cao phẩm đã thích hợp khí hậu Tây Nguyên, cao năng hơn nữa khỏang 45- 60 tấn/ha,  một nông phẩm miền Nam đã bắt đầu xuất khẩu sang Nhật .

          3 lòai họ đậu nên khuếch trương thêm ở  Bắc Ninh là đậu xanh – mungbean thị trường Nhật cũng đang đòi hỏi mua thêm, đậu phụng – lạcđậu nành – đổ tương.  Nước nhà đã tuyễn chọn được các giống đậu phụng  lai trên 3 tấn/ha  phổ thông ở Nam Định, cũng như các giống đậu nành  ngắn ngày thời gian  tăng trưởng chỉ 73 ngày, cao năng 2-3 tấn/ha, hầu chấm dứt hay gia giảm nhập khẩu đậu nành làm thực phẩm gia súc và làm tàu hủ - tofu.  Việt Nam chỉ mới tiêu thụ 1kg/ đầu người tofu, so với 12kg/  đầu người trung bình trên thế giới và mức tiêu thụ tofu trong nước lại có khuynh hướng gia tăng. Bắc Ninh có thể trồng thêm nhiều diện tích đậu phụng, đổ tương hơn là con số khỏang 2000 ha hiện nay cho mỗi lòai.

             Trong số rau đậu  tiêu thụ gia tăng thêm ở trong nước nhờ đô thị hóa  hay yêu cầu xuất khẩu vào mùa đông ( từ tháng chạp đến tháng 3 mỗi năm ), không trồng hay trồng nhà kiếng giá thành cao quá ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông , Nhật.. ,  Bắc Ninh nên chú trọng thêm  đến dưa chuột, cà chua, cà rốt, họ đậu  ( cô ve, đậu đủa ,đậu rằn… ), cải bắp, hành tây,  bắp bê bi… ngòai su hào, cà chua, cải bắp … năng xuất địa phương còn quá thấp, phẩm giá còn kém cõi và  chưa áp dụng được  nhiều phương pháp  sạch -an tòan vài quốc gia  đã và đang phổ thông ở Việt Nam (  Đan Mạch , Bỉ … ) .  Khuyến nông mau lẹ hơn các giống cà chua lai  cao năng như FM 29 , FM 20 , VT3;  các giống dưa chuột CV5 , CV 11; các giống ớt cay HB9, HB 14.

            Về ngành hoa,  Bắc Ninh cần cải thiện, phổ biến thêm các giống hoa hồng – rose, cúc – chrysanthemum , cúc đồng tiền -gerbers, hoa lan – orchids,  lay dơn – gladioly, huệ hương tuberose, cẩm chướng – carnation.  Khi nước nhà đang cố gắng gia tăng mức tiêu thụ hoa tươi,  chỉ mới là 1 USD mỗi  đầu người VN  so với trung bình  16 USD  mỗi đầu người ở Hoa Kỳ, Đức,  Nhật, Hòa Lan, Ý.  Hai lảnh vực khác Bắc Ninh còn chậm tiến là  trồng cỏ nuôi bò sửa ( hiện các giống cỏ họ đậu nhiệt đới và các giống cỏ hòa bản nuôi bò ở Việt Nam, năng xuất còn quá kém so với  các lọai này trồng trên thế giới ), dù rằng tương lai Bắc Ninh có thể  hình thành một khâu vòng đai trắng ( sửa , phó mát, da ua – yogourt  … )   cho  vùng  lớn “Đại Hà Nội” và nuôi trồng thủy sản , vì Bắc Ninh còn nhiều đất ở vùng chiêm trũng, ngập nước quanh năm .

                         ( Irvine , Nam Ca Li ngày 17 tháng 12 năm 2011 )                       




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét