Bổ sung phần cuối bài học lịch sử văn hóa Nhật
(Xem bài Nhật Bổn)
Xuất khẩu Nhật đến cuối thế kỷ 20 .
Tuy nhiên đến đầu thập niên 1990, vài trò công nghệ điện tử cao kỷ Nhật đã bị ảnh hưởng nhiều, vì các nền kinh
tế mới công nghệ hóa - newly Industrializing Economies gồm luôn cả Hàn
Quốc( Nam Triều tiên , Nam Cao ly ), Đài Loan , các nước Đông Nam Á và Trung
Quốc, tạo nên những thị trường mới , những cạnh tranh mới. Dù rằng Nhật tiếp
tục sản xuất, ráp đại trà hàng điện tử ở hải ngoại. Thành quả là Nhật đã mất
hết ngự trị ở nhiều khu vực công nghệ điện tử . Chẳng hạn Hàn Quốc đã trở thành nước sản xuất chánh các
chip điện tử DRAM. Năm 1990, Nhật chiếm
90% thị trường thế giới về chip này và năm 1996 chỉ còn chiếm 40% thôi . Lẽ dĩ nhiên, những đại công
ty toàn cầu xe ô tô và điện tử tỉ như
Toyota, Honda, Sony và Matsushita, tiếp
tục năng động và có lời, và Nhật vào thời gian này vẫn là nước dẫn đạo ở những
khu vực cao kỷ họa kiểu và sản xuất hàng hóa , máy móc, đúc khuôn, làm kiểu mẩu
chính xác tạo ra bằng computer. Nhật đầu tư mạnh mẽ sáp nhập điện tử với công
nghệ sinh học - biotech, máy móc mới, phần mềm - software, thông
minh nhân tạo và ngành rô bốt. Đến năm
1997, Nhật vẫn còn tiếp tục đầu tư nhiều cho khảo cứu và phát triễn, đạt 4.7%
GDP năm 1997, dù cho khủng hoảng thoái trào kinh tế thập niên 1990 đã dai dẳng
. Đa số vinh quang và vài khó khăn ngành công nghệ Nhật ở thế kỷ thứ 20, biểu
hiện trên gương mặt và phản chiếu trên
đời sống của nhân vật đáng ngạc nhiên là Matsushita
Konosuke , chết ngày 27 tháng tư năm 1989, ở tuổi 94. Ông là nhà thiết lập
viên của Công Ty Công nghệ Điện - Masushita Electric Industrial Company, vào
thế kỷ 20 là công ty lớn nhất thế giới cung cấp các hàng hóa tiêu thụ ngành điện và điện tử. Matsushita
khởi sự năm 1918 bán một ổ ( đui ) cắm
điện mới loại nhẹ. Nay công ty ông bán đủ thứ, từ nồi nấu cơm điện đến máy ghi âm
videocassette ( VCR ) và DVD . Năm
1980, công ty đã bán ra trong vùng, phần lớn dưới tên Panasonic là 41 tỉ đô la
Mỹ. Khi tạo ra tài sản giàu có cho công ty và cho ông , được biết là ông
hoạt động ở vùng xám xịt - gray area, nếu không nói là đen tối gần như
bất hợp pháp. Tỉ như khi muốn chiếm lãnh
một phần thị trường rộng hơn cho một sản
phẩm nào đó, chẳng hạn VCR ở Hoa Kỳ, ông sẽ bán chúng giá hạ hơn cả giá bán ở nội địa Nhật, thủ tục gọi là “ dumping
- hay bán hàng phá giá ra nước ngoài”. Ông cắt giảm các nhà phân phối Hoa Kỳ
với một thương thảo như sau : khai thuế quan nhập khẩu sẽ ghi gần đúng giá thị
trường Hoa Kỳ hiện hửu. Người mua sẽ cọng thêm chi phí và lãi vào giá vốn,
nhưng Matsushita sẽ bồi hoàn tổn phí này
lại cho người mua, một cách bí mật qua một tài khoản tại một ngân hàng Thụy Sĩ.
Ông sẽ mất tiền trong một thời gian, nhưng sẽ
chiếm được một phần quan trọng thị trường Hoa Kỳ. Matsushita hành động
theo luật lệ riêng cho ông, và chịu
nhượng các luật lệ quốc tế khi thật cần thiết, tự giữ cố vấn cho mình và luôn
luôn cương quyết thành công, bằng năng lực, khéo léo xây dựng, kiêu hảnh, tự
hào và tự khẳng định. Câu chuyện của ông
là câu chuyện của nước Nhật thuộc lứa tuổi ông.
Các xuất khẩu khác
Ngoài lảnh vực ô tô và
điện tử, Nhật bán ra ngoại quốc những món đồ quan trọng tỉ như thép, dụng
cụ máy móc , đồ gốm men - ceramics và tơ sợi . Nhật đã là quốc gia lảnh đạo các dụng cụ máy móc cực kỳ
phức tạp. Chẳng hạn Toshiba bị lôi thôi
vì xuất khẩu bất hợp pháp sang Nga Sô
Viết cũ phần mềm computer , để kiểm soát
một dụng cụ máy móc mài mỏng các cánh quạt tàu ngầm ( tiềm thủy đỉnh ) - submarine
propeller blades. Dụng cụ này hoàn
tất cánh quạt đến một độ mỏng thin,
sonar thù địch theo dấu cũng không nghe
nổi tiếng động quạt quay. Các món vật
dụng khác Tây phương dùng nối kết với Nhật
như giày dép, áo quần, đồ chơi đã chuyễn qua từ lâu sang các quốc gia mới công nghệ hóa - Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc( Nam Hàn ), Indonesia và
Phi Luật Tân ( nay là Việt Nam , Bangladesh, Cam Bốt v.v…) . Nhật tiến bộ thêm
về ngành may mặc và thời trang sang trọng - high fashion và đã thành
công cuối thế kỷ 20.
Nhật nhập khẩu
Suốt 15 năm sau Thế Chiến Thứ hai, sản xuất công nghệ
Nhật được nền kinh tế trong nước nuốt
hết. Tái xây dựng và phát triễn ở mọi
lảnh vực kêu gọi nhập khẩu , đặc biệt từ
Hoa Kỳ, một quốc gia đã công nghệ hóa và
không bị chiến tranh tàn phá. Cuối thập niên 1950, một Âu Châu tái sinh song song với Hoa Kỳ đã bắt đầu lo ngại về mủi nhọn canh tranh Nhật. Xây dựng trên
những tài nguyên nhân sự và công nghệ
tiền chiến đồ sộ, rất phức tạp, có chánh
sách quốc gia hướng dẫn, được một mê hồn trận rào cản thuế khóa, cơ
cấu, pháp luật v.v… bảo vệ ; dân Nhật
chuyễn qua phương thức cạnh tranh.
Trong lúc đó, Nhật lại đóng cửa
thị trường Nhật không cho ngoại quốc nhập khẩu.
Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác đã thất vọng vì Nhật không chịu mở cửa thị
trường nội địa . Năm 1983, sau khi ngành
công nghệ điện tử Hoa Kỳ than phiền là chánh phủ Nhật đã cho vay, miễn thuế và hổ trợ khảo cứu
các công ty Nhật, chức quyền Nhật
đồng ý mở vài thị trường cao kỷ,
đặc biệt những nguồn lợi nhuận cao ở ngành
Điện Thoại và điện tín Nhật -Nippon Telephone and Telegraph( NTT ). Theo
thỏa hiệp năm 1985, Hoa Kỳ cũng
nhập thêm được vào Nhật một số
thuốc Tây và dụng cụ y khoa.
Nhưng thị trường nông nghiệp
Nhật đặc biệt khó khăn cho Hoa Kỳ đánh thủng . Vận động hành lang nghị viện
cho nông nghiệp Nhật rất mạnh mẽ, nhờ liên kết chặc chẽ với đảng
Dân Chủ Tự Do- LDP đang
nắm chánh quyền và đã trợ cấp tuyễn cử nhiều cho các chánh trị gia LDP . Ca nông
nghiệp đáng kể nhất là Gạo. Nông dân
trồng lúa gạo là một hình ảnh cỗ truyền
từ ngàn xưa ở Nhật, được xem là tiêu
biểu cho việc thành hình quốc gia Nhật bổn.
Các nông trang trồng lúa gạo ở Hoa Kỳ ở các bang California, Texas ,
Arkansas , Louisiana có thể xuất khẩu
nhiều gạo sang Nhật, nhờ có nhiều đất bằng phẳng rộng lớn và cơ giới hóa hửu hiệu ( chú thích:
tuy vậy nông trang đại điền lúa gạo Hoa Kỳ
cũng nhận bao cấp lớn lao để sản xuất như tiểu điền lúa gạo Nhật bổn vậy ). Nhật đã
cấm nhập nhập khẩu gạo ngoại quốc
( trừ một chút ít gạo nấu rượu ). Nông dân Nhật chỉ được phép trồng một côta - quota
cố định lúa gạo. Họ phải bán tất cả sản xuất lúa gạo cho chánh phủ. Chánh phủ qui định giá lúa gạo và bán gạo ra cho nhà tiêu thụ Nhật 4 hay 5
lần giá gạo ở thị trường quốc tế. Cũng như công nghệ, quyền lợi nông nghiệp Nhật thường bó tay chức
quyền Nhật .
Đầu năm 1983, Hoa Kỳ làm áp
lực để Nhật bỏ đi côta nhập khẩu thịt bò - beef và sản phẩm cam
quýt - citrus ( cây có múi ) Hoa Kỳ.
Một tuần trước khi gặp tổng thống Reagan, thủ tướng Nhật Nakasone nhận một kiến nghị 9 triệu chữ ký yêu cầu ông
chối từ yêu sách Hoa Kỳ. Cuối
cùng ra, 5 năm sau hai quốc gia ký thỏa hiệp bải bỏ những cô ta này. Ước lượng là thỏa hiệp sẽ tăng gấp đôi số lượng thịt bò và sản phẩm cây
có múi Hoa Kỳ sang Nhật. Nhưng Nhật thay
thế côta bằng một thuế quan 70% trên
thịt bò , giảm xuống còn 50% sau đó. Dù
cho có những rào cản này, Nhật nhập khẩu
33.2 % thực phẩm từ Hoa Kỳ năm
1989. Giữa năm 1992 , Nhật thất mùa,
thiếu gạo không phải cho tiêu thụ mà cho các nhà chế tạo rượu sa kê và bánh ngọt gạo. Chánh quyền Nhật
không muốn sửa đổi lệnh cấm nhập khẩu
gạo, nên đã giải tỏa 30 000 tấn
gạo từ kho dự trử đặc biệt cho các nhà
chế tạo vừa kể, hầu giúp họ chờ đợi mùa gặt cuối năm 1992. Năm 2003 Nhật sản xuất 74% nông phẩm trong nước theo một hệ thống
bao ( trợ ) cấp đồ sộ . Thế nhưng 26 % phải nhập khẩu, phần lớn từ Hoa Kỳ chở
sang. Việt Nam nay dã bán nhiều ngư sản sang Nhật và có thể xuất khẩu nhiều
thêm nữa trong tương lai.
Giữa thập niên 1980, đối diện với
thù nghịch từ Hoa Kỳ và Hiệp Hội Âu Châu - European Union về nghiêng ngã
cán cân thương mãi và bị
bó buộc tái cơ cấu vì toàn cầu hóa, thủ
tướng Nakasone Yasuhiro thành lập một Nhóm
Cố Vấn về Điều chỉnh Cơ Cấu Kinh tế cho
Hòa Hợp Quốc Tế . Đứng đầu là nguyên thống đốc Ngân Hàng Nhật- Bank of
Japan Maekawa Haruo. Nhóm làm ra bá
cáo Maekawa , theo sau là bá cáo Mới
New Maekawa Report của Hội
đồng Kinh tế - Economic Council , công bố tháng 5 năm 1987. Tài liệu cho biết ý định Nhật tái cơ cấu
chánh yếu nền kinh tế Nhật , biến đổi
từ một kiểu mẩu hướng về xuất
khẩu qua tăng trưởng căn bản
là kích thích yêu cầu nội địa
. Các bá cáo toàn diện và mở rộng Nhật cho mọi sản phẩm và dịch vụ. Thuế khóa , luật lệ , thị
trường và rào cản cơ cấu rơi xuống thấp, suốt thập niên 1990. Các tổ hợp gia tốc sản xuất ngoài nước Nhật. Thị trường Công
nghệ Thông tin- Infornation Technologies ( IT ), ngân hàng, dịch vụ tài chánh
và bảo hiểm, bán lẽ , quảng cáo, sản
phẩm công nghệ và dịch vụ , ngay cả sản phẩm nông nghiệp, gồm luôn cả gạo, cũng
thảy đều được mở ra. Vào đầu Thế kỷ thứ
21, đã thấy giảm bớt vài thặng dư thương
mãi Nhật rồi. Các nhà cạnh tranh trên thế giới công nhận
nay Nhật là nơi tranh đua công bằng hơn .
Quốc doanh chánh phủ kiểm soát và tư nhân hóa
Cho đến đầu thế kỷ thứ 21, rỏ
ràng là chánh phủ Nhật kiểm soát mạnh
mẽ doanh nghiệp và công dân Nhật. Tỉ
như ở
khủng hoảng thị trường cổ phần
- stock market năm 1987, chánh phủ áp lực
trên các ngân hàng chánh yếu , khiến họ phải thôi cho vay đầu cơ vào ngành bất động sản ( tài sản thực tế )- real
estate. Đây là một cố gắng nhằm kiểm
soát giá cả đất đai tăng quá mức. Năm đó, một nhà trung bình ở thị trấn Nhật giá 500 000 đô la Mỹ hay cao hơn. Ngược lại, doanh nghiệp lại có
phương thế riêng mình ảnh hưởng nếu
không muốn nói đến kiểm soát chánh phủ, xuyên qua các đóng góp tuyễn cử cho các thành viên đảng LDP đang nắm giữ chánh quyền. Tuy nhiên đã hiện ra một khuynh hướng mới
giảm bớt chánh phủ kiểm soát bằng cách tư nhân hóa và bỏ
bớt điều hòa - deregulation.
Chiếu theo tinh thần bá
cáo Maekawa, NTT bị bỏ
quốc doanh trong năm 1985, chấm dứt độc quyền to lớn của hảng này về viễn thông . Gần 2/3
cổ phần chánh phủ sẽ phải dần
dần bán cho các cá nhân và công ty tư nhân. Hai năm sau ,
năm 1987, Đường Xe lữa ( Hỏa Xa )
Quốc gia Nhật - Japan National Railway ,cũng được tư nhân hóa , sau 115 năm hiện diện. Một số đường xe lữa nhỏ
hơn châm vào đường chánh , thật ra đã có tư nhân làm chủ ngay từ ban đầu , nhưng đường xe lữa quốc
gia là đường lớn nhất. Hệ thống quốc gia không có lời trong 22 năm qua. Năm
1985 lại lỗ nặng, khiến chánh phủ mắc nợ 250 tỉ đô la. Nhưng dịch vụ rất an
toàn, mau lẹ và đáng tin cậy . Được biết
tốt đẹp hơn hết là xe lữa cao tốc nổi danh shinkansen “tàu viên đạn - bullet train ” một trong những xe lữa trên thế giới chạy đều
đặn tốc độ 125 dặm Anh ( hơn 201 km ) một giờ. Trước tuyên bố tư nhân
hóa , xảy ra nhiều đình công và ngưng chạy
nghiêm trọng và vài bạo
động. Thủ tướng Nakasone thành công đẩy mạnh
chương trình mới tư nhân hóa ở hai nghị viện Quốc hội Nhật. Ban quản lý
phải tìm cho ra công ăn việc làm
cho 91 000 nhân viên bị sa thải . Công ty mới sẽ hình thành Nhóm Xe lữa Nhật - Japan Railways Group , chia ra 6 nhóm miền địa
phương , một nhóm chuyễn vận hàng hóa,
và 4 nhóm phụ cho khảo cứu, tu
bổ v.v…
Công cuộc tư nhân hóa được nới rộng
qua vài khu vực lỗ lã khác. Độc quyền thuốc lá , nhà Hát Lớn quốc gia , hảng hàng không
Nhật cũng được chuyễn qua các đầu tư tư
nhân. Tháng 6 năm 2003, chánh
phủ quyết định là Tổ hợp Dầu lữa Quốc gia Nhật - Japan
National Oil Corporation , nợ nần lên gần 40 tỉ đô la, sẽ bị giải tán ngày
31tháng 3 năm 2005 . Tư nhân hóa là một phần
cố gắng của chánh phủ biến đổi nền kinh tế Nhật . Các thay đổi khác gồm bỏ điều hòa - deregulations , phát
triễn những thị trường toàn cầu, mở rộng những thị trường tài chánh và tư bản Nhật. Ngoài ra còn có
những chương trình khích lệ yêu cầu nội địa
và cải cách hệ thống an sinh xã hội -wellfare quốc gia .Mọi thay đổi này đã được ghi rỏ , đề ra giữa thập niên 1890 dưới thời chánh phủ thủ
tướng Hosokawa Morihiro. Nhóm Cố vấn về
Cải cách Cơ cấu dưới quyền Hiraiwa
Gaishi, lúc đó là chủ tịch Keidanren - Liên hiệp những tổ chức kinh
tế Nhật, đã bao gồm những sáng kiến này ở một đồ bản vẽ con đường thay đổi. Trên những sáng kiến này, dân Nhật đã làm
nhiều thay đổi đáng kể .
Thập niên 1980, Nhật đạt
đỉnh thành công kinh tế , quyền
uy và ảnh hưởng. Nhật được kính nể và bắt chước trên nền kinh tế toàn cầu. Năm 1988, 7 trong
số 10 ngân hàng hàng đầu thế giới và 6 trong số 10 người giàu nhất thế giới là Nhật. Sử dụng tuồng như là tài nguyên vô tận, các
ngân hàng và nhà đầu tư Nhật, nuốt lốn
những mốc địa danh lộ liễu khắp thế giới. Tỉ như hảng Sony
mua CBS ( một trong 3 hảng phát
hình ti vi lớn Hoa Kỳ ) năm 1987, mua
Trung tâm Rockefeller Center giữa khu phố Manhattan , thành phố New York,
và rất nhiều tháp văn phòng, công đô và
thương xá. Cuối thập niên 1980, quyền lợi
Nhật kiểm soát 15% giá trị tài sản toàn
thể Hoa Kỳ, nghĩa là gần 32.5 tỉ đô la. Nhật đã hiển nhiên đạt mục tiêu hậu chiến là đuổi kịp và ở nhiều lảnh vực vượt mặt Tây phương .
Phí tổn khi Nhật trở thành một thành phần hệ thống kinh tế toàn cầu làm cho giấc mơ mộng tưởng thắm thiết từ lâu “tự
túc tự cấp - autarchy” trở nên vô vọng.
Số phận Nhật bị cột chặc vào kinh tế toàn cầu, đặc biệt với Hoa Kỳ. Trong khi đó, vì là một quốc gia chánh thương
mãi, Nhật thường xuyên nhận những xóc đột ngột - jolts của hệ thống toàn cầu : hai cú sốc dầu lữa
các năm 1973 và 1979 và sự cố tháng 10 đen - Black October 1987. Khi thị trường New York và
London sụp đổ, Nhật bị liệng vào cơn xoáy lốc.
Ngày 20 tháng 10, chỉ số cổ phần trung bình Nikkei mất đi trong một ngày
5.4 ngàn tỉ yen ( tiền Nhật ), tương đương 400 tỉ đô la Mỹ. Dù cho các thị trường cố định lại trong một tuần lễ và còn có vài cải thiện kinh tế nhờ tăng trưởng GNP năm đó là 5.7 % so với 4% năm trước. Thật là
minh bạch là hệ số tổn thương cũng tăng theo thành công
của Nhật. Lúc này, đa số dân Nhật không biết là nền kinh tế Nhật đang sa vào một vòng xoáy tình trạng giảm sút quan trọng
có cơ kéo dài. Thập niên mất mát , suy thoái 1990, khởi sự bằng tiếng động bong bóng tích sản nổ tan, sự sụp đổ của tam
giác “ doanh nghiệp, thư lại và đảng
chánh trị”, làm rung chuyễn lòng tin cậy
của dân Nhật đã quen thuộc ý niệm
là Nhật luôn luôn cải thiện đời sống dân chúng !
Thực tế tai họa của thập niên
1990 có thể hiểu thông qua hai cơn giông
tố : thứ nhất là làn sóng tới tấp của
thay đổi kinh tế toàn cầu như gợi
ý kể trên và dòng nước ngược ven bờ gây
ra vì sự tan vỡ của kiểu mẩu kinh tế hậu chiến Nhật. Đầu thập niên 1990, ý nghĩa khủng hoảng kinh tế nội địa Nhật chưa rỏ rệt tức khắc. Các nhà bình luận
hay học giả Hoa Kỳ và Âu Châu thường xuyên tưởng tượng là dân Nhật sẽ chiếm ngự thế giới. Bà thủ tướng Pháp Edith Cresson lo ngại Âu
Châu không đủ sức chống trả uy
quyền kinh tế Nhật. Nhưng tháng 8 năm
1989, nhà kinh tế Nhật Shimada Haruo đã viết bày tỏ băn khoăn về nền kinh tế
phồn thịnh Nhật. Ông giải thích thắc mắc
cho cái ông gọi là “ đầu tư thuật luyện
đan giả tạo sử dụng những giá trị bịa đặt”.
Tỉ như : “ giá trị đất đai Nhật thật là đơn giản ngoài sức tưởng tượng. Tổng số giá trị là 1.6 x 1015 ( quadrillion ) yen , đủ để mua 4 lần mọi đất đai Hoa
Kỳ; nói một cách khác là đã trị giá 100
lần hơn giá trị đơn vị đất đai Hoa Kỳ.
“ Cổ phần cỗ phiếu cũng khoa trương cường điệu quá lố bịch. Nguy hiểm hơn nữa là dân Nhật đã bị lóa mắt vì luyện
đan đầu tư giả tạo của mình cho nên đã
bị thả dàn vào một tin tưởng sảng khóai
là nền kinh tế thịnh vượng Nhật cũng
như vị trí sức lực uy vũ tài chánh Nhật lớn nhất thế giới , sẽ kéo dài
vĩnh viễn ( không khác mấy tuyên ngôn khoác lác của các nhà lảnh đạo Việt Nam sau
1975 say men “ chiến thắng ” là “với sức
người gỗ đá cũng thành cơm “ hay “Việt
Nam thống nhất sẽ đuổi kịp GDP Nhật
trong 10 năm tới, vào năm 1985
!”).
Trong thời gian này, các ngân hàng Nhật
chiếm ¼ tổng số ngân hàng ở London, và 20 % tổng số tiền cho tổ hợp vay ở New York. Bơm thêm
hơi vào bong bóng tích sản Nhật,
định siêu giá trị bất động sản , cỗ phiếu và đầu tư hải ngoại đã thụ hưởng lợi nhuận từ những phẩm giá đặc biệt của những kiểu mẩu
Nhật cận đại hóa và tái thiết hậu chiến.
Gyohten Toyoo , nhà kinh tế
học , nguyên thứ trưởng tài chánh đầu
thập niên 1990 , tóm tắt là nền kinh tế
Nhật được hướng dẫn của “ di sản 1880 “. Cận đại hóa và công nghệ hóa Nhật bổn bắt
đầu ở thập niên 1860, vào thời Minh Trị Thiên Hoàng. Ở thời điểm này, đã đạt
nhất trí về chủ tâm quốc gia đuổi cho
kịp và vượt mặt Tây phương ; nhất trí
giả thiết rằng thất bại sẽ đe dọa sống
còn đất nước. Dưới hoàn cảnh này, thúc
đẩy theo cảm nghĩ khẩn thiết và tạo hình
trên những tiêu chuẩn thừa hưởng văn
hóa, mọi người Nhật đều chấp nhận là cận đại hóa sẽ hội nhập
một hình thức tư bản quốc gia , song song với qui hoạch trung ương. Các
lực thị trường cũng được chấp nhận và
nhiệm vụ cực trọng quốc gia không
bao giờ bị chất vấn cả. Trong tình huống này , nguồn gốc công nghệ
tài chánh Nhật khác hẳn Tây Phương. Hệ thống ngân hàng được đặc thù thiết lập, hầu làm dễ dàng cận đại hóa và công nghệ hóa,
bằng cách thu thập tiết kiệm của dân
gian cho đầu tư và để điều hành hối đoái ngoại quốc. Gyohten nói
: “ chức quyền dẫn đạo, xem các ngân hàng như thể là những dụng cụ cho việc chia ngân khoản ra thành từng phần chiến lược, để tạo sức lực cho phát triễn kinh tế.” Vì phải đóng một vai trò cực trọng trong cuộc chiến đấu cho sống còn đất nước, ngân hàng không được
phép thất bại. Các nhà gửi tiền ngân hàng
được bảo vệ nhờ chánh phủ đứng sau lưng ngân hàng và sử dụng điều gọi là “ hệ thống cồng voa “, trong đó không
một công nghệ nào được phép chậm trễ , thụt lùi đằng sau cả . Để bảo đảm
hệ thống này, bộ Tài Chánh và Ngân Hàng Quốc Gia Nhật thiết lập điều hòa nghiêm khắc và giám sát cực kỳ các ngân hàng. Thành quả
hệ thống thuế vụ nay là các công nghệ
Nhật dựa mạnh mẽ trên tiền vay ngân hàng để tài
trợ ,thay vì trên thị trường vốn
không lãi - equity như thực thi ở Tây phương . Điều này cũng giúp rèn luyện ra
tam giác sắt thư lại, doanh nghiệp
và chánh phủ trong đó mọi góc cạnh người này đều có quyền lợi đúng pháp luật - vested
interests về số phận của kẻ kia , và một hệ thống đóng kín dễ sinh ra
tham nhũng . Tuy nhiên hệ
thống rất uy vũ . Chính sự phối hợp hửu
hiệu giữa chuyên môn thư lại , tài
nguyên kinh tế và chánh trị sẽ giúp đẩy Nhật, từ điều kiện nông nghiệp đến quyền uy công nghệ vào năm 1990, và trên sân khấu quốc tế vào giữa thế kỷ thứ 20 .
Hệ thống tương tự đã xử lý tái thiết
Nhật thành công đáng ngạc nhiên suốt
phần thế kỷ thứ 20 còn lại. Thế nhưng
thành công đã phát xuất ra quá tự tín suốt thế kỷ thứ 20 và khinh thường các nhà cạnh tranh càng ngày càng có cảm tưởng là Nhật chỉ chơi
bài theo qui tắc riêng cho Nhật
và tự tạo cho Nhật những ưu điểm không công bằng. Nhật không lý gì đến những thay đổi cơ cấu kinh tế toàn cầu, biến
đổi đời sống kinh tế. Năm 1985, Thỏa
hiệp Plaza Accord , thay đổi
hối xuất quốc tế từ “ cố định ”
hậu chiến qua thả nổi - floating
đã gây ra tăng gia lớn lao giá
trị đồng yen từ giá cố định 320 -1$ đến 120- 1$
, nghĩa là tăng hối xuất thêm 3
lần năm 1985. Thay đổi này do Hoa Kỳ khởi
xướng có ảnh hưởng tức thì và bi thảm
trên xuất khẩu. Để chống trả
lại ảnh hưởng tiêu cực, chánh phủ Nhật
giảm lãi xuất . Chánh sách tiền dễ dãi
này làm cho các ngân hàng tràn ngập
tiền mặt - awash of liquidity. Tiếp theo là
đầu tư khổng lồ trên cổ phiếu và trên bất động sản, mau lẹ đẩy những
tích sản này lên những mức độ cao bất
thuờng, chưa bao giờ thấy, như đã kể trên. Lạm phát giá trị còn do chánh phủ châm thêm nhiên liệu, khi chánh phủ cố gắng bỏ điều hòa -
deregulation khu vực tài chánh. Đặc
thù, việc mở rộng thị trường quốc trái (
bông phiếu ) và tư bản Nhật cho các nhà đầu tư ngoại quốc, cống hiến cho công nghệ Nhật những nguồn ngân khỏan đầu tư mới đồ sộ, không từ chối được. Thế cho nên Tổ hợp Nhật bắt đầu tách rời khỏi
liên kết truyền thống với tư bản vay
ngân hàng và toàn cầu hóa nguồn tài trợ. Có nghĩa
là toàn cầu hóa nền kinh tế Nhật và việc đồng qui về cái gọi là “ kinh tế mới
“ đã bắt đầu cùng việc mất kiểm soát, mất tự trị.
Sụp đổ hệ thống ngân hàng và giá trị công trái đã nói ra rồi. Bị trói tay vì hàng trăm tỉ yen tiền vay không hửu hiệu, tài sản mất hết giá
trị, công nghệ khả năng quá thặng dư và thị trường cỗ phiếu nhào xuống đã mất đi hết 38 % giá trị hay 2.07 ngàn tỉ đô la Mỹ, Nhật bước vào thập niên 1990 . Bong bóng nổ tan
không thay đổi ngay tức khắc đời sống
đa số dân Nhật . Tuy nhiên đã phô
bày tan vỡ thành mảnh vụn di sản 1880.
Điều này đưa tới thay đổi tam giác sắt, chánh trị và xã hội Nhật . Chánh phủ Nhật và các tổ
hợp phản ứng bằng cách ôm chồm toàn cầu hóa. Họ bắt đầu bằng tái cơ
cấu công nghệ. Chánh phủ khởi sự bỏ điều
hòa mọi lảnh vực kinh tế. Cuối cùng
công nghệ nội địa Nhật, trước đây đóng kín không cho đầu tư ngoại quốc, được mở ra. Dòng
nghiêng lệch một bên tư bản Nhật
cho thị trường ngoại quốc , nay đã có thể đem tới cân bằng tốt đẹp hơn. Tư bản
mới bắt đầu đến Nhật, giúp kích
thích nền kinh tế . Đến năm 2001, hơn 32
tỉ Mỹ kim đã được đầu tư , tăng từ chỉ
có 5 tỉ năm 1990. Những năm trước 2001 , đầu tư ngoại quốc trực tiếp
tiếp tục nới rộng với các nhà
cạnh tranh mới , kể cả Trung Quốc.
Song song với mở rộng thị trường cho tư bản ngoại quốc, chánh phủ
Nhật cho phép thay đổi quản trị , làm chủ nhân và nhiều
dụng cụ tài chánh mới như sáp nhập và thu
nhận. Các công ty Hoa Kỳ như
Goldman Sachs, Merryl Linch, và Morgan Stanley Dean Witter trở thành những kẻ thương lượng mua đứt hay cũng cố thất bại hay phá sản của
các công ty Nhật. Tháng 8 năm 2003, Tổ
hợp Ripplewood Holdings L.L.C. chi 4 tỉ đô la để chiếm lấy tích sản dòng cố
định của tổ hợp Nhật - Japan Telecom Holdings. Như thế tổ hợp đã đặt chân vào
khu vực kỷ thuật thông tin cao kỷ Nhật . Các nhà đầu tư ngoại quốc
cũng tiến vào ngành công nghệ bảo
hiểm Nhật và gần đây đã chiếm ngự
6 công ty bảo hiểm lớn của Nhật.
Những thay đổi tương tự cũng xảy ra ở ngành chế tạo và bán lẽ. Các công ty Hoa Kỳ và Âu Châu đã đầu tư mạnh mẽ vào ngành
công nghệ ô tô Nhật , kiểm soát nhãn hiệu Fuji Heavy Industry của Subaru, Mazda , Mitsubishi
và ngay cả Nissan , hảng lớn thứ
hai ô tô Nhật lúc đó , cũng bị hảng Renault Pháp chiếm giữ.
Các hảng khổng lồ bán lẽ Hoa Kỳ
như Wal-Mart hay những dây chuyền thực
phẩm ăn liền như Mc Donald cũng gia tốc
tái cơ cấu thị trường bán lẽ và
thực phẩm , có cơ phá thủng các
tiệm cha - mẹ khu
phố lân cận cỗ truyền hay tinh thần cộng
đồng Nhật xưa cũ. Rồi thì, các công nghệ dịch vụ Tây phương cũng di chuyễn vào
Nhật. Chẳng hạn công ty American Selectron, hảng công nghệ dịch vụ
chế tạo đồ điện tử - Electronics manufacturing services ( EMS ) lớn nhất
thế giới năm thời điểm đó, đã kiểm
soát các cơ sở khảo cứu khổng lồ của
hảng Sony ở Nakanitta năm 1999. Cơ sở
này chứa tư bản khảo cứu tiến tiến nhất của Sony, cho nên một
công ty ngoại quốc kiểm soát nó, thật
rất có ý nghĩa !
Những cải cách này là một dứt
điểm cho kiểu mẩu Nhật quá khứ,
hướng về địa phương , thôn
xóm. Những
đức tính đáng quí của kiểu mẩu này như công ăn việc làm suốt đời, tăng lương tùy theo thâm niên, nghiệp đoàn
hòa hợp căn bản là công ty, và liên hệ
xử lý - công nhân thiết thực gồm luôn cả thang lương bổng tương đối bình đẳng, thảy đều yếu kém đi
. Tuy
nhiên, dân Nhật vẫn không muốn hoàn toàn
bỏ tinh thần công ty - companyism (
nghĩa là tương đương với tinh thần
gia tộc - familism ở tổ hợp ) để lựa
chọn kiểu mẩu Tây phương, chỉ lo đến
quyền lợi của cổ đông . Nhật đang cố
gắng tìm kiếm hòa giải có thể làm mềm đi cú đánh trái banh cứng rắn
tư bản, hướng về các lý tưởng quen thuộc thời quá khứ ?
Tình huống và viễn cảnh Nhật ngày
nay ( viết theo sự kiện tính đến năm 2005 )
Bình minh thế kỷ thứ 21 cho thấy một Nhật bổn biến đổi đối mặt một viễn cảnh chưa bao giờ có một trăm năm trước. Lúc đó Nhật mới ăn thử
trái cây Nhật tự cận đại hóa. Từ tro tàn
của bại trận 1945 đến nữa phần cuối thế kỷ thứ 20, Nhật đã thật sự đuổi kịp , đôi khi vượt mặt Tây phương , như thể một cường quốc công nghệ, kinh tế và kỷ thuật . Nền kinh tế tiên tiến hậu chiến Nhật chứa những tài nguyên kinh tế đồ sộ, vào thời điểm này, chỉ sau Hoa Kỳ mà thôi. Năm 1900, tuy đang tiến theo tương lai công nghệ đô thị hóa , Nhật vẫn còn là một
quốc gia nông nghiệp , nông thôn.
Nông dân Nhật cung cấp nhiều tư bản , đễ giữ vững việc cận đại hóa . Các
dân cư thị trấn , đô thị hóa mới, tiếp
tục duy trì liên hệ mật thiết với “
các thị trấn nông thôn mình - home town ” gọi là furusato ,tuy chỉ còn bờ rìa nhưng đã trở thành một loại nơi cất giữ tinh thần
những giá trị và cách sống thuần túy
Nhật, nơi Nhật cận đại có thể tìm thấy được cội rễ của cá tính quốc gia cỗ truyền như
siêng năng - gambatte, kiên nhẫn - gamman, cần cù , lịch sự-lễ phép tao nhã
. Mãi cho đến gần đây, chính căn bản nông thôn này đã luôn luôn hổ trợ đảng LDP,
chủ trì lực lượng chánh trị bảo
thủ xây đắp dân chủ theo ý niệm chủ nhân - khách hàng suốt
những năm hậu chiến .
Đến thập niên 1980, Nhật đã hoàn tất
nhiều ước vọng hậu chiến Nhật. Nền kinh tế Nhật thịnh vượng, được kính
nễ khắp Á Châu như thể một động cơ cho thịnh vương toàn vùng. Thủ tướng Mã lai Á
lúc đó, Mohamad Mahathir đã kêu gọi
Nhật lảnh đạo đầu đàn một liên minh Á Châu.
Các doanh nghiệp Hoa Kỳ cũng cố
gắng chấp nhận “ kiểu mẩu Nhật ” và
chánh phủ Hoa Kỳ trông cậy vào các nhà đầu tư Nhật đễ chống
đở những thâm thủng ngân sách to lớn.
Dân Nhật cũng quyết định là Nhật cần cắt đứt các dây nhợ tấm vải che ràng buộc của Hoa Kỳ và nói “ không- no ” với thế giới khi Nhật muốn nói. Bắt đầu từ thập niên 1970, Nhật đã khởi sự chuyễn qua một chánh sách độc lập
khác Hoa Kỳ đối với Trung Quốc và Đông Nam Á. Suốt thập niên
1980, dân Nhật luôn luôn
bảo vệ các chánh sách kinh
tế chống lại Hoa Kỳ và Âu Châu tiến
trước ý niệm giáo sư Ezra Vogel , đại học Harvard gọi là “ Nhật
bổn như là Số một - Japan as Number One ” .
Thế nhưng thập niên 1990 đã đánh
tan hết sảng khoái thành công. Bong bóng kinh tế nổ tung làm sụp đổ thị trường bất động sản , và cổ phiếu
vấp ngã . Ngân hàng và doanh
nghiệp xếp đóng dưới cân nặng “các món cho vay không hiệu quả- non
performing loans ” lên đến 1000 tỉ đô la. Buồn thay , thành công và thịnh vượng Nhật đã
thực hiện xuyên qua phí tổn tham
nhũng ( chưa chắc gì Việt Nam tránh được nạn này ở
hiện tại và trong tương lai ? ) khắp mọi
tầng lớp của tam giác sắt , chánh trị
gia, thư lại và doanh nhân đưa dân Nhật
vào một xoắn ốc suy thoái, giảm phát và
sụp đổ mộng ước của “Thập niên Mất Tiêu -
Lost Decade ” 1990 . Các năm 2002 và 2003 tuồng như gợi ý một xoay đầu cho nền kinh tế Nhật, chuyễn từ
hoạt động thị trường cỗ phiếu từ âm qua dương. 10 năm xuống dốc
đã làm rung động niềm tin cậy và khởi động một thời kỳ mới xem xét nội tâm . Dân Nhật bước vào thế kỷ 21, phân vân, e ngại và cố tìm kiếm một con đường mới khác cho tương lai.
Mùa hè 2003, trên phương
diện kinh tế Nhật cải cách và tái cơ cấu chờ đợi đã lâu ngày, do cố vấn tài chánh Takenaka của thủ tướng
Koizumi thúc đẩy. Ngân hàng được cũng cố
, các món cho vay không hiệu quả được
làm sạch , và cỗ phiếu bắt đầu gia tăng
trở lại sau 10 năm . Phá sản có phần giảm bớt , và các cải cách cơ cấu
mở rộng thị trường Nhật cho đầu
tư ngoại quốc đáng kinh ngạc ,kéo theo
1.7 ngàn tỉ đô la Mỹ vốn không lời Nhật và
mua bán tích sản. Chấm dứt “
công ăn việc làm suốt đời ” và giảm bớt kích thước doanh nghiệp , đã làm Nhật
có tỉ lệ thất nghiệp - unemployment lên đến 5.6 %, cao nhất từ trước đến
nay . Xuất ngoại sản xuất
suốt khu vực công nghệ Nhật càng làm tăng thêm nạn thất nghiệp , an ninh
công ăn việc làm , và nhiều thanh niên
nam nữ thoát ly ra khỏi những lối đi qui ước về nghề nghiệp làm mù tối thêm
hình ảnh công ăn việc làm .
Thanh niên Nhật phản ứng lớn với
tình trạng bất ổn kinh tế xuống dốc và suy đồi
hậu chiến các thể chế và giá trị
qui ước. Rất có thể là các thế hệ
già hơn , thật sự không biết cách gì dạy bảo thanh niên cả. Các văn hóa
phụ do trò chơi và điện thoại kỷ thuật-
thúc đẩy, cha mẹ xa rời ; chú tâm về mình
hơn là ở các thế hệ trước ; lo âu của các cao niên nhận thức là họ
phải lo cho các quyền lợi của chính
họ khi các trách nhiệm gia đình truyền thống cho người già mờ tối đi vào
một hệ thống dịch vụ xã hội trừu tượng,
đã để cho giới thanh niên Nhật
chỉ còn được giới cao niên hướng
dẫn giới hạn, ngoài phương tiện truyền thông
, báo chí ra. Hổn loạn trong lớp học, hình
tội lạ lùng và dữ dội, trốn đời và chối bỏ
lối đi qui ước về công ăn việc làm , hiện ra ở bờ lề một cốt lõi bất ổn văn hóa thanh niên. Cùng
lúc, các thượng lưu giáo dục và chánh trị
đã lo âu sâu xa đến
thế hệ mới, tuồng như chỉ nghĩ
đến quyền lợi riêng mình hơn là cho gia
đình hay cho xã hội lớn mạnh thêm.
Suốt những năm thành công hậu
chiến, khi các thị trấn nhập thành
những đại phố các huyện lỵ dân cư
đông đúc- densely inhabited districts( DID) rộng lớn và nối kết nhau chiếm đất đai nông
trang , cũng là lúc khu vực công nghệ thịnh vượng biến nông dân
thành nhân công xưởng máy và thị
dân . Năm 2005 , khu vực nông
nghiệp ở nền kinh tế giảm mạnh chỉ
còn 1.4% GDP , phần còn lại là công nghệ và dịch vụ . Nhắc lại là ở Việt
Nam , ước vọng là nông dân giảm xuống
chỉ còn 40% tổng số dân vào năm
2020, so với 70 -75 % các năm 1999- 2000
. Phần lớn những ai còn ở lại xóm làng là
người già cả và trẻ em , với rất nhiều
nông dân làm việc bán thời gian ở thị trấn hầu kiếm thêm lợi tức, dù
giá lúa gạo nông dân Nhật đã được bao
cấp 4- 5 lần hơn giá cả thị trường quốc tế.
Thanh niên không còn muốn ở lại nông thôn cũng như giới cao niên cũng không cho là đúng
yêu cầu con trẻ ở lại xóm làng . Làng xã Nhật đã biến thành cư xá
phòng ngũ của cộng đồng , hay là thị trấn ma hay như tương đương các nông trang ăn diện công tử bột ( Bặc Liêu
xa xưa VN ) hay vị trí tiêu khiển .
Nguồn gốc văn hóa truyền thống và quyền uy chánh trị khô cạn dần. Chuyễn qua văn
hóa thương mãi hậu chiến của các thị trấn, thành phố . ...
(
Irvine, ngày 11 tháng 1 năm 2011, sau khi bổ sung sách lịch sử văn hóa Nhật của
Scott Morton bằng đồng tác giả giáo
sư khoa sử Viện Đại học Monclair, bang
New Jersey, J. Kenneth Olenik , tái bản lần thứ tư, có bổ túc , năm 2005
)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét