Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

MÔNG CỔ

Biết rõ hơn về: 

  Nội , Ngọai Mông ( Cổ ) ngày nay .

GS Tôn Thất Trình 

Nội Mông là lãnh thổ Trung Quốc, Ngoại Mông là một  quốc gia Cộng Hòa Nhân Dân độc lập còn trước cả  Việt Nam Thống nhất .



         Hành chánh Trung Quốc ngày nay gồm 4 thành phố tự trị là  Bắc Bình ( Beijing ), Trùng Khánh ( Chong qing ), Thượng Hải ( Shanghai ) và Thiên Tân ( Tianjin ) ; 23 tỉnh, các tỉnh biên giới với Việt Nam là Vân Nam - Yunnan , Quảng Đông - Guangdong và Hải Nam - Hainan;  4 vùng tự trị là  Quảng Tây- Guangxi (Việt Nam thường xem là tỉnh Tàu biên giới ), Nội Mông- Inner Mongolia . Ninh Hạ - Ningxia, Tây Tạng  -Tibet  và Tân  Cương -  Xinjiang;  2 vùng quản trị đặc biệt-  Special Administrative regions, SAR là Hồng Kông và Ma Cao - Macao( Macau) .

   Thời Chiến Quốc, Nội Mông  bị nước Triệu (? )- Zhao chiếm giữ  và được Hung nô- Xiongnu, một tộc dân thiểu số miền Bắc nước Tàu  cư ngụ phần nào. Thời Hán ( 206 trước CN BC đến 220 sau CN ) Nội Mông gồm nơi Hung Nô chiếm giữ ,cọng thêm hai quận phủ huyện là Vũ Nguyên ( ? ) Wuyuan  và Chu Phương ( ? )- Shoufang. Thời Đường thiết lập thành hai phủ Phong - Feng và Thanh ( ?) - Seng.  Thời Nguyên lại chia ra làm các phủ- huyện là Thượng Đô - Shangdu, Tế Ninh - Jining , Kim Châu - Jinzhou,   Kim Tràng - YinChang … Thời  Thanh ( 1644- 1911 ) mới có tên là Nội Mông.    Vào thế kỷ thứ 12  và 13,  Thành Cát Tư Hản - Gengis Khan ( tự điển miền Bắc dịch lại  Khan là Khả Hàn ) ,  thống nhất các bộ tộc  du mục thành một nòi giống có tiếng nói riêng và làm ra Đế Quốc Nguyên-  Yuan Empire . Sau thời Nguyên ( trị vì  nước  Tàu từ 1271 đến 1368 ), Nội Mông  luân chuyển qua tay  từ  Thời đại Thanh- Qing Dynasty, các tướng quân miền Bắc Tàu - warlords, Quốc Dân Đảng rồi đến quân phiệt Nhật chiếm giữ thời Trung  Nhật Chiến Tranh,  cuối cùng là   vùng tự trị đầu tiên của các tộc dân Tàu thiểu số,  thành lập ngày mồng 1 tháng 5 năm 1947.

           Vùng Tự trị Nội Mông


 Hiện nay, diện tích Vùng tự trị  Nội Mông là 1. 183 000 km, lớn nhất  Trung Quốc  chiếm  ⅛ tổng diện tích.   Dân số năm 2010  là 24.7 triệu  người, nhưng gốc Mông cỗ - Menggu chỉ  18 % thôi , còn lại là  các tộc dân Hán,  Daur (? ), Ewenki , Orogen,  Hồi - Hui, Mãn Châu -Manchu Triều Tiên, Cao Ly - Korean và nhiều nước khác. Tuy vây dân gốc Mông Cỗ ở Nội Mông vẫn còn đông hơn là ở nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cỗ - Ngọai Mông . Thủ phủ vùng tự trị Nội Mông  là Hohhot. Nội Mông là vùng cực Bắc Trung Quốc   có biên giới chung với  Nga Sô Viết  và nước Cộng Hòa Nhân Dân Ngọai Mông. Nội Mông lạnh ngắt mùa đông  và ấm áp mùa hè .  Nhiêt độ trung bình là  giữa - 1 độ C và 10 độ C (  30 độ F  và 50 độ F) .  Nhiêt độ  tháng lạnh nhất là tháng giêng, trung bình  -23 độ C  ( -9.4 độ F)  ở Vùng Đông Bắc  đến -10 độ C (  14 độ F ) ở vùng Tây Nam.  Số ngày không đông giá trong mỗi năm chỉ từ 90 đến160 ngày. Trung bình mưa hàng năm là từ  50 mm đến 450 mm , phần lớn  từ cuối hạ đến đầu thu.

      Nước Mông Cổ - Ngoai Mông


    Hai từ  Nội - Ngọai Mông ( Mông Cổ )  rất dễ lầm lẫn nhau , dù rằng chúng mô tả  các vùng Á Châu hòan tòan khác biệt  nhau. Nội Mông là lãnh thổ Trung Quốc.  Nhưng Ngọai Mông- Outer Mongolia  lại là một nước độc lập , không dính dáng gì tới Trung Quốc cả . Ngọai Mông nay là nước Mông Cổ, một nước lãnh thổ  hòan tòan lục địa ( không có biên giới biển- đại dương  nào cả) ( Trung Bắc Á Châu  hình bầu dục  dài 2 392km ( 1 486 dặm Anh )  từ Tây sang Đông   và 1 259km ( 782 dặm Anh )  từ Bắc xuống Nam. Diện tích Ngoại Mông  ngày nay  tương đương  với diện tích các nước Tây Âu và Đông Âu và nằm trong cùng những vĩ tuyến tương tự.  Thủ đô  là Ulan Bator  - Ulaanbaatar  ( Anh hùng Đỏ -Red Hero )  nằm vào Trung Bắc xứ sở. Dân số ước lượng năm 2014 là 2 719 000  người . Như vậy tỉ trọng dân số Ngoại Mông thấp nhất mọi quốc gia trên thế giới . Cũng như Ulan Bator là thủ đô lạnh nhất thế giới vậy; Nhiệt độ trung bình hàng nămơ Ulan Bator  là - 1.3 độ C  ( 29.7 độ F ).

      Nước Mông Cổ ngày nay  phần lớn là một cao nguyên - plateau , độ cao trung bình   là 1580 m (  5180 bộ Anh )  trên mặt biển . Đỉnh cao nhất nước  là ở Dãy Núi Mông Cổ Altai Mongolian Mountains  ( Mongol Altain Nuruu ) ở Tây Nam  .  ¾ diện tích nước Mông Cổ là đồng cỏ hổ trợ cho  những đàn súc vật gặm nhắm đồ sộ.  Phần còn lại chia đều cho  rừng và sa mạc trống không  và chỉ một phân số tí xíu là được trồng trọt.    


Altai Mongolian Mountains

    Lịch sử Mông Cổ  lại rất  dài  và rất đáng ngạc nhiên , Dân Hung – Huns (  Hung Nô  ? theo ý nghĩa  Tàu )  là tộc dân  sinh sống ở Trung Á  từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ nhất trước CN, có thể là tổ tiên dân Môing Cỏ ngày nay.   
Thành Cát Tư Hãn 

Thành Cát Tư Hản,  tên thật là Thiết Mộc Chân - Temujin  vào đầu thế kỷ thứ 13  thống nhất các bộ lạc du mục xứ sở  và các con cháu kế tiếp  kiểm sóat một đế quốc   gồm  phần lớn nước Tàu , nước Nga , Trung Á  và Trung Đông) , rộng lớn hơn Đế Quốc La Mã – Roman Empire nhiều. Nhắc lại cháu nội Thành Cát Tư Hãn  là vua  Nguyên ( Mông Cổ tên tàu là Nguyên ) Hốt Tất Liệt - Kubilai sai con là Thoát Hoan xâm chiếm Việt- Nam, nhưng thất bại.  Sau đó,   Đế quốc Mông Cổ sụp đổ và bị phân chia. Năm  1691,  miền Bắc Mông Cỗ  bị nhà Thanh -Qing ( Mãn Châu ) đô hộ. Khi  đô hộ  nhà Thanh  sụp đổ vào các năm 1911-12,  nhà lảnh đạo tôn giáo Bogd Gegeen   được tôn làm Tư  Hản Bogd Khan hay chủ tịch nước . Ông tuyên bố Mông Cỗ độc lập, nhưng  chỉ đạt   tự trị dưới quyền quốc thể Tàu . Năm 1919 , các nhà cách mạng quốc gia Mông Cỗ,  nhờ Nga Sô Viết giúp đở,   đuổi lui ra khỏi lảnh thổ   quân đội Tàu   cố tái chiếm nước Mông Cỗ  và năm 1912, đuổi  đòan kỵ binh xâm lăng Nga Trắng ra khỏi nước .  Ngày 11 tháng 7 năm 1921  trở thành  ngày lễ kỷ niệm hàng năm Cách Mạng Mông Cỗ. Nước Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cỗ được tuyên ngôn vào tháng 11 năm 1924 và thủ đô Mông Cổ đặt ở  trung  tâm,  là  chùa chánh của Bogd Gegeen và đổi tên thành Ulan Bataar.  Từ  năm 1921   đến cuối thập niên  1980, Ngoai Mông  là một quốc gia độc đảng, kết chặt cùng  Nga Sô Viết . Nước Mông Cỗ  nhận được từ Nga Sô viện trợ kỷ thuât, kinh tế và quân sự  và chịu sự hướng dẫn Sô Viết  về các  sự việc chánh trị, kinh tế  cũng như xây dựng  thành một nước xã hội chủ nghĩa .  Tuy nhiên bắt đầu từ năm 1990,    các lực lượng đổi thay xứ sở  chấm dứt hẳn độc quyền chánh trị của đảng Cọng Sản và  bằng các tuyễn cử  tự do đa đảng thành chánh phủ liên hiệp, có một hiến pháp mới,  có nhiều tự do  văn hóa, tôn giáo hơn nhấn mạnh đến các truyền thống quốc gia  Mông Cỗ,  có một thái độ trung lập trên các liên hệ quốc tế  và một chuyễn tiếp qua nền kinh tế thị trường.    


Thủ đô Ulan Bator

    Về địa hình có thể  chia nước Mông Cổ  ra  làm ba : vùng dãy núi  chủ trì  ở miền Bắc và  miền Tây,  vùng thung lũng ở giữa và quanh chúng  và một đai  cao nguyên rộng lớn   nằm xuyên qua các khu vực Nam và Đông . Tòan thể xứ sở  đều dễ bị  các di chuyễn địa chấn - động đất    và nhiều  động đất  rất là nặng nề.  Nhưng nhờ ít dân cư nên chúng ít  ảnh hưởng.

    Có ba dãy núi chánh là  : các núi Altai Mông Cổ , các núi Khangai  hay Hangayn Nuruu ,  và các núi Khentii .  Núi Altai  ởTây và Tây Nam  cao nhất và dài nhất; tách ra nhánh  hướng Đông Nam  làm thành biên giới  Tây Bắc với  Nga và trải dài theo hướng Đông Nam chừng 400 km ( 250 dặm Anh )  dọc theo biên giới Trung Quốc , trước khi hướng nhẹ hơn  về hướng Đông  chừng 725 km ( 450 dặm Anh )  ở Đông Nam Mông Cỗ. Altai,  nơi đây duy nhất Mông Cỗ có hiện tượng đóng băng hiện thời,  đạt  độ cao 4 374 m ( 14 350 bộ Anh) cao   nhất nước là đỉnh  Khuten  Peak . Nới rộng về  hướng Đông là   dãy Gobi Altai ( Govi Altain Nuruu ) là một rặng đồi trọc  nhỏ bé hơn,  càng ngày càng mất dần vì phát triển sa mạc Gobi  ( Xin đọc là Govi ) .  Dãy Núi Khangai là một khối núi vững chắc  gần trung tâm xứ sở.  Nhiều đỉnh cao hơn 3700m (  12 000  bộ ) , cao nhất là đỉnh  Otgontenger  , độ cao chừng 4025 m ( 13200 bộ )   ở Tây Bắc .   Đặc điểm của Khangai  là  sườn núi dịu dàng  đồng cỏ tốt đẹp bao phủ . Về phía Bắc là  dãy núi  Đông Sayan Tây Bá Lợi Á - Siberia  dọc theo biên gíới với Nga. Dãy núi thứ ba là dãy Khentii ở  Đông Bắc Mông Cỗ , trải dài  Tây Nam và Đông Bắc , nới rộng tới Siberia .  Đỉnh cao nhất là  Asraltkhairkhan cao 2800m ( 9200 bộ)  . Thủ đô Ulan Bator nằm về  bià Tây Nam  dãy núi này . Dãy núi  Da Hinggan  nằm dọc theo và   vượt biên giới Đông với Trung Quốc .  

    Quanh và giữa các dãy chánh là   một lọạt thung lũng quan trọng . Vùng Đại hồ - Great lakes   chứa trên 300 hồ,   nằm giữa  dãy núi Altai , Khangai và các núi dọc theo  biên giới với Siberia. Một lưu vực khác   là giữa cá c sườn núi Đông  của dãy Khangai  và các chân núi  dãy Khentii . Phần  Nam lnày là lưu vực  các sông  Tuul và Orkhon  ( Orhon )  một vùng phì nhiêu   quan trọng cho lịch sử Mông Cỗ, vì đây là nôi  đời sống định cư.  Vùng  đáng kể là Khorgo , ở sườn Bắc dãy Khangai có chừng một tá hỏa diệm sơn đã tắt  và rất nhiều hồ hỏa diệm sơn. Các sông chảy mau lẹ và  xóay lốc,  đào thành những vực sâu gồ ghề . Dòng suối sông Orkhon  là một vùng núi lữa khác  ,có nhiếu lỗ thông hơi  núi lữa và suối nước nóng . Gần biên giới phía Bắc là. Hồ Khovsgol  , một  vùng gồ ghề, đặc biệt  chứa   nhiều đầm lầy .  


núi Gurvansaikhan của Mông Cổ

   Phần phía Đông Mông Cổ có địa hình các đồng bằng đồi cỏ thảo nguyên - steppe , uốn chuyễn . Đây đó  là những núi nhỏ cây thấp  chứa những chóp  nón núi lữa đã tắt,  nhận diện rỏ rệt được . Vùng   Dariganga  viễn đông Mông Cỗ chứa khoảng 220  núi lữa đã tắt.  Đa sô phần phía  Nam Mông Cỗ là một đồng bằng rộng lớn , thỉnh thỏang có ốc đảo  làm thành rìa Bắc của Đông Mông Cỗ Gobi. Địa hình bằng phẳng  này thỉnh thoảng cũng có  những rặng núi  thấp bị xói mòn  nghiêm trọng . Nhiều đặc điểm thiên nhiên  ngọan mục được tìm thấy   ở vùng Gobi .  Các cột sáu cạnh đồ sộ , xếp   thành cụm,  giống những bó viết chì ,  được tìm thấy ở  miền đôngvà miền trung tâm.  Nam Gobi là một dãy núi tên  Gurvan Saih khan ( Ba Mỹ Nhân ),  được biết nhờ các khủng long hóa thạch tìm thấy ở  Bayangzag và  Nemegt . Thêm vào đó  là rặng cảnh đẹp thiên nhiên  Yolyn Am ( thung lũng Lammergeier ) nay là một công viên quốc gia,   chứa một vực thẳm  có một sông băng nhỏ vĩnh cửu – small perennial  glacier  ,   các ghềnh  đá  chọc  trời vây quanh, nơi các diều hâu có râu lammergeiers  - bearded vultures đậu nghỉ.


Nội Mông phát triển mạnh hơn Ngoại Mông nhiều

       Hốt Tất Liệt – Kubilai.  cháu Thành Cát Tư Hãn – Gengis Khan thành lập Nhà Nguyên- Yuan Dynasty  kinh đô là Thượng Đô – Shangdu hay Xanadu gần thị trấn Dolonnor ngày  nay .   Trong thời gian này , các tộc dân   Ongud và  Khunggirad   chiếm đóng đất đai của Nội Mông ngày nay . Năm 1368 ,  Tộc dân Hán lảnh đạo nhà Minh đánh bại  nhà Nguyên (Xem câu chuyện Cô Gái Đồ Long của Kim Dung nói về tình duyên lãng mạn  đôi trai gái Trương Vô Kỵ - Hán  và Triệu Minh- Nguyên Mông cỗ) tái lập Vạn lý Trưòng Thành – Great Wall of China  ở vị trí hiên hửu  dọc theo biên giới   Nam của   Vùng Tự  Trị  Nội Mông cận đại  , tuy rằng  có chênh lệch  đáng kể về phía biên giới  Hà Bắc , Hebei – Nội Mông  . Nhà Minh thiết lập ba Đạo quân Bảo vệ thuộc tộc dân Mông Cỗ ở đây.  Ngay sau sự  cố  Tumu  xảy ra năm 1449,  khi nhà quản trị Oirat  là Eisen Taishi bắt được Vua Tàu , dân Mông Cỗ  tràn xuống Nam từ phía Bắc Mông cổ   Thế cho nên  từ đó mãi đên  1635 , Nội Mông là trung tâm văn hóa , chánh trị  của tộc dân Mông Cổ,  suốt thời gian Hậu Đế Quốc Mông Cổ - Post Imperial Mongolia    …

Một sân vận động ở Hohhot Nội Mông 
      Năm 2010 , trong tổng số 24 706 321 người ở Nội Mông  tộc dân Hán  chiếm 79% . Tộc dân  Mông cỗ - Mongol chỉ còn 17 %  như đã nói  trên;  tộc dân Mãn Châu 2% ; tộc dân Hồi – Hui 0.9% ;   tộc dân Daur 0.3 %, , tộc dân Evenki 0.11 % , tộc dân Caoly  0.02 %; tộc dân Nga 0.02 %   .  Về hành chánh, Vùng  Tự trị Nội Mông chia ra  làm 12 tỉnh ( ? )- prefectures, 101 phủ , huyện – Counties1425 thị trấn- townships  .  Thành phố lớn nhất là Chi Phong – Chifeng  ( ? ) . Thủ phủ Nội Mông các năm 1947- 49 là Ulanhot ,  các năm  1950 – 52 là Trương Gia Khẩu    - Zhangjiakou thủ phủ tỉnh Nhiệt Hà (?)– Chahar Province, và  đến năm   1953 mới có tên là Hohhot - Xincheng( Tân Thành ? ). Dân số Hohhot chỉ đến  2.9 triệu , trong khi nhiều thành phố khác  trên 3- 4 triệu nguời .   


Giàn Phóng ở Trung Tâm Không Gian
Jiu Quan (Tửu Tuyền)
      Nếu Ngọai Mông  còn là một nước nông nghiệp , du mục , tuy nay đã định cư phần nào ở ngọai ô thủ đô Ulan Bator ,  Nội Mông  ngòai  du mục dê,  cừu ,  bò sửa, ngựa  và nuôi tuần lộc – reindeer, nay đã trồng nho làm rượu  vang  ở Vũ Hải ( ? )- Wuhai và nhất là lúa mì nổi danh ở các thung lũng  sông-ngòi.  Nôi Mông rất giàu về tài nguyên thiên nhiên : than đá , khí dầu thiên nhiên, đất hiếm (   niobium ,  zirconium , beryllium .. . ) .  Dự  trữ than đá Nội Mông  chiếm trên ¼ dự trữ  than đá thế giới. Năm 2010 đã  khai thác 500 triệu tấn than đá so với 200 triệu tấn năm 2005 . Công nghệ phát triễn mạnh mẽ như ở khu công nghệ nhắm xuất khẩu sản phẩm và dùng trong nước  Trung Quốc vùng thủ phủ  Hohhot- Tân Thành.  Cuối cùng  đáng nêu lên nhất là công nghệ không gian , thường cấm không cho dân chúng đến xem .  Đặc biệt là  Trung Tâm  phóng hỏa tiễn , phi  thuyền, vệ  tinh Không gian ở Tửu Tuyền – Jiu Quan,  gần biên giới tỉnh Cam Túc – Gansu   … 


                              ( Irvine Nam Ca  Li – Hoa Kỳ ngày 7 tháng 7 năm 2015 )


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét