Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

Công Nghệ Thông Tin


Công nghệ thông tin thế  giới tiến tới đâu rồi ?
                                        
        Cách nào  thông tin  đã trở thành  tồn trữ thông hiểu mọi điều                            
    G S Tôn Thất Trình
Một đơn vị máy siêu vi tính CRAY-3 bán 30 triệu đô la năm 1993.
Một máy vi tính xách tay hiện đại trị giá 500 đô la cũng có đại  khái cùng  số lượng  bộ nhớ.  
Tuy công nghệ thông tin ở Việt Nam chỉ mới phát triễn gần đây; chẳng hạn năm 2000 chỉ mới có lợi tức khảng 50 triệu đô la Mỹ, năm 2009 đã lên đến 880  triệu .  Theo báo cáo tháng 6  năm 2010 về ( phát triển)  Việt Nam  của Hiệp Hội Âu Châu  ( do các cố vấn Kinh tế và Thương mãi Âu Châu ), các công nghệ phần cứng , phần mềm, phần  có chứa đựng kỹ thuật số - digital content  v.v… đã tạo ra trên 200 000 công ăn việc làm cho nước nhà, tính đến đầu năm 2010. Phần cứng dùng nhiều nhân viên nhất, 110 000 nhân viên năm 2008. Tổng lợi tức ngành công nghệ thông tin đạt 6.26 tỉ năm 2009, hy vọng sẽ chiếm  17- 20% GDP tòan quốc năm 2015, mức tăng trưởng dự trù 20-25 % một năm . Vì tầm quan trọng phát triễn tương lai đất nước , có lẽ  chúng ta cũng nên biết sơ qua về tiến triển cách tồn trử thông tin, thông hiểu mọi việc trên thế giới , một khu vực liên quan đến công nghệ thông tin và điện tử ? Từ ngữ vững đến  iPhone, con người đã thử nghiệm cách tồn trữ dữ liệu từ nhiều thiên niên kỷ rồi . Ở thời kỳ cận đại, tuy vậy,  thông tin đã bắt đầu tràn lan khắp nơi trên thế giới vật lý . Sau đây là quan điểm của  James Gleick  trình bày ở Tạp chí Hoa Kỳ “ Khám phá – Discovery”  số tháng 7- 8 năm 2011.  

Trò con rối gói ghém thông tin, cách nào nhồi nhét chật ních hiểu biết vào một không gian bé tí xíu nhất, đã châm nhiên liệu cho phát triễn kỷ thuật, kể từ khi các từ ngữ Tàu trổi dậy  cách đây 8000 năm. Ở sách  mới  tên là “ Thông Tin – The Information”, nhà báo James Gleick  biện luận thông tin là “ máu và nhiên liệu, nguyên tắc sinh tử” đời sống chúng ta.  Truy nguyên sâu xa vào lịch sử  đàng sau thế giới dữ liệu thúc đẩy, Gleick thám hiểm ngôn ngữ tiếng trống  huyền bí trống mõ – talking drum Phi Châu,  mà nhịp  diệu không đều  mang theo những thông điệp tỏa suốt khắp mọi rừng rú xứ Congo.  Ông xem những khúc nhạc  như thể là bản nhạc ‘ Bàn phím Hòa trộn  Hay ho – Well Tempered Clavier”  thế kỷ thứ 18 của  Johann Sebastian  Bach  những dòng chảy dữ liệu có thể chụp bắt âm thanh  biến thiên như  tiếng gió thổi, tiếng dế rền rĩ hay tiếng xe ngựa chạy lóc cóc. Nhưng thời điểm chủ yếu cho Gleick khởi sự  thời kỳ đầy rẫy dữ liệu là năm 1948, khi nhà tóan học  Claude Shannon  ý niệm ra  bit là một đơn vị của thông tin . Công trình  Shannon vội vã đẩy chúng ta  vào dòng lũ lụt blogs, thư điện tử - e mails , túyt- tweets  và cập nhật tin tức news updates, tạo dáng đời sống hiện hửu chúng ta.

Năm 1948,  các La bô  Điện thọai hảng Bell tuyên bố phát minh ra một bán dẫn- semiconductor  điện tử nhỏ tí xíu , “ một linh kiện  đơn giản đáng ngạc nhiên” có thể làm bất cứ những gì  một ống chân không có thể làm và theo một cách hửu hiệu hơn. Đó là một mảnh thủy tinh thể, nhỏ đến nổi  một trăm mảnh có thể  nắm giữa lòng bàn tay.  Tháng năm 1948, các nhà khoa học lập ra một ủy ban,  để đặt tên nó.  Từ  Transistor  thắng cuộc định tên này. La bô Bell tuyên bố ở một giải tỏa báo chí là  “ transistor” có thể  có ý nghĩa xa xôi ở ngành  truyền thông  điện tử và điện, và ngay tức thì, thực tế đã vượt quảng cáo.  Transistor  châm ngòi cho cách mạng ở ngành điện tử, xây nền móng cho kỷ  thuật  theo lối mòn  thu nhỏ kích thước và có mặt khắp nơi.  Thế nhưng đó chỉ là   phát triễn có ý nghĩa nhất thứ hai   vào năm 1948.  Vì transistor chỉ là một phần cứng – hardware.

Một phát minh còn sâu đậm và  cơ bản hơn, cũng đi đến theo một chuyên khảo – monograph 79 trang trên sách  “Tạp chí Kỷ thuật Hệ thống Bell” tháng bảy và tháng 10 năm 1948.   Không một ai bỏ công nhìn tới . Nó mang theo một chủ đề đơn giản và to lớn: “ Lý thuyết Tóan học của Truyền thông- Communication”  và  tóm tắt lại thông điệp quá khó khăn.  Nhưng đây là một bản tựa và quanh bản, thế giới  bắt đầu xoay trở đường. Tương tự transistor,  phát triễn này cũng liên quan đến một từ mới tạo - neologism. Đó là từ ngữ  bit,  được lựa chọn không phải của một ủy Ban  mà chỉ do một tác giả duy nhất, tên gọi Claude Shannon, 32 tuổi.  Từ bít nay nối gót ngón Anh -inch , cân Anh – pound , phần tư ga lông hay gần 1 lít – quartbộ ( phút – minute) – foot,  hầu qui định số lượng, nghĩa là  một đo lường  cơ bản. Nhưng đo lường cái gì đây ?  Shannon viết: “ một đơn vị đo lường thông tin,  làm  như có điều đó, nghĩa là đo lường và  định lượng thông tin.

Năm 1949, khi Claude Shannon lấy một tờ giấy  và vẽ ra bằng bút chì sơ đồ những đo lường thông tin, thang kích thước  từ 10 bits đến trăm, đến ngàn, triệu, tỉ và ngàn tỉ bits.  Lúc đó  transistor mới lên một ( tuổi )   và định luật Moore chưa ra đời. Ở chóp kim tự tháp  thông tin Shannon  là ước lượng của Shannon về  Thư viện Quốc Hội ( Mỹ ), khỏang 10 ngàn tỉ - trillion bits, 1014bits.  Ông tính gần đúng, nhưng kim tự tháp tiếp tục tăng trưởng.

Sau đó bits trở thành kilobits, một cách tự nhiên. Xét cho cùng, các kỷ sư đã tạo ra từ kilobuck,  ý nghĩ  đường tắt  của nhà khoa học  gọi “ một ngàn đô la Mỹ”, Nhật báo New York Times giúp giải thích năm 1951.  Đo lường  thông tin leo   cao một thang lũy thừa -  exponential scale, khi  ý thức bừng dậy vào thập niên 1960  là mọi điều   liên quan đến thông tin, nay đều phải  tăng trưởng lũy thừa.  Ý nghĩa này được Gordon Moore biểu hiện thản nhiên: Moore  là một sinh viên cử nhân hóa học  khi Shannnon vẽ ra sơ đồ, rồi Moore tiến vào  ngành công nghệ điện tử  và phát triễn các mạch vòng hội nhập - integrated circuits.  Năm 1965 , 3 năm  trước khi Moore  thành lập   tổ hợp Intel Corporation, Moore khiêm nhường gợi ý là trong vòng 10 năm, vào năm 1975, chúng ta có thể đủ khả năng phối hợp  65 000 transistors  vào một dấu xi – wafer silicon . Ông tiên đóan  là   số bộ phận  có thể  gói vào một chip có thể tăng gấp đôi mỗi năm  hay mỗi 2 năm , rồi thì sau đó tăng gấp đôi  mọi lọai  khả năng bộ nhớ - memory capacity  và tốc độ xử lý – processing speed , bớt phân nữa kích thước và phí tổn, tuồng như  không bao giờ chấm dứt cả .

Kilobits có thể dùng để  biểu hiện  tốc độ truyền đi cũng như số lượng tồn trữ. Từ năm 1972 doanh nghiệp đã có thể giải tỏa  các đường cao tốc mang theo dữ liệu mau lẹ khỏang 240 kilobit một giây đồng hồ.  Theo chân IBM dẫn đạo, mà phần cứng điển hình xử lý  thông tin  theo từng khúc nhỏ  8 bits , các kỷ sư mau lẹ  chấp nhận đơn vị hơi kỳ quặc một tí  và cận đại , đơn vị byteBits và bytes.  Một kilobyte, như vậy là  8 000 bits ; một megabyte  là 8 triệu bits.  Theo thứ tự  của các ủy ban tiêu chuẩn quốc tế, mega – đưa tới  giga- , tera- , peta- và exa- , chiếu theo ngôn ngữ Hy Lạp, tuy nhiên mỗi ngày mỗi ít trung thành  ngôn ngữ hơn. Thế là đủ cho mọi điều  đã đo lường, mãi cho đến năm 1991,  khi cần thiết xét đến zettabytes ( 10 21,  21 con số không-  zêrô sau số 1 ) và đôi khi bất ngờ nói đến  zottabytes  âm thanh vũ trụ ( 1 và 24 con số zêrô ).  Leo thang lũy thừa  này, thông tin  để lại đằng sau xa  mọi  cách thức đo lường khác.  Chẳng hạn, tiền bạc sẽ rất hiếm, ít ỏi khi so sánh với thông tin.

Sau kilobucks, cũng có megabucks và gigabucks và dân gian có thể đùa dỡn với lạm phát để đi tới  terabucks , nhưng tất cả của cải mọi thế hệ nhân lọai đã thu hút  chưa bao giờ tới một petabucks cả .
Thập niên 1970 là  10 năm của  megabytes. Mùa hè năm 1970,  IBM tung ra hai kiểu mẩu – models  computer mới có nhiều bộ nhớ hơn  bao giờ hết thảy:  Model 155 với 768  000 bytes bộ nhớ  và Model  165 lớn hơn   có đủ một megabyte, trong một phòng lớn. Một phòng chứa máy tính trung ương- mainframe  có thể mua với giá trên 4 triệu rưỡi đô la ( 4 674 160 $ ). Chúng tôi vẫn còn nhớ đến phòng chứa máy tính điện tóan trung ương IBM, đồ sộ ồn ào,  Hoa Kỳ mua cho Tổng Nha Ngân Sách Ngọai viện Miền Nam Việt Nam  giữa thập niên 1960, đầu thập niên 1970 .   

Năm 1982, hảng Prime Computer  đã bán ở thị trường bộ nhớ một megabyte trong một bảng mạch vòng duy nhất, giá chỉ còn 36 000$ .  Khi các nhà xuất bản tự điển Oxford English Dictionary bắt đầu kỷ thuật hóa mọi chứa đựng vào năm 1987  ( sử dụng 1 20 người đánh máy  và  máy tính trung ương của IBM ), họ ước lượng kích thước là một gigabytes.  Một gigabytes cũng  được chứa đựng ở tòan thể hệ gen người.  Như vậy một ngàn hệ gen sẽ làm đầy một terabytes. Một terabytes là số lượng đĩa tồn trử  Larry Page và Sergey Brin  dùng để  thu gọp lại với nhau, qua sự  giúp đở  của trải rộng 15 000 $  thẻ tín dụng  cá nhân của hai người năm 1998, khi đang là sinh viên  cao học viện  đại học  Stanford, họ xây dựng một kiểu mẩu đầu tiên động cơ truy cập – search engine, trước tiên họ gọi là  BackRub và sau đó đổi tên là Google.  Một terabyte là một  chứa đựng  dữ liệu điển hình  cho một trạm ti vi analog truyền hình mỗi ngày và cũng là kích thước  của căn cứ dữ liệu  của chính phủ liên bang Hoa Kỳ  về môn bài tác quyền – patents  và ghi sổ thương hiệu -trademark records , khi chúng  đi vào đường dây trực tuyến – online,  năm  1998. Đến năm 2010, ai đó có thể mua  một ổ đĩa  cứng  một terabytes giá 100 đô la  và nắm ổ đĩa trong lòng  bàn tay. Sách thư viện Quốc Hội  có chừng 10 terabytes  ( như Shannon dự tính )  và con số này nhiều lần lớn hơn nữa, nếu chứa thêm  hình ảnh và thu thập luôn cả âm nhạc. Thư viện nay lưu trữ luôn cả các  vị trí trang Web. Đến tháng 2 năm 2010,  Thư viện đã thu thập được   160 terabytes có giá trị .

 Khi xe lữa lao vung vút đến phía trước, đôi khi hành khách trên tàu cảm thấy không gian  vẽ rút gọn lại theo luật viễn cận cảm giác họ về chính lịch sử họ.  Nhà khoa học computer  Jaron Lanier mô tả  cảm giác như sau :  “giống như khi bạn qùi gối trồng hột một cây  và cây mọc mau lẹ quá đổi đến nổi nuốt lốn luôn cả thị trấn của bạn trước khi bạn đứng dậy được.”

Một ẩn dụ thân thuộc hơn  là đám mây – cloud.  Mọi thông tin – mọi  khả năng thông tin,  hiện ra mập mờ trước mắt chúng ta , không hòan tòan nhìn thấy được, không hòan tòan sờ mó được,  nhưng hết sức thực tế ; không hình thù nhất định , bóng ma;  chập chờn gần đó  ,nhưng không đứng yên  ở bất cứ một chỗ nào cả.  Các tín đồ  đã có một lần tin Thiên Đường theo kiểu này !  Dân gian nói về chuyễn đổi đời sống qua đám mây, ít nhất là đờisống thông tin của họ. Bạn có thể tồn trữ hình chụp ở đám mây. , Google sẽ xử lý doanh vụ bạn  ở đám mây; Google sẽ đặt mọi sách vở thế giới  vào đám mây,  thư điện ử đi qua đi lại từ đám mây và không bao giờ thật sự rời đám mây. Mọi ý nghĩ cỗ truyền về riêng tư, căn cứ trên cửa ngỏ và khóa kín, vô hình xa xôi vật lý học, thảy đều đứng thẳng dậy trong đám mây.

 Tiền bạc cũng sống trong đám mây  những hình dạng xưa là những  di tích  của hiểu biết về  ai có những gì,  của cải của ai.  Đối với thế kỷ 21, những điều này có thể xem là sai niên đại – anachronisms, cỗ lỗ sĩ hay lố bịch: nén vàng ( nén bạc )  chở từ bờ biển này đến bờ biển nọ trên tàu dễ vỡ, bị cướp biển tống tiền  và thiên thần Poseidon ; đồng tiền  kim lọai  thảy từ xa  của xe ô tô đang chạy  vào giỏ  ở xa lộ trả tiền, sau đó được xe vận tải chở đi ( ngày nay  lịch sử xe ô tô của bạn cũng ở đám mây ) ; các ngân phiếu bằng giấy  xé từ  tập và ký bằng mực, vé xe lữa, thành tích ,   vé máy bay  và mọi điều  in trên giấy  đục lỗ nặng kí với dấu ghi mực nước , ảnh chụp giao thoa laser,  hay sợi hùynh quang,  và sắp gần đây  mọi dạng tiền mặt.  Kinh tế  thế giới  đang  thực hiện trong đám mây ! Khía cạnh vật lý học của nó  không thể ít giống đám mây  nữa rồi.  Các nông trại cống hiến dịch vụ - server farms  tràn lan  khắp  mọi xây cất gạch không dấu  và những phức tạp thép, với cửa sổ xông khói hay không có cửa sổ, hàng  dặm Anh  sàn  hỗng lỏng ruột,  các máy phát điện chạy diesel ,các tháp làm nguội lạnh, các quạt máy 7 bộ Anh  và các lò ống khói bằng nhom. Hạ tầng cơ cấu che dấu này  tăng trưởng cọng sinh  với  hạ tầng cơ sở điện  mỗi lúc mỗi giống nhau. Đã có những nhà chuyễn hướng thông tin- information switchers, những  trung tâm kiểm sóat  và các trạm phụ.  Chúng được tập hợp lại thành cụm  và được phân phối.

 Cũng có những hệ thống truyền lực bằng răng cưa – wheelworks ; đám mây là hóa thân chúng – their avatar. Thông tin  nhân lọai sản xuất và tiêu thụ  thường tan biến, đó là  qui tắc, là  việc bỏ cuộc. Cái nhìn, âm thanh , bài ca, từ ngữ nói ra  nung chảy mất đi. Dấu  trên đá, bản viết trên da  và giấy là những ca -  những trường hợp đặc biệt.  Vụ này không xảy ra cho cử tọa  Sophocles có thể  buồn bả khi  các màn kịch của ông mất đi,  vì họ sẽ thưởng thức  trình diễn. Nay hòai vọng đã ngược lại. Mọi điều đều  có thể được ghi chép và  bảo quản, ít nhất theo tiềm năng: mọi thành tích âm nhạc, mọi tội ác  trong tiệm, thang máy  hay trên đường phố thị trấn, mọi hỏa diệm sơn hay mọi sóng thần  tại một bờ biển xa vời, mọi con bài  chơi hay mọi  vật di dời trên trò chơi trực tuyến, mọi dành banh bầu dục – rugby scrum và trạn đấu cricket .

Có máy chụp hình cầm tay  là bình thường, không phải là phi thường. Hình như có đến 500 tỉ hình ảnh  được chụp năm 2010. You Tube bắt theo dòng  hơn một tỉ  viđêô một ngày . Đa số điều này là tình cờ và không tổ chức, nhưng cũng có ca thái cực. Nhà tiền phong computer  Gordon Bell, tuổi lớp 70  ở  Khảo cứu Microsoft, bắt đầu ghi chép mỗi thời điểm trong ngày  ông còn sống , mỗi cuộc nói chuyện, thông điệp, tài liệu, một megabytes một giờ hay một gigabytes một tháng,  ông đeo ở cổ  cái ông gọi là “ Sensecam – Máy chụp Cảm giác”  hầu tạo ra một “ Life Log – Sổ nhật ký Đời sống” của ông. Vậy chớ nó chấm dứt lúc nào ?  Chắc chắn là không ởThư viện Quốc hội.

 Cuối cùng  thật là tự nhiên, không tránh được để hỏi xem là vũ trụ  có bao nhiêu thông tin . Đó là hậu quả  câu nói của Charles Babbage và Edgar Allan Poe “ không có ý nghĩ nào  có thể tiêu tan cả” .  Seth Lloyd làm tính tóan . Ông có khuôn mặt tròn như trăng rằm, là một kỷ sư   hạt lượng – quantum engineer đeo kính thuộc viện đại học MIT, một lý thuyết gia và nhà họa kiểu các máy computer hạt lượng. Nhờ hiện diện, vũ trụ đăng ký thông tin, theo lời ông. Tiến trào đúng thời gian,  vũ trụ đã xử lý thông tin.  Bao nhiêu ?   Để hình dung điều này, Lloyd chú  tâm vào  họat động computer chạy mau lẹ cách nào  và máy đã họat động bao lâu . Vì chưng  giới hạn cơ bản  trên tốc độ và trên không gian bộ nhớ, song song với tốc độ ánh sáng  và tuổi tác  của vũ trụ   từ lúc “Nỗ  Vang – Big Bang” , Lloyd  tính ra rằng  vũ trụ đã thực hiện  một điều như thể  thứ tự  10120 ( 120 con số zêrô sau số 1)  “ ops- bài tóan ”  suốt  tòan thể lịch sử mình . Cứu xét “ mỗi độ tự do  của mỗi hạt tử trong vũ trụ” ,  nó có thể bây giờ nắm giữ đến chừng 1090 ( 90  con số zero sau số 1 ) bits.  Và đang đếm tiếp !                                                                                                                                                      

( Irvine bang  Ca li,  ngày 15 tháng sáu năm 2011 )





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét