Theo dõi
tiến bộ và cập nhật hiểu biết về điện
sạch :
Điện tế bào nhiên liệu đang cố gắng làm ra điện rẽ tiền hơn
G S Tôn Thất Trình
Năm 2003, tổng thống George Bush đề nghị Sáng kiến Nhiên liệu
Hydrogen - hydrogen Fuel Initiative HDI, sau đó thực thi theo luật pháp qua Luật Chánh sách Năng
lượng 2005 Energy Policy Act và Sáng
Kiến Tiến tiến Năng lượng - Advanced Energy Initiative . Nhắm
phát triễn xa hơn nữa các tế bào
nhiên liệu hydrogen - fuel cells và các kỷ thuật hạ tầng cơ sở liên hệ, mục đích cuối cùng là sản xuất xe ô tô tế bào nhiên liệu năm 2002. Năm 2008, Hoa Kỳ đã đóng góp 1 tỉ
đô la Mỹ vào dự án công nghệ điện này. Nhưng tháng năm 2009, chánh quyền Obama tuyên bố là sẽ “ cúp hết ngân khoản tài trợ”
phát triễn xe ô tô chạy nhiên
liệu tế bào hydrogen, vì lẽ những kỷ thuật
xe ô tô khác sẽ đem tới giảm bớt
mau lẹ hơn phát thải, trong một thời gian ngắn hơn. Bộ trưởng Năng Lượng Hoa Kỳ
- DOE giải thích là những ô tô chạy hydrogen “ sẽ không thực
tế trong vòng 10 đến 20 năm tới” , và
cũng lưu ý tới những thách thức liên
quan đến việc phát triễn hạ tầng cơ
sở phân phối nhiên liệu hydrogen. Tuy nhiên,
chánh phủ Hoa Kỳ vẫn sẽ tiếp tục
tài trợ khảo cứu cho các tế bào nhiên liệu cố định, đứng
yên một chỗ - stationary fuel cells .
Hội Quốc gia Hydrogen Hoa Kỳ và
Ủy Ban Tế bào Nhiên liệu Hoa Kỳ chỉ
trích mạnh mẽ quyết định này biện cứ
rằng “ cắt chương trình hydrogen và tế bào nhiên liệu ở
đền nghị của DOE đe dọa làm gián đoạn
thương mãi hóa một loạt - một gia đình những kỷ thuật đang cho thấy nhiều hứa hẹn khác thường và đang sửa soạn chiếm đọat
thị trường.
Cho đến nay có khoảng 60 nhà máy điện
đứng yên một chỗ ( cố định )- stationary power plants sử dụng tế
bào nhiên liệu trực tiếp DFC - Direct Fuel Cell của hảng FuelCell
Energy , tọa lạc tại thành phố Danbury,
bang Connecticut , Đông Bắc Hoa Kỳ, cung cấp tổng cọng hơn 180 triệu kilowatt- giờ điện cho khách hàng trong 5 quốc gia trên thế
giới ( Hàn Quốc- Nam Hàn , Singapore …). Ngày 21 tháng giêng 2011, hảng Bloom Energy , tọa lạc tại Vùng Vịnh - Bay Area San Francisco, Bắc Ca Li, cho biết đã bán ra khắp thế giới năm 2009, 22 000 tế bào nhiên liệu , tăng 40% so với năm 2008. Trong quá khứ, tế bào nhiên liệu được xem là đắt tiền và
khó sản xuất. Nhưng nhờ những chọc thủng ,đột khởi- breakthroughs, trợ
cấp của chánh phủ ( gần đây DOE để dành riêng 65 triệu đô la Mỹ trợ cấp cho khảo
cứu và phát triễn tế bào nhiên liệu ), giá cả thấp dần nhờ chấp thuận dùng tế
bào nhiên liệu tăng thêm, nên các công ty chế tạo tế bào nhiên liệu
tuồng như thảy đều muốn nới rộng ra.
Vậy chớ tế bào nhiên liệu là cái gì đây ?
Tế bào nhiên liệu là một tế bào điện hóa học - electrochemical cell ,
chuyễn hóa một nguồn nhiên liệu thành một dòng điện. Nó phát điện bên trong một tế bào xuyên qua
những phản ứng giữa một nhiên liệu và một oxyhóa - oxidant , khởi
động trước hiện diện của một điện
giải - electrolyte . Các chất
phản ứng - reactants chảy vào tế
bào, và các sản phẩm phản ứng chảy ra
ngoài tế bào , trong khi chất điện giải vẫn tồn tại trong tế bào. Các tế bào
nhiên liệu có thể hoạt động liên tục , mỗi
khi dòng chảy chất phản ứng cần thiết và
chất oxy- hóa được duy trì. Các tế bào nhiên liệu khác với
các bình điện - batteries tế
bào điện hóa học qui ước là vì chúng
tiêu thụ chất phản ứng từ một
nguồn ngoại, phải được tái cung cấp , nghĩa là một hệ thống mở nhiệt động
lực - thermodynamically . Trái lại , bình điện tồn trữ năng lượng điện dưới hình thức hóa học và như
thế biểu hiện một hệ thống nhiệt động lực đóng kín
.
Có thể có rất nhiều phối
hợp giữa
các nhiên liệu và các oxy-
hóa. Một tế bào nhiên liệu hydrogen sử dụng hydrogen làm nhiên liệu và oxygen ( thường từ không
khí ) làm chất oxy-hóa. Nhiên liệu khác gồm
cả hydrocarbons và alcohol . Các
chất oxy-hóa gồm luôn cả chlorine nà chlorine dioxides .
Họa kiểu tế bào nhiên liệu
Tế bào nhiên
liệu đến chúng ta dưới nhiều dạng. Tuy
nhiên chúng đều hoạt động theo một phương cách như nhau. Chúng gồm ba mảnh kẹp chung nhau : cực
dương - anode, chất điện giải - electrolyte, cực âm - cathode. Hai phản ứng xảy ra ở những
bề mặt chung - interfaces của ba mảnh
khác nhau. Thành quả thực - net
của 2 phản ứng là nhiên liệu sẽ được
tiêu thụ , tạo ra nước và carbon dioxide, và một dòng điện, có thể dùng để chạy các linh kiện điện , thường gọi
chung là chất tải - the load .
Ở cực dương , một chất điện giải
oxy hóa nhiên liệu , thường là hydrogen,
bie6’n nhiên liệu thành môt ion điện tính dương và một electron điện tính âm.
Chất điện giải là một chất
liệu được họa kiểu đặc thù để các ions có thể xuyên qua nó, nhưng lại
không để cho các electrons lọt ra. Các electron được tự do sẽ du hành qua mọt dây để tạo ra dòng điện. Các ions du hành qua chất điện giải đến cực
âm. Khi chúng đến cực âm , các ions
dương tái thống nhất với các electrons
và cả hai phản ứng với một hóa chất thứ
ba , thường là oxygen, để tạo ra nước và carbon dioxide.
Những đặc điểm quan trọng
nhất của một tế bào nhiên liệu là :
-
Chất liệu điện giải - the
electrolyte substance. Chất này thường giúp định nghĩa loại - type tế bào nhiên liệu.
-
Nhiên liệu tiêu xài. Nhiên liệu thông thường nhất là hydrogen.
-
Chất điện giải cực dương , sẽ làm tan vỡ nhiên liệu thành electrons và ions . Cực dương thường là bột bạch kim tán rất nhỏ.
-
Chất điện giải cực âm biến các
ions thành những hóa chất tỉ như nước và carbon dioxide . Chất phân giải cực âm
thường làm bằng nickel .
Một tế
bào nhiên liệu điển hình sản xuất ra một
điện thế từ 0.6 V dến 0.7 V ở chất tải tỉ lệ toàn phần - full rate load.
Điện thế - voltage sẽ giảm
khi dòng điện tăng , vì nhiều thừa tố
sau đây : mất mát vì hoạt hóa -
activation , mất ohm ( ic ), điện thế giảm vì sức kháng của các thành phần tế bào và các
nối kết nhau, mất mát vì chuyên chở khối lượng ( các chất phản ứng mất hết đi
ở những vị trí điện giải khi chất tải quá cao, gây ra mất điện thế mau lẹ )
Muốn cung cấp một số lượng năng lượng
mong muốn, các tế bào nhiên liệu có thể phối hợp nhau thành mạch vòng song song hay nối tiếp
nhau - en series. Lắp nối tiếp nhau
sẽ cho điện thế cao hơn ; còn lắp song song
giúp cung cấp dòng điện lớn hơn. Vùng diện tích ( mặt bằng ) có thể tăng
thêm, giúp có được dòng diện mạnh hơn từ
mỗi tế bào nhiên liệu.
Năm 1938, nhà khoa học Đức Christian Friedrich khám phá ra nguyên tắc tế bào nhiên liệu tế bào nhiên liệu Nhà khoa học xứ Welsh - Wales, Vương Quốc Anh William
Robert Grove chế tạo lần đâu tiên tế
bào nhiên liệu, năm 1842,
sử dụng những vật liệu tế bào
nhiên liệu acid phosphoric hiện nay .
Năm 1955, một nhà khoa học , Tổ hợp Công ty General Electric - Company Loeonard
Niedrach, họa kiểu một phương cách làm
lắng đọng bạch kim vào một mành chắn - membrane sử dụng làm chất điện giải cho các phản ứng oxyhóa oxygen và khử oxygen
cần thiết . .dược gọi là “ tế bào nhiên liệu Grubb -Niedrach “ GE tiếp tục phát
triễn kỷ thuật này cho NASA và hảng chế tạo phi cơ McDonnel Aircraft , đưa tới việc dùng nó trên dự án phi thuyền
Gemini . Đây là công dụng thương mãi đầu
tiên tế bào nhiên liệu. Năm 1959 ,
kỷ sư Thomas Bacon phát triễn thành công một tế bào nhiên liệu 5 kw đứng
yên một chỗ . Cũng năm 1959 nhóm Harry
Ihrig xây dựng một tế bào nhiên liệu cho
máy kéo - tractror cho hảng Allis
Chalmers . Hệ thống này dùng hydroxide
potassium làm chất điện giải và ép
hydrogen và oxygen để làm các chất phản ứng - reactants. Trong thập niên công ty làm động cơ cho phi cơ Pratt and
Whitney mua môn bài Hoa Kỳ của Bacon để
cung cấp điện và nước uống cho chương
trình không gian Hoa Kỳ. Chi nhánh Điện
củaTổ hợp United Technologies Corporation , UTC là công ty
dầu tiên chế tạo và thương mãi hóa một hệ thống tế bào nhiên liệu tại chỗ, to lớn ,
dùng đồng hành phát điện -
cogeneration ở nhà máy điện cho các bệnh viện, các viện đại học và các dinh
thự văn phòng lớn. UTC tiếp tục bán ra loại tế bào nhiên liệu có tên là
PureCell 200 . một hệ thống 200 kw, cuối
năm 2009 , được thay thế bằng một dịch bản
400 kw , tiếp tục là nhà cung cấp duy nhất tế bào nhiên liệu cho NASA
để dùng trên các xe cộ không gian, các sứ mệnh Apollo , và chương trình Không
Gian Con Thoi - Space Shuttle , và phát triễn các tế bào nhiên liệu cho xe buýt, ô tô, các
tháp điện thoại tế bào. Công ty UTC cũng là nhóm đầu tiên trình diễn tế bào nhiên liệu đầu tiên có khả năng khởi động dưới điều kiện đông giá, nhờ kỷ thuật màng chắn trao đổi proton exchange membrane .
Hiện
nay ở Hoa Kỳ có trên 20 loại tế bào nhiên liệu đang khảo cứu hay đã thương mãi
hóa. Ba loại đáng kể ra là tế bào nhiên liệu trao đổi proton và hai loại tế bào
nhiên liệu nhiệt độ cao , SOFC và MCFC.
Tế bào
nhiên liệu trao đổi proton là họa kiểu
rất điễn hình tế bào nhiên liệu
trao đổi proton màng chắn hydrogen- oxygen , dùng một màng chắn dẫn điện polymer ( chất điện giải ) , phân
chia các phía cạnh của cực dương và cực
âm . Các năm đầu thập niên 1970 được gọi
là “ tế bào nhiên liệu điện giải polymer rắn chắc - solid polymer
electrolyte fuel cells - SPEFC ”, trước
khi cơ chế trao đổi proton được
biết rỏ hơn. Ở phía cực dương, hydrogen
khuếch tán đến chất điện giải cực dương, và sau đó sẽ phân chia ra
thành các protons và các electrons .
Các proton thường phản ứng với
các chất oxyhóa làm chúng trở thành những màng chắn nhiều lớp dễ để lọt
protons - multi- facilitated proton membranes. Các proton này sẽ được dẫn qua màng chắn đến cực âm, nhưng các electron bi bắt buộc du hành trong một mạch ngoài ( cung cấp điện ) vì màng chắc
là vật cách ly điện . Ở chất điện giải cực âm , các phân tử oxygen phản ứng với các electron ( đã dù hành xuyên qua hết mạch vòng ngoài )
và proton làm ra nước , ở thí dụ
này, là sản phẩm phế thải duy nhất, dưới
thể lỏng hay thể hơi nước . Ngoài loại thuần túy hydrogen, này , các nhiên liệu hydrocarbon khác cho các tế bào nhiên liệu có thể là diesel, methanol, hay
các hydrides hóa học . Sản
phẩm phế thải của các nhiên liệu này là
carbon dioxide và nước. Vật liệu dùng ở
các tế bao nhiên liệu khác nhay theo
loại tế bào . Ở một lắp ráp điển hình
các cực màng chắn - membrane electrode assembly ( MEA ) ,
các tấm hai cực
- electrode bipolar plates thường làm bằng kim loại , nickel hay các
ống nanô carbon và thường được bọc với một
điện giải ( tỉ như bạch kim , bột
sắt nanô hay palladium hầu có hiệu năng cao hơn . Giấy carbon phân chia chúng khỏi chất phân giải. Phân giải có thể là đồ sành sứ - ceramic hay
là một màng chắn . Năm 2002 , giá những
hệ thống tế bào nhiên liệu điển
hình là 1000 đô la Mỹ cho một kw điện sản xuất. Năm 2009 , bộ DOE Hoa Kỳ báo cáo
là một hệ thống tế bào nhiên liệu ô tô 80kw
giá 61 đô la một kw nếu có thể
tích sản xuất dự trù là 500 000 đơn vị
một năm . Mục tiêu là hạ giá
này xuống 35 đô la Mỹ một kw . Năm 2008, UTC chế tạo những tế bào nhiên liệu đứng yên tại chỗ là 1 000 000 cho 400 kw thiết kế . Mục tiêu là giảm giá phí tổm hầu cạnh tranh với các kỷ thuật thị trường hiện thời, gồm
luôn cả các động cơ nổ chạy xăng .
Một tế bào nhiên
liệu oxide rắn đặc - solid oxide fuel cell
, SOFC, có rất nhiều ưu điểm nhờ có thể dùng một loạt nhiên liệu rộng rải . SOFC có thể chạy bằng hydrogen,
butane, methanol, hay các sản
phẩm dầu lữa khác. Mỗi loại nhiên liệu khác nhau đều có hóa học riêng biệt cho mình. Tế bào
nhiên liệu ethanol SOFC, ở phần cực dương , một chất điện gỉai phá vỡ methanol và nước làm thành carbon dixoxide, các ions hydrogen và các
electrons tự do. Các ion hydrogen gặp các ion sắt tạo ra ở phần cực âm và đi
xuyên qua chất điện giải đến phần
cực dương ; nơi đây chúng phản ứng để
tạo ra nước. Một chất tải nối kết bên
ngoài giữa cựa âm và cực dương hoàn tất mạch
vòng điện. Ở cực dương các
SOFC có thể dùng nickel hay các chất điện giải khác
để phá vỡ methanol và tạo ra các
ion hydtrogen v và carbon monoxide . Một chất rắn đặc - solid tên gọi là
yttria ổn định zirconia ( YSZ) được xử dụng làm chất điện giải. Cũng như mọi
chất điện giải của tế bào nhiên liệu YSZ
cũng dẫn giắt vài ions , trong
trường hợp này là ion oxide giúp xuyên
qua từ cực âm đến cực dương, nhưng không
dẫn giắt tới các electron. YSZ là một
chất rắn đặc bền vững và có
rất nhiều ưu điểm ở các hệ thống công
nghệ. Dù YSZ là một chất dẫn giắt ion
tốt , nó chỉ hoạt động ở nhiệt độ cao mà thôi . Nhiệt độ hoạt động tiêu chuẩn
là 950o C . Chạy tế bào nhiên
liệu ở nhiệt độ cao như vậy sẽ phá vỡ dễ dàng methane và oxygen thành
ions . Một khuyết điểm của SOFC là vì thành quả của nhiệt lượng cao nên
nó làm nhiều cản trở cho các vật
liệu sử dụng làm những mối nối kết. Một khuyết điểm khác khi chạy tế bào ở nhiệt
độ cao như vậy là có nhiều phản ứng
không mong muốn có thể xảy ra bên trong tế bào nhiên liệu. Các bụi carbon , graphít thường đóng nhiều ở
cực dương ngăn cản nhiên liệu
đến gặp chất điện giải. Rất nhiều khảo cứu đang cố gắng tìm nhưng thay thế cho YSZ sẽ mang theo ions ở
nhiệt độ thấp hơn .
Tế bào nhiên
liệu carbonate nung chảy - Molten
carbonate fuel cells ( MCFC) hoạt
động một cách tương tự , ngoại trừ chất điện giải la carbonat lỏng ( nung chảy - molten
) và đó là một ion âm và một tác nhân
oxythóa . Vì lẽ chất điện giải mất đi carbonat ở phản ứng oxythóa , phải
luôn luôn châm lại carbonat bằng một cách nào đó . Thường là cho tái tuần hoàn
carbon dioxide từ các sản phẩm oxythóa
đến cực âm , nơi chúng phản ứng với
không khí đang tới, hủy bỏ nhu cầu cần
có một cải cách nhiên liệu ngoại . MCFC
có thể dùng giảm bớt phát thải CO2 ở các nhà máy điện chạy than đá cũng như ở các nhà máy điện tua bin chạy
khí dầu- gas turbine power plant.( Việt Nam đã thiết lập ở Phú Mỹ - Bà Rịa
và ở An Khánh - Cà Mau).
Phát điện đồng hành - Cogeneration
Những hể thống tiểu vi phối hợp nhiệt lượng và điện - Micro
combined heat and power ( MicroCHP ) tỉ như
các tế bào nhiên liệu gia thất và
phát điện đồng hành cho các xây cất
phòng sở và xưởng máy là pha -
phase sản xuất đại trà . Hệ
thống phát điện thường trực( bán điện dư thừa cho mạng lưới điện khi không xài đến ) và
cùng lúc đó sản xuất ra không
khí nóng - hot air và nước từ
nhiệt lượng - heat phế thải . MicroCHP thường ít hơn 5 kwe cho một tế bào nhiên liệu gia thất hay cho
tiểu doanh nghiệp . Một hiệu năng chuyễn
hóa nhiên liệu -qua -điện thấp hơn được chấp nhận ( điển hình 15-20%) , vì rằng
đa số năng lượng không chuyễn hóa thành
điện được dùng ở thể nhiệt lượng. Vài
nhiệt lượng bị mất đi với khí xã - exhaust gas tỉ như
ở lò đốt - furnace bình
thường ; thế cho nên hiệu năng phối hợp nhiệt lượng và điện vẫn thấp hơn 100%, điển hình khoảng 80%
. Trên phương diện năng lượng, tuy
nhiên, tiến trình thật là vô hiệu quả và
ai đó tốt hơn nên tối đa điện phát ra
rồi dùng điện chạy một bơm nhiệt
lượng - heat pump. Các tế bào nhiên
liệu acid phosphoric - PAFC là khu vực lớn nhất của các sản phẩm CHP hiện
hửu khắp thế giới và có thể cung cấp
những hiệu năng phối hợp gần 90% ( 35-50% điện + phần còn lại là nhiệt
- thermal) .MCFC cũng đã thiết kế những ứng dụng này và các nguyên
mẩu - prototypes SOFC cũng đã hiện diện .
Phân phối điện phát ra
Phân phối điện phát ra-
Distributed Generation là từ ( ngữ
) dùng nói đến một nguồn phát điện vị trí kế cận
mơi cần dùng điện . Đối ngược lại với phát điện trung ương hóa - centralized
power generation cung cấp qua mạng
lưới điện - the grid. Các nhà
máy phát điện trung ương hóa thường có vị trí hàng trăm dặm
Anh xa cách người tiêu thụ và ở Hoa Kỳ có
khi cung cấp điện cho nhiều bang khác nhau.
Ngày nay, phần lớn
điện sản xuất ở Hoa Kỳ cung cấp cho các tiện nghi địa phương -
regional utilities và người tiêu thụ
qua mạng lưới điện. Trong số 3 800 tỉ
kilowatt- giờ ( kwh ) điện sản xuất ở Hoa Kỳ vào năm 2003, chỉ có 4.1 % ( 156 tỉ kwh ) là không do các tiện nghi phát ra . 3.6% ( 135 tỉ kwh ) do các công ty công nghệ
làm ra để thõa mãn yêu cầu điện địa phương. Dần dần quang cảnh này thay đổi, vì
ưu điểm rỏ rệt của phân phối điện phát
ra. Các doanh vụ thương mãi ,các cơ sở - khách sạn , các tiện nghi của chánh
phủ … đã lựa chọn tự cung năng lượng họ cần dùng . Làm như vậy , môt độ
mềm dẽo nào đó sẽ có được và giảm
bớt tắc nghẽn mạng lưới điện và các vấn
đề chuyễn vận điện, thường gặp phải với
phân phối điện phát ra trung ương hóa,
như đã xảy ra trước đây ở Ấn Độ và nay ở Việt Nam .
( Irvine
, Nam Ca li ngày 22 tháng giêng năm 2011
)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét