Thử
tìm hiểu hơn nữa một tỉnh miền
Đông Nam Bộ ( Phần ), phụ cận thành phố Sài Gòn, Việt Nam chỉ mới chánh thức đặt nền cai trị thống thuộc nước
nhà trên 320 năm , ở một xứ đồng hoang vu nhiều nai- Lộc Dã, nhiều thú dữ,
cách đây trên 400 năm chỉ có vài hay vài trăm nóc nhà ; nay riêng một tỉnh lấy
tên địa danh Đồng Nai xưa cũ đã có trên
2 triệu rưỡi người dân Việt cư trú :
Lạm bàn phát triển tỉnh Đồng
Nai – Biên Hòa
“ … Trước
kia , việc dùng binh chẳng qua là để giết bọn cừ khôi, và mở mang thêm đất đai … Nhưng từ đồn
binh Gia Định đến La Bích ( thủ đô Chân
Lạp lúc đó ), đường xá xa xôi , nghìn
trùng muôn thác không tiện đuổi ( Nặc Nguyên ). Muốn mở mang đất đai, cũng nên lấy hai phủ này, Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Gò Công và Tân An ngày nay), trước để củng cố
mặt sau của hai dinh ( Trấn Biên , Phiên Trấn). Trước kia, mở mang phủ Gia
Định, tất phải mở trước đất Hưng Phước,
rồi đến đất Đồng Nai, khiến quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến Sài Côn . Đó
là kế “ tầm ăn lá dâu” …
(Tờ
trình năm 1753 của Nguyễn Cư Trinh lên chúa
Vỏ Nguyễn Phước Khóat )
Địa lý , Hành chánh
Tỉnh Đồng Nai, thời đệ nhất Cộng Hòa gồm ba tỉnh
Biên Hòa, Long Khánh và Phước Thành …, nhập lại, nhưng nay diện tích chỉ còn là 5903
km2 (hay 2279 dặm Anh vuông ) vì tháng 5 năm 1979, Đồng Nai mất đi
một phần đất Ô Cấp hay Vũng Tàu ( Cap Saint
Jacques ) để thành lập đặc khu Vũng Tàu. Đặc khu Vũng Tàu , nguyên là tỉnh
Phước Tuy, nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cũng lấy luôn cả
các đảo Côn Đảo, trước thuộc Hậu Giang. Thị xã tỉnh Đồng Nai là Biên Hòa. Bắc
giáp Lâm Đồng, Đông giáp Bình Thuận,
Nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây
giáp hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước và
thành phố Sài Gòn ( TP Hồ chí Minh ).
Tỉnh lỵ Biên Hòa nằm vào khỏang vĩ tuyến
1107’ Bắc và kinh tuyến 1070 Đông, cách Sài
Gòn 32 km ( 20 dặm Anh ) về phía Đông
nối liền nhau bằng quốc lộ số1;
cách Hà Nội 1684 Km cũng theo quốc lộ số1, cách Đà Lạt 278 km, cách Vũng Tàu 95 km, cách Cần Thơ 198 km . Xe
Lữa Tốc Hành Thống Nhất - Express Train Hà Nội- Sài Gòn, ngưng ở Biên
Hòa.
Tỉnh Đồng Nai hiện nay gồm 10
quận: Cẫm Mỹ, Định Quán, Long Khánh, Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Phú, Thống
Nhất, Trảng Bom, Vĩnh Cửu và Xuân Lộc. Dân số năm 1995 là 1884 800 người, năm
1999 là 1989500 người, năm 2004 là 2174 600 người, năm 2009 là 2 483221 người. Đa số là tộc dân Kinh, một số
nhỏ là các tộc dân gốc Hoa , X(s)tiêng, Cho Ro ( Mạ, tập trung ở quận Định Quán
), Tày, Nùng, Chàm … Dân số thị xã Biên
Hòa, năm 1989, đã trên 300 000 người, năm 2005 tăng lên đến 541 495 người, năm 2007
ước lượng là 604 458 người và năm 2010 có lẽ
đã gần 680 000 - 700 000 người.
Đôi chút Xuôi dòng lịch sử
Đồng Nai xứ sở lạ lùng,
Dưới sông sấu lội , trên bờ cọp um
Ca
Dao miền Nam
Trước khi hình thành và phát
triễn Nam Kỳ Lục Tỉnh, vùng đất hoang vu này, từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ thứ
7, thuộc về vương quốc Phù Nam, bao gồm một vùng đất bao la trải dài từ lưu vực sông Cửu Long đến sông Mênam ( Thái
Lan tên mới của Xiêm La từ năm 1939 ) xuống tận các đảo Mã lai ( Lâm Văn Bé, Dòng Việt số 17 năm 2005 ). Tháng
11 năm 1998, ở làng Phú Mỹ huyện Cát
Tiên ( Công viên Quốc Gia Cát Tiên thiết lập tháng 12 năm 1998, gồm ba công viên cũ là Nam Cát Tiên, Bắc Cát Tiên và Cát Lộc, nằm
trong địa hạt của 3 tỉnh: Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước) khám phá ra một ngôi làng cỗ, tuổi đã 2500- 3000 năm. Đây là một phức tạp di tích gồm đền
đài, tháp và rất nhiều di vật tiền sử,
chứng tỏ có sự lẫn lộn của một văn hóa
Phù Nam, (sau này gọi là văn hóa Khmer,
ta gọi là Chân Lạp ) hay có thể là một văn hóa khác ( ? ) ở miền Nam và văn hóa Champa. Trong số di vật có nhiều
tượng thờ như Linga – Yoni, những vật liệu linh thiêng thờ cúng, dùng
các bộ phận sinh dục con người làm biểu tượng.
Có một Linga cao 2.1 m
là một di vật lọai này lớn nhất
thế giới. Ngòai ra còn nhiều dấu
tích khác chứng tỏ Cát Tiên cũng có thể
là một thánh địa của Vương Quốc Phù Nam , xây dựng cách đây 2000 năm. Thật ra dưới thời Pháp thuộc, lưu vực sông Đồng Nai với các địa điểm như cù lao Rùa, Cù Lao
Phố, bến Đò… đã được các nhà khảo cỗ ( Cartailahac 1888, Grossin 1902, Loesh 1909, Barthère và
Ripelin 1911, Malleret và Jansé 1937) …
khai quật nhiều lần, nhiều nơi, tìm được hàng ngàn cỗ vật như búa rìu bằng
đá, bằng đồng, sắt, xương sọ, dụng cụ đá mài nhẵn … chứng tỏ rằng lưu vực sông
Đồng Nai đã có người cư ngụ 4000 – 2500 năm
nay rồi, không có lịch sử, không chữ
viết ghi chép, nên họ là người tiền sử. Trước thời vương quốc Phù Nam, họ là
những con người tiền phong đến khai thác hạ lưu sông Đồng Nai, tạo ra một nền
văn minh hái lượm, làm ruộng nước nữa ( Theo Hứa Hòanh, Tập san Đi Tới, số 69 và 70, năm 2003 )
.
Năm 1620, vua Chen Chetta II đến Thuận Hóa xin cầu hôn với công nương (
danh hiệu công chúa là sau khi các chúa
đã mất, được truy phong hòang đế ) Ngọc Vạn
( khi trở thành hòang hậu tên là
Ang Cuv hay Đam Sát ), con chúa
Sải Nguyễn Phước Nguyên. Chúa Nguyễn lợi dụng việc gả con gái này đưa người
Việt đi vào lập nghiệp ở vùng đất Phù Nam cũ ở hạ lưu sông Đồng Nai, trên danh
nghĩa là đất Chân Lạp, nhưng trong thực tế
là đất vô chủ, bởi lẽ từ nhiều thế kỷ, vì sự suy yếu nội bộ, vì chiến tranh liên tiếp với Xiêm La,
vùng đất này hòan toàn hoang vu, không có guồng máy cai trị của Chân Lạp. Trước
khi người Việt đến, vùng này chỉ có vài mươi nóc nhà
người Miên- Môn, theo nhà văn quê quán Biên Hòa Bình Nguyên Lộc còn có
thể cả người tộc dân Mạ, hay có thể cả tộc
dân Cho Ro, tộc dân X-(S)tiêng ( GiẻTriêng ? ),cả ba thuộc họ Nam Á , ngôn ngữ
thuộc hệ Môn Miên ( Khmer) vì ảnh hưởng
xưa cũ của hai nước Phù Nam và Chân Lạp. Nguyễn Cư Trinh gọi chung là Côn Man (
Côn Miên), ở trên các gò cao sâu trong rừng vùng Preikor ( Sài Gòn ),
sống biệt lập với người Miên ở vương
triều. Năm 1623, Chúa Sải cho đặt hai trạm thu thuế ở Prei Nokor ( Sài Gòn, nay ở khỏang quận 5 và
Kas Krobei ( Bến Nghé, nay ở khỏang quận 1). Trịnh Hoài Đức cũng xác nhận trong
Gia Định Thành Thống Chí là dân các tỉnh phía Bắc xứ Đàng Trong đã vô
Mô Xòai từ đời các Tiên hoàng đế Nguyễn Hòang 1558- 1613, Nguyễn Phước
Nguyên ( 1613- 1635 ). Sử ghi là
năm 1665, có độ 1000 người Việt
vào lập nghiệp ở vùng đất mới này ( cũng theo Lâm Văn Bé, Dòng Việt 2005 ).
Lúc này, nhà Minh bên Tàu cũng
đang mất nước cho Mãn Thanh, các chiến
sĩ Minh ưu tú phẩn uất bỏ đi tìm độc lập
tự do, ngòai thế lực kẻ thù. Năm 1679, Trấn thủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địch
với Phó Tổng Binh Hòang ( Hùynh ) Tiến, Tổng binh châu Cao, châu Lôi, châu Liêm
là Trần Thượng Xuyên, Phó Tổng Binh là
Trần An Bình đem 3000 quân và 50 chiến thuyền chạy thẳng vào của Tư Hiền
( Tư Dung ) và Đà Nẳng muốn đến xin làm
thần dân chúa Nguyễn. Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần dung nạp bọn họ, cho bọn Dương Ngạn Địch ở Mỹ
Tho, Trần Thượng Xuyên vào cửa biển Cần Giờ, định cư ở Bàn Lân xứ Đồng Nai, Cù Lao Phố Biên Hòa, khai khẩn
và lập phố phường buôn bán: thuyền buôn của người Thanh và các nước phương Tây,
Nhật Bản, Java ( Nam Dương ) đi lại
thông thương , phồn thịnh. Cù Lao Phố nằm phía Đông tỉnh lỵ Biên Hòa, tên cũ là
Đông Phố. Người Tàu không phát âm được chữ Đ của Đồng Nai nên gọi là “ Nông Nại
đại phố”, nhưng thế kỷ trước còn có tên là “ cù châu”. Cù châu không có nghĩa là cù lao, nhưng lúc
bấy giờ dân gian người Việt tin rằng
phía dưới cù lao có con hoa cù
tức con rồng có sừng, do đó mới gọi là là cù châu. Như vậy có nghĩa là người
Việt đã đến định cư ở đây, vì chính Điều Khiễn
Nguyễn hửu Dõan , năm 1748, dụng binh ở Chân Lạp, thấy đất phủ Gia Định phần nhiều là đất bùn lầy chưa có đường bộ
nên sai đắp một con đường thẳng từ phía Bắc Cầu Sơn đến Mỗi Xuy ( Bà Rịa ngày nay ) gọi tên là
“Thiên Lý Cù” - đường ngàn dặm con rồng có sừng rong ruổi tiến mở mang đất nước), tiền thân của đường số 51 Bà Rịa- Biên Hòa ngày nay ? Đó chỉ mới là thiên lý cù phía bắc đến năm Gia
Long thứ 14 , năm 1815 mới đắp thiên lý cù phía Tây , tiền thân của đường số 22 Biên Hòa –
Gia Định – Trảng Bàng- Gò Dầu- Mộc Bài hay Gò Dầu- Xa Mát – Tây Ninh ở Việt Nam , nối dài quốc lộ số 1 Căm Bốt từ Svay Riêng lên đến Nam Vang ( Phnom Penh ) ? Người Hoa (Tàu ) hay Minh Hương tập trung ở cù
lao Phố lập thành làng Thanh Hà, chuyên
nghề thương mãi. Cù lao Phố là đô thị người Hoa đầu tiên ở Việt Nam phát triễn liên tục trên nữa thế kỷ, đóng một
vai trò quan trọng xuất nhập cảng cho xứ Đồng Nai. Địa danh Cát
Lái, đáng lý phải gọi là “ Các Lái “ để chỉ danh một bến đò, một chỗ họp chợ của người buôn bán sĩ, các ghe thương hồ chở
chén đĩa, lu hũ , đá tán kê nhà, cối xay bột… đưa về miền Tây, đồng bằng
Sông Cửu Long. Hơn 60 năm thành lập, Nông Nại đại phố sầm uất hơn bao giờ
hết. Nhưng năm 1747, đánh dấu một biến cố lớn cho cù lao Phố. Một
tên cầm đầu bọn khách thương người Phúc Kiến là Lý Văn Quảng, dậy lòng tham
cùng 300 đồng đảng tự xưng là “ Nông Nại
đại phố vương” định chiếm Nông Nại, tổ chức như một triều đình, mở cuộc
đánh úp dinh Trấn Biên, hạ sát trấn thủ dinh là Khâm sai đại thần , Cẩn Thành
Hầu Nguyễn Cao Cẩn. Phó tướng dinh Trấn Biên là Lưu thủ Cường, tước Cường
Oai Hầu, rút ván cầu “ Chợ Đồn” bắc ngang
giữa cù lao Phố và đồn canh bờ sông, cố thủ. Chúa Vỏ được tin cấp báo, sai Cai cơ Tống Phúc
Đại, tước Đại Thắng Hầu, đang đóng ở Mô
Xòai, đem binh cứu viện. Tống Phước Đại
bắt được Lý Văn Quảng cùng đồng
bọn là 57 người. Lớp còn lại bỏ trốn vào
rừng hay theo sông Đồng Nai xuống Tân
Bình. Nông nại đại phố phục hồi sinh lực, phát triễn thêm vài mươi năm nữa. Gần hai mươi năm sau, tàn
quân rã ngũ có hai tên là Lý Tài và Tập
Đình biết vỏ nghệ, khôn ngoan, được dân du thủ du thực tôn làm anh chị,
thuộc phe Thiên địa hội “ Phản Thanh
Phục Minh”. Trước hết bọn Lý Tài, Tập Đình theo Tây Sơn. Nhưng khi
Đông cung Dương từ Quảng Nam
chạy vào Qui Nhơn, Tài và Đình đến xin
theo phò. Đang lúc sa cơ, Đông cung đải Tài và Đình như thượng khách
và khi Đông Cung tới Gia Định hợp
với quân của chúa Định , lấy hiệu là Tân
Chính vương khi chúa Định nhường ngôi, Lý Tài được phong làm đại nguyên sóai. Làm cho quân Đông Sơn do
tướng Đỗ Thành Nhơn phò tá chúa Định vào Gia Định trước Đông cung, bất
mãn. Hay tin ấy, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ kéo đại quân vào đánh, tới núi Châu
Thới bắt được Lý Tài giết ngay. Huệ đuổi theo quân Nguyễn bắt được Tân Chính Vương
ở Ba Vát, Thái Thượng Vương ở Cà Mau, đem về Sài Gòn hành hình. Nguyễn Nhạc vào Nam, khi hay tin viên hộ giá
thân tín của mình bị giết, nổi trận lôi đình, ra lịnh tàn sát tất cả người Hoa ở cù lao Phố ( vì Nhạc còn nghi thêm là người Hoa đã giúp lương
thực cho các chúa Nguyễn ). Linh mục
Castueras, có mặt tại Chợ Quán ngày 7 tháng 7 năm 1782, cho biết có gần 4000 người
bị quân Tây Sơn giết. Sử quan
nhà Nguyễn, nhất là Trịnh Hoài Đức, có thể tăng cao số nạn nhân Hoa gấp
ba lần. ( theo Hứa Hòanh ở tập san Đi Tới nói trên). Cù lao Phố bị quân Tây Sơn
phá tan hoang, khi trung hưng lại, người ta trở về, nhưng dân số không còn bằng một phần trăm lúc trước ( Theo
Đại Nam Nhất Thống Chí). Những người Hoa còn sót lại chạy về Gia Định, gầy dựng
lại cảnh Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn cù lao Phố trước ( Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển ).
Trở lại năm 1689, Chúa Minh
Nguyễn Phước Chu sai Thống Xuất Nguyễn hửu Kính ( hay Cảnh ) làm Kinh Lược xứ Đồng Nai, lúc đó có tên là Đông Phố, chia đất Đông Phố để cai trị, theo kiểu Đàng Trong.
Lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên .
Như vậy trên phương diện quân sự, quốc
phòng, gìn giữ biên cương, dinh Trấn Biên nguyên là dinh Phú Yên , nay đã tiến
xa vào Nam là Biên Hòa. Lấy xứ Sài Côn,
đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (
tức là Gia Định ). Và đặt phủ Gia Định
thống thuộc hai dinh Trấn Biên,
Phiên Trấn. Lúc này, cả hai huyện Phước
Long và Tân Bình, theo Nguyễn hửu Cảnh thống kê, đã mở rộng đất ngàn dặm, dân số hơn 4 vạn hộ ( theo Đại Nam Thực
Lực Tiền Biên, quyễn IV). Dân Việt như thế đã lên đến cả trăm nghìn người, đông
đúc hơn dân quân binh tướngTrần Thượng
Xuyên, đến xứ Đồng Nai 10 năm trước đó ).
Chúa Minh Nguyễn Phúc Trăn ( Chu )
sai chiêu mộ thêm lưu dân từ Bố
Chính trở vào Bình Thuận đến ở đây, thiết
lập xã, thôn, phường, ấp, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế tô,
thuế dung, làm bộ đinh, bộ điền (Phan Khoang ,
Việt sử xứ Đàng Trong, xuất bản
năm 1967 ).
Năm 1739, vua Chân Lạp ( Căm
Bốt ) là Nặc Nguyên, muốn chiếm lại Hà Tiên,
một di dân nhà Minh là Mạc Cửu , đồng thời với tướng Dương Ngạn Địch đã qui phục
chúa Nguyễn lảnh chức Tổng Binh Hà Tiên và con là Mạc Thiên Tích nối
nghiệp cha, phát triễn phồn thịnh Hà Tiên, trở nên vật thèm muốn của
Xiêm La và Căm Bốt. Chúa Vỏ Vương sai Nguyễn cư Trinh sang đánh vua Chân Lạp. Nặc Nguyên bỏ chạy,
xin nộp đất miền Nam Gia Định là Tầm Bôn và Lôi Lạp giảng hòa.
Năm
1768, cuộc Nam
Tiến của dân Việt Nam kể như chấm dứt. Lảnh thổ Nam
Kỳ lúc này được chia thành 3 tỉnh : tỉnh Đồng Nai bao gồm các vùng đất
miền Đông Nam Bộ, tỉnh Sài Gòn bao gồm
các vùng đất từ sông Sài Gòn đến cửa Cần Giờ
và tỉnh Long Hồ bao gồm các vùng
đất miền Tây Nam Bộ. Năm 1808, dưới thời Gia Long, Nam Kỳ được gọi là Gia Định Thành
bao gồm 5 trấn: Hà Tiên, Vĩnh Thạnh, Định Tường, Phiên An, Biên Hòa. Năm 1834, dưới thời Minh Mạng 5 trấn được biến
thành 6 tỉnh. Năm 1988 thời Pháp
thuộc, Nam Kỳ được chia ra làm 20 hạt, rồi 20 tỉnh, trong đó có tỉnh Biên Hòa. Năm
1954, Miền Nam, sau hiệp định Genève để
chỉ vùng đất Việt Nam Cộng Hòa Nam vĩ
tuyến 17, gồm 40 tỉnh trong đó vẫn còn
tỉnh Biên Hòa. Thời Đệ Nhất Cọng Hòa, vùng miền Đông Nam Phần lập thêm nhiều tỉnh nhỏ, còn ít dân, để nhận dân di cư Miền Bắc, thiết lập nhiều địa
điểm dinh điền có lõi là dân Bắc di cư,
phỏng theo phương thức dinh điền xưa cũ và kế sách tầm ăn dâu của Nguyễn Cư Trinh, kèm theo mục tiêu chiếm
giữ ( ? ) các chiến khu kháng chiến cũ ( Các chiến khu C, D, Dương Minh Châu-
Tam Gíác Sắt …) , thời Pháp chiếm đọat
lại Việt Nam- Đông Pháp, Việt Minh vẫn còn để lại hệ thống tổ chức cán bộ, những
người theo họ hay có cảm tình với họ, không đi tập kết ra Bắc. Bên cạnh tỉnh
Biên Hòa cũ, có thêm các tỉnh Long Khánh,
một phần các tỉnh Phước Thành, Bình Long, Bình Tuy …. Sau 1975, tỉnh Đồng Nai được thiết lập và Biên Hòa trở thành thị xã
tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai.
Khí
hậu, Thủy văn ( Sông ngòi )
Sông Đồng Nai |
Tỉnh Đồng Nai có những nguồn sông như
nguồn sông Ray chảy về Bà Rịa – Vũng Tàu hay nguồn sông Dinh chảy về cửa Hàm
Tân – Bình Thuận, tổng cọng là 60 sông
lớn nhỏ, kênh rạch . Nhưng hệ thống sông Đồng Nai với các nhánh lớn, bên trái là sông La Ngà ( giữa đường Biên
Hòa-Long Thành là một nhánh nhỏ là sông La Dương ), bên phải là sông Bé và nhánh nhỏ hơn hai nhánh vừa kể, chảy Thủ
Dầu Một - Bình Dương rồi đổ vào sông
Đồng Nai gần Nhà Bè , mới thật là quan trọng.
Tuy sông Đồng Nai chỉ được xem
là sông đứng hàng thứ ba ở Việt Nam, vì lưu vực trong nước chỉ là
37394 km2( lưu vực tòan bộ là
42 666 km2 ), sau sông Hồng lưu vục rộng 61 300 km2 ( tòan bộ 143 000 km2)
và sông Mê Kông ( Cửu Long trong địa
phận Việt Nam ) 71 000 km2 ( toàn bộ 795 000 km2 ), nhưng
chiều dài chảy trong nước lại đứng hạng
nhất 635 km trước sông Hồng 566 km, còn sông Cửu
Long đứng hạng 8, 230 km, sau sông Mã 410 km, sông Ba- Đà Rằng 388 km… ,
chỉ trên sông Thu Bồn hạng 9, 205km . (
Thái Công Tụng, Vietnamologica , 2005 ). Phần
sông Đồng Nai chảy qua tỉnh Đồng Nai ngày nay chỉ dài 294 Km .
Tên cũ
của sông Đồng Nai là sông Phước ( Phước ) Long , còn có tên là sông Hòa Quí.
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí ( bản dịch
của Phạm Trọng Điềm 1997 và Hòang Đỗ sưu tập 2003 ), có đôi chút địa lý không hòan tòan đúng theo phân chia hành chánh hay gọi tên ngày nay,
sông Đồng Nai bắt nguồn từ các động Man
tỉnh Bình Thuận, hợp với sông La Nha ( La Ngà ), chuyễn về phía Tây qua
núi Thần Qui đến ngã ba sông Bé bẻ về phía Đông hợp lại thành sông lớn, giữa
sông nổi Hòa, chảy xuống làm sông Đồng Môn, hợp với sông Bình Tân huyện Bình An
làm sông Phước Bình, vào phủ Phước Tuy đến sông Ngã Bảy, hợp với sông Kí huyện Long Thành và sông Hưng Phước huyện Phước
An mà ra biển ở cửa Cần Giờ. Trước Biên
Hòa cũ ( nay là Bà Rịa ) còn có sông
Lai ở phía Đông Bắc huyện Long Khánh nguồn ra từ xa Bảo Chánh chảy vào sông Xích Lam ở phía Đông huyện Phước An, chảy ra cửa biển
Xích Lam. Theo địa lý ngày nay hơn, sông
Đồng Nai bắt nguồn từ hai dòng sông nhỏ
trên Cao nguyên Lâm Viên ( Lang Biang ), cao 1500 m trên mặt biển. Nguồn phía
Tây Đà Lạt là suối ( sông ?) Đá Dựng ( Đa Đung, Đa là tên địa phương gọi sông, suối ), trên đó có đập Ankróet ở
suối Vàng. Nguồn phía Đông là sông Đa Nhim với một hồ nước nhân tạo ở Đơn Dương ( Dran) của đập thủy điện Đa Nhim, nước theo hai đường
ống khổng lồ, từ Đèo Ngọan Mục cao 1100m, đổ
xuống dưới chân đèo tại nhà máy
phát điện Krong Pha. Đa Nhim bắt nguồn
từ Nam Trường Sơn, trên Nhơn Hà, giáp giới hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa, bọc
một rặng núi có đỉnh cao 2275m, phía trên thác Prenn. Hai nguồn suối nhỏ trong
rừng sâu này chảy len lõi giữa các hốc đá, các triền núi, song song theo hướng
Bắc Nam tới địa phận quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Tới đây nguồn phía Đông đổi dòng, nhập với dòng phía Tây tạo ra sông Đồng Nai, trong địa
phận tỉnh Lâm Đồng – Bảo Lộc ( Blao ), nhưng vẫn còn ở ngòai địa phận tỉnh Đồng Nai ngày nay. Gần thị xã Bảo Lộc có thác Đăm Bri, trước đây
hoang vu vì thiếu an ninh, nay đã tu bổ sửa sang làm nơi đón khách du lịch ( và
dự trù làm thêm ở đây một đập thủy điện nữa ? ). Thác Đăm Bri tiếp tục chảy
xuống đèo Bảo Lộc tạo thành suối Tiên ở lưng chừng đèo. Rồi dòng sông tiếp tục
thêm trong sâu, vào địa phận tỉnh Đồng Nai ở
Định Quán, Kiệm Tân, Bến Nôm, Cây Gáo v.v… Giữa các làng này, dòng sông
có nhiều đá ngầm chắn nước dài khỏang 20 Km, mùa mưa dòng nước chảy xiết ầm ầm suốt ngày đêm như tiếng gọi của rừng
thẳm. Ở thượng nguồn , có nhiều thác
nước đẹp đẽ, thường do các phay ( fault
, faille ), chỗ nứt rạn, gảy sụp kẻ đất
nẽ địa chất gây ra. Như thác Gougah, thác Liên Khàng gần Đức
Trọng của sông Đa Nhim, thác Pongour hùng vĩ
cao nhất Đà Lạt do nguồn Đá Dựng
tạo ra, các thác Datanla, Prenn, Cam Ly
nhận nước hồ Than Thở , hồ Hồ Xuân Hương. Đến thác Trị An, sông Đồng Nai
mới chảy trên một địa thế tương đối bằng
phẳng, thoai thỏai từ Tây sang Đông, dòng sông khá sâu, tùy đọan, nước chảy chậm hòa hỏan, ghe tàu nhỏ đi lại
dễ dàng. Trước khi tới tỉnh lỵ Biên Hòa , sông Đồng Nai chia ra làm hai nhánh
bao bọc lấy cù lao Tân Chánh, cù lao Rùa ( hình dáng như con rùa vì có ngọn đồi
cao 17m ), cù lao Tân Triều ( có một
lọai trái bưởi “ Biên Hòa” nhỏ da màu
vàng có khi gọi là bưởi ổi, ngọt thanh nổi tiếng ). Cù lao Rùa đánh dấu một giai đọan
phát triễn văn hóa của lưu vực sông Đồng Nai, còn ghi đậm trong tiến
trình các thời tiền sử và lịch sử. Chính tại cù lao Rùa, các nhà khảo cỗ đã
khai quật nhiều di tích tiền sử với hàng ngàn cỗ vật thời kỳ đồ đá mới, đang bước qua sơ kỳ đồ đồng
và đồ sắt, đã nói qua ở trên. Cho nên có
nhiều câu hỏi cho rằng có phải chính họ
đã tiến xuống Nam , chứ không phải ngược lại, tạo ra nền văn minh vương quốc Phù Nam . mà cảng Ốc
Eo gần chân núi Ba Thê, biên giới hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, trước khi bị
phù sa bồi đắp xa hẳn biển Tây, là thị trấn đầu tiên của bán đảo Đông Dương
tiếp xúc với văn minh Hy Lạp, La Mã ?
Sông La Ngà là nhánh lớn bên trái của sông Đồng Nai, bắt nguồn ở cao
nguyên Di Linh -Lâm Đồng, cao 1600m. Trước
đập Trị An cách tỉnh lỵ Biên Hòa 50 Km, là đập thủy điện lớn nhất miền Nam
, trên sông Đồng Nai, sông La Ngà đổ vào
hồ La Ngà, nay là một thành phần của hồ Trị An. Còn phía thượng lưu thì ngòai
các đập thủy điện ( Hàm Thuận, Đa Mi …), sông La Ngà còn có công dụng cấp nước cho các huyện tỉnh Bình Thuận ( Đức
Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận… ) và tăng
nước cho thủy điện Trị An vào mùa khô.
Sông Bé là nhánh lớn bên phải
của sông Đồng Nai, cũng bắt nguồn từ cao nguyên M’Nong – Đắc Nông chảy qua tỉnh Bình Phước ( thời Cộng Hòa là
hai tỉnh Bình Long và Phước Long ), chiều dài
khỏang 360 km, rồi đổ vào sông Đồng Nai ở phía dưới thác Trị An.
Sông Sài Gòn, phần lớn chảy
qua tỉnh Bình Dương và đổ vào sông Đồng Nai ở
gần Nhà Bè. Khúc sông Nhà Bè này có một dòng thóat lưu tách ra gọi là
sông Lòng Tảo , chảy ra Biển Đông ở cửa Sòai Rạp thuộc địa phận Thành Phố Sài
Gòn (TP HCM ). Còn tả ngạn dòng sông Đồng Nai- Sài Gòn ở huyện Nhơn
Trạch ( ? ) bọc phía Bắc rừng sác Cần Giờ mới là ranh giới tỉnh Đồng Nai?
Địa hình, đất đai
Như vừa tả sơ qua, địa hình tỉnh Đồng Nai gồm cả thung lũng, đất thấp đồng bằng và đồi
núi. Tỉnh Đồng Nai gồm hai hòn núi nhô
lên là núi Châu Thới gần Biên Hòa
và núi
Chứa Chan ( dân địa phương gọi là
núi Gia Ray), cao 859 m gần Xuân Lộc. Núi Châu Thới ngày nay không còn nữa, bị san
phẳng lấy đá tán nhỏ trải đá trộn lẫn cát, nhựa đường… theo kỷ thuật mới, hot
nick ( ?) hảng thầu Mỹ RMK áp dụng, làm xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa thời đệ
nhất Cộng Hòa ( ? ). Cuối thời kỳ Pleistocen, cách nay chừng 50 000 năm, tỉnh Đồng Nai cũng như miền Đông Nam
Phần và đồng bằng sông Cửu Long còn chìm
trong biển cả. Về đệ tứ kỷ, phía Đông
đồng bằng này, khối móng đá gốc thời ky địa chất Trung Sinh ( Mesozoique ) được
nâng lên cùng lúc với các rặng núi phía Nam Trung bộ chừng 6000 năm nay vào thời kỳ Holocen
muộn ( thời kỳ Holocen khởi đầu 10 000
năm trước Công Nguyên. Cùng lúc với sự
nâng lên thì macma bazan hỏa diệm sơn cũng phun lên, vào tuổi Pleistocen muộn –
holocen sớm, bao phủ các phù sa bên trên khối móng đá gốc Trung Sinh. Lớp phù sa cỗ
sinh cũng như các phún thạch bao phủ lớp này rất rộng, lan đến phía Kratié- Kompongcham, Căm Bốt. Như chúng
ta đã biết, phần phía Tây bị lún xuống tạo ra một vịnh biển: phù sa sông Cửu Long
bồi đắp trên vịnh biển, với sự rút lui
của mực nước biển để tạo thành
châu thổ sông Cửu Long ngày nay.
Đất đai tỉnh Đồng Nai thuộc hai nhóm
chánh là đất xám Acrisols : hoặc bạc
màu trên phù sa cổ - Haplic Acrisols , phẩu diện thường có phân tầng rỏ rệt
theo màu sắc loang lỗ đỏ vàng xen lẫn các ổ kao lanh trắng, hàm
lượng hửu cơ và các chất dinh dưỡng
thấphoặc đất xám gley- gleyish Acrisols vùng gò đồi, acid, nghèo hửu cơ
, nghèo dưỡng liệu ; và nhóm đất nâu đỏ trên
đá basan, gọi là đất ferralit hay đất latosol
nâu nhóm ferrasols theo phân lọai
FAO. Đất latosols này thường gặp nhiều ở
Xuân Lộc và Gia Kiệm . Đất ferrasols phì
nhiêu hơn đất xám, sức giữ nước tốt hơn.
Ngoài hai nhóm chánh này còn có thể gặp đất feralit vàng
hay đỏ vàng – Ferralic Acrisols, địa hình, độ dốc và cao độ khác
nhau, có phản ứng chua, tầng đất mỏng dễ bị hiện tượng xói mòn; đất feralit nâu vàng trên phù sa cổ có kết von và đá ong, sâu 20 – 30cm là đã gặp tầng đá ong ( đá ong
“Laterit Biên Hòa”) có lớp cuội tròn nhẵn kích thước khác nhau, chứng tỏ
dấu vết của phù sa cỗ, hàm lượng dinh
dưỡng thấp có đá ong kết von, nhưng vì
đất ở địa hình thấp dễ tưới nước, nên cũng có thể trồng được nhiều lọai cây lương thực và cây ăn trái;
đất đen trên đá basan tên khoa học là Luvisols, rất phì
nhiêu nhờ khả năng trao đổi cation và độ
bazờ rất cao, và đặc biệt là các đất phù sa- fluvisols ven
các dòng sông Đồng Nai, La Ngà , Sài Gòn…
Danh
lam, Thắng cảnh
Thắng cảnh thiên nhiên đáng kể ra trước nhất là phong
cảnh hữu tình dọc theo sông Đồng Nai mà thượng nguồn ở Tây Nguyên dài hơn 480 km, gần gấp đôi dòng sông chảy ở địa phận
tỉnh nhà. Hai bên bờ sông đều có nhiều
làng xinh đẹp. Xung quanh vẫn còn nhiều động vật và thực vật đặc hửu ( cẩm lai Đồng Nai, gõ đỏ - gà te, bằng lăng…
), phong phú . Dân chúng vùng núi Bửu
Long khi lớn lên đã nhận ra ngay hai cù lao Rùa và cù lao Tân Triều sừng sửng
trước mặt. Đứng bên này dòng sông, dẫu
các cù lao không mấy xa xôi, nhưng không có chiếc cầu nào bắc sang cả. Chỉ có
những chiếc đò chèo chậm chạp chở người dân quê nặng ân tình, nối đôi bờ bến nước. Những buổi trưa hè con đò uể ỏai im lìm nằm đợi khách trên bến vắng ( Theo mô tả của Hứa Hòanh, tạp chí
Đi Tới , 2003 ). Nay thì đã có những chuyến tàu thủy dạo sông những khúc không
có đá ngầm, giao thông được. Không rỏ nay đã có cầu nào bắc qua các cù lao
chưa, vì hệ thống đường xá tỉnh nay đã dài hơn 3339 km, và 100 % đường làng, xe
hơi đều tới được trung tâm. Cũng như nhiều nơi khác, đây là
phần đất quê hương từ năm 1945 đến đầu thập niên 1990 , khi thì hiền hòa êm ả,
khi thì lữa khói ngập trời. Dân gian chia rẽ thành hai phe
chống đối giết lẫn nhau vô lối, một bên với súng ống Nga - Tàu , một bên
với súng ống Mỹ và đồng minh ( Đại Hàn, Úc…). Ngay cả tại thị xã Biên Hòa, sân bay quân sự Hoa Kỳ, theo tài liệu phái bộ
quân sự Úc, đồng minh Hoa Kỳ ở chiến tranh Việt Nam, thiết lập giữa thập niên 1960 ở ngọai ô thị xã Biên Hòa
thường bị móc chê của đối phương ( Việt
Minh, tên của mặt trận cai trị miền Bắc
trước đó và sau 1962 là Việt Cộng - Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam miền Bắc dựng
lên), núp lén ở các nhà theo hay có cảm tình Việt Minh - Việt Cọng tại trong
thị xã Biên Hòa, bắn phá nhiều lần. Trên cù
lao Rùa, có chùa Khánh Sơn , di
tích lịch sử, xây cất đã trên 100 năm. Chùa nép mình dưới các hàng Sao đen Hopea odorata , họ Dầu Dipterocarpaceae, một cỗ thụ lọai cao nhất nước nhà , có khi đến
40 m, thân trụ thẳng tuột cao chót vót.
Từ trên cao nhìn xuống , giữa cù lao thế đất cao hơn mặt nước tới 17 m, trông giống cái lưng con rùa. Còn cù lao Tân Triều là quê hương của lòai bưởi Tân Triều (còn
gọi là bưởi ổi ), đặc thù của Cù lao, nhưng khi chín da màu vàng ở miền Nam này
như lòai bưởi Năm Roi Quận Bình Minh – Vĩnh Long, hình trái lê thịt không dính vào vỏ múi rất ngọt,
thơm phức, đã bán ở nhiều thị trường
ngọai quốc, phẩm giá có lẽ trội hẳn bưởi Oroblanco Ca li, có khi vài
tiệm Việt kiều bán giả dạng bưởi Năm Roi, không hột khi trồng cây riêng rẽ và
hơn 10 hột khi trồng chung chạ trong
vuờn .
Ngòai Bưởi ổi Tân Triều, Biên Hòa còn có thêm bưởi Đường Lá Cam, dễ bóc tép, ngon ngọt nhiều nước, thơm và thanh, nhưng nhiều hột, khi chín da xanh không vàng nhiều như các lọai bưởi các tỉnh Miền Nam ( bưởi Da Xanh Mõ Cày- Bến Tre , Châu Thành Tiền Giang chẳng hạn…), khác màu vàng các lòai bưởi ngon nổi tiếng miền Bắc hay miền Trung ( bưởi Đoan Hùng quận Đoan Hùng -Vĩnh Phú; bưởi Phúc Trạch, quận Phúc Trạch- Hà Tĩnh; bưởi Thanh Trà, quận Hương Trà- Hương Điền, Huế - Thừa Thiên… ). Thật tế, khi du khách đến làng Tân Triều, cách thị xã Biên Hòa 25 km, khách sẽ được mời thưởng thức một tá lọai bưởi mùi vị khác nhau, trong đó ngọt nhất lại có tên là “Thanh Trà”.
Ngòai Bưởi ổi Tân Triều, Biên Hòa còn có thêm bưởi Đường Lá Cam, dễ bóc tép, ngon ngọt nhiều nước, thơm và thanh, nhưng nhiều hột, khi chín da xanh không vàng nhiều như các lọai bưởi các tỉnh Miền Nam ( bưởi Da Xanh Mõ Cày- Bến Tre , Châu Thành Tiền Giang chẳng hạn…), khác màu vàng các lòai bưởi ngon nổi tiếng miền Bắc hay miền Trung ( bưởi Đoan Hùng quận Đoan Hùng -Vĩnh Phú; bưởi Phúc Trạch, quận Phúc Trạch- Hà Tĩnh; bưởi Thanh Trà, quận Hương Trà- Hương Điền, Huế - Thừa Thiên… ). Thật tế, khi du khách đến làng Tân Triều, cách thị xã Biên Hòa 25 km, khách sẽ được mời thưởng thức một tá lọai bưởi mùi vị khác nhau, trong đó ngọt nhất lại có tên là “Thanh Trà”.
Thứ đến là Thác Trị An, cách tỉnh lỵ Biên Hòa chừng 50km. Thác cao 8m và rộng 30m. Chung quanh là
phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đẹp đẽ. Dưới
chân thác có một số tiểu dảo và các lòng
bải đá cuội. Đập thủy điện Trị An công xuất lớn nhất ở miền Nam Bộ 400 000 KW,
điện lượng 1.7 tỉ KWH ( KW Giờ ) thiết lập năm 1988, sau đập Đa Nhim
trên sông Đồng Nai, thiết lập năm 1974 lúc đó chỉ có công xuất 120 000KW ,
điện lượng 420 triệu KWH, nay đã
có công xuất trên 400 000 KW.
Phong cảnh quanh đập Trị An rất rộng và ngọan mục,
nên nay là nơi du khách viếng thăm nhiều nhất ở tỉnh Đồng Nai. Hồ Trị An
cung cấp nước cho đập Trị An, năm 2001, đã có thêm nước của hai đập trên sông
La Ngà là Hàm Thuận ( công xuất 300 000 KW) và đập Đa Mi ( 150 000 KW) nối liền
hai hồ Trị An và hồ La Ngà , hòan
tòan ở địa phận tỉnh Đồng Nai. Nhưng đập
Hàm Thuận thuộc tỉnh Bình Thuận còn có nhiệm vụ làm cho thung lũng Tánh Linh-
Đức Linh ( Bình Thuận ) khỏi bị ngập lụt và tưới ruộng vùng này. Chính Tánh
Linh là nơi thử đại trà lúa Thần Nông IR8 đầu tiên ở Việt Nam, sau đó mới phổ
biến rộng ở đồng bằng Sông Cửu Long. Cũng như ít ai biết là mọi kỷ thuật tân
tiến lúc đó về canh tác lúa Thần Nông tiểu điền, phát sinh ở IRRI – Phi Luật Tân, đều được thử
nghiệm hoàn tất tại Trung Tâm Huấn luyện Lúa Thần Nông, cù lao Phố -Biên Hòa, với
sự góp công đắc lực của các kỹ sư, kiểm sự tốt nghiệp trong nước ở Bảo Lộc hay
ở Cao Đẳng Sài Gòn, các năm 1967- 68 . Hồ La Ngà là nơi có thiết lập làng nhà
bè nổi nuôi cá dưới bè thâm ngư đầu tiên
ở các tỉnh Miền Đông Nam Bộ , chiếu theo kiểu Châu Đốc – An Giang khởi đầu vào
thập niên 1960 thời Cộng Hòa. Có lẽ nên cải thiện thêm xây cất các nhà bè, biến
chúng thành nơi có những tiệm ăn tân
trang lịch sự, sang trọng hơn trên bè kiểu Aberdeen- Hồng Kông, cải thiện cách
nấu cá đặc biệt như cá kho tộ, canh lẫu
đầu cá …. kiểu Biên Hòa đã nổi tiếng từ lâu( ? ) . Một hồ khác Hồ Long Ẩn ( ? ), ít ai nói tới, rộng
10 ha, cách thị xã Biên Hòa 6km , đã
được xem là xinh đẹp, lạ lùng như một
Vịnh Hạ Long thu nhỏ .
Thác Trị An |
Công viên Quốc gia Cát Tiên, như đã kể là ba công viên Nam Cát Tiên, Bắc
Cát Tiên và Cát Lộc nhập lại tháng chạp năm 1998, thuộc 3 tỉnh Đồng Nai,
Lâm Đồng và Bình Phước, do bộ Nông Nghiệp quản trị. Đi trên quốc lộ 20 từ thành
phố Hồ chí Minh- Sài Gòn lên Đà Lạt đến cột mốc số 174 ngang qua ngã ba Tân
Phú, rẽ về phía tay trái, sẽ nhìn thấy bảng ghi « Công Viên Quốc Gia Cát
Tiên – 24 Km ). Diện tích 74 319 ha. Dân
gian địa phương còn duy trì nhiều phong tục, tập quán điểm tô nhiều sắc thái
văn hóa tộc dân ít người dị đồng, cho nên hút dẫn nhiều nhà khảo cỗ: vì rừng Cát Tiên
còn có thể chưa nhiều di tích, di chỉ lịch
sử có giá trị đáng được khai quật thêm.
Như đã kể trên tháng 11 năm 1988 ở làng Phú Mỹ huyện Cát Tiên một làng cỗ được khám phá tuổi 2500 – 3000
năm, có lúc có thể là Đất Thánh của nền
văn minh Phù Nam cách đây 2000 năm
( ? ). Công viên tiếp tục bảo tồn đất đai nguyên thủy và hệ
thống sinh thái đa dạng.
Nghiên cứu của Ban Quản trị Công
Viên kiểm kê được 77 lọai thú vật thuộc
28 họ và 10 lòai; 326 lọai chim
thuộc 62 họ và 18 lòai; 37 lọai
bò sát thuộc 18 họ và 3 lòai ; 133 lọai cá thuộc 28 họ và rất
nhiều lọai sâu bọ, côn trùng. Đáng kể nhất là các thú vật Sách Đỏ ghi bị hiểm nguy tuyệt chủng tỉ
như Bò banteng, Minh - Gaur, Cọp, Gấu, Chó sói, Khỉ chân đen, Côn , Sếu cổ
trắng, Trĩ Đông Nam , Cá sấu, Báo hoa mai… , Đặc biệt nhất là một
bầy 7- 8 con tây ngu một sừng. Ngày
14 tháng 5 năm 1999, vào 4 giờ sáng, một lọạt
máy chụp hình đặt sẳn, đã chụp đựợc một bầy tây ngu trưởng thành, thuộc họ tây ngu Java (
Inđônêxia ). Rừng bảo vệ nguyên thủy Cát
Tiên rộng 3500 ha, cách Biên Hòa 150 km. Cho đến nay Công viên Cát Tiên đã phân
lọai được 1610 lọai cây thuộc 75
họ, 160 lòai và 724 tông chi thực vật.
Nhiều lọai đã ghi vào Sách Đỏ. Len lõi trên
đường mòn trải lá rụng, thấy ánh sáng xuyên qua các tán cây, tầng tầng -
lớp lớp. Không khí ẩm ướt. Ve sầu kêu rềnh rã khắp rừng .Trước tiên nhìn thấy
một cây tùng bách tuổi trên 400 năm. Đi xa hơn một chút, gặp một cây khác : đó là cây đại thụ ( đại mộc ) Bằng Lăng sừng Lagestroemia cornuculata ( L. venusta , L. undulata ), tuổi đã gần 300 năm . Thân chính gốc có đường kính
trên 3m , mọc thêm 6 thân phụ màu ngà ngà, hoa to 1.5cm x 1,5 cm có 6 sóng tận cùng như sừng. Và nhiều lọai
cây lạ lùng khác: tỉ như cây gõ đỏ - gỏ cà te – tò te tên khoa học là Afzelia
xylocarpa ( Pahudia xylocarpa , P. cochinchinensis , họ phu điệp Cesalpinia , đường kính 3.7 m ( cây gõ đõ thân to hơn ở Cẫm Mỹ - Cẩm
Đường tỉnh Long Khánh cũ, đã bị quân tham lam gỗ tốt đốn bán mất sau năm 1963 ), cây đề ( si, xanh, gừa )
benjamina fig ( weeping gig ) Ficus
banjamina họ Dâu Tằm Moraceae,
không có rễ rủ từ nhánh, nhưng bó rễ mọc
chạy dài theo dòng sông, cây cao đến 14 m, tán lá rậm rạp cho thể che bóng mát cho 20 người, đồng thời cũng là một lọai cây đa
có thân trống rổng, đủ làm dù che cho 3 người núp mưa, tránh nắng. Sông Đồng Nai
là biên cương thiên nhiên bọc ba phía
Công viên Cát Tiên. Tả ngạn thường là các làng, vườn tượt xây cất sát bờ sông. Hửu ngạn là rừng hoang dã, tán xanh sơ khai. Rất
nhiều lòai chim chóc làm tổ trên tán cao.
Trong rừng sơ khai nguyên
thủy tìm thấy nhiều lòai động vật của
vùng thấp Đông Trường Sơn và Tây Nguyên
.
Vườn Quốc Gia Cát Tiên |
Núi Bửu Long và Hồ Long Ẩn |
Cổ Mộ Hàng Gòn |
Phần B : lạm bàn phát triễn tỉnh Đồng
Nai - Biên Hòa.
7- Vùng công nghệ Sông Mây, ở làng Bắc Sơn,
huyện Thống Nhất. Diện tích 427 ha, dành
227 ha cho đợt đầu. Đất cho thuê 158 ha , đã cho thuê 52.88 ha ( 33.47% ). Về hạ tầng cơ sở đã có
thông tin và viễn thông thuận tiện đi khắp nước và ra ngọai quốc.
Đầu tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ hệ thống điện, nước, viễn thông, thông tin, thóat thủy, trị liệu phế thải. Hiện đã có 19 dự án, tư bản đầu tư đăng ký 190 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: chế tạo cơ khí, ráp sản phẩm điện tử, chế biến thực phẩm, dược phẩm, đồ da, áo quần.
B – I:
Phát triễn nông nghiệp
I - a : Từ lúa gạo, cây trái cỗ truyền đến hoa màu cải
thiện lúa cao năng Thần Nông, lúa lai ưu thế lai PAC807, bắp lai cao năng , khoai mì cao năng…
Khi chưa tiến nhiều
xuống đồng bằng sông Cữu Long, Đồng Nai
còn là vựa lúa cho xứ Đàng Trong ( “thứ nhất Đồng
Nai, thứ nhì hai huyện Lệ Thủy và Phong
Lộc tỉnh Quảng Bình hay Đồng Nai gạo trắng như
cò…” ) , cây ăn trái như bưởi Biên Hòa và các chuối Đồng Nai v.v… Thời Pháp thuộc phát triễn cao su và các
thời tiếp theo phát triễn mía , đậu nành- đổ tương, cà phê, thuốc lá,
tiêu, hột điều -đào lộn hột …, đặc biệt là các hoa màu như bắp ( ngô ) khoai mì
( sắn ), đậu phụng ( lạc ), khoai lang …
mà nhiều giống , tinh dòng ( gây,
nhân giống vô tính – asexual propagation ), nhiều kỷ thuật cải thiện phát
xuất từ Trung tâm Khảo cứu Nông Nghiệp Hưng Lộc , Biên Hòa
– Long Khánh, thiết lập thời Đệ Nhất Cọng Hòa,
cũng ít người nói tới . Nếu không có chiến tranh Việt Nam ( Nam Bắc ) ,
thi có lẽ Hưng Lộc đã trở thành Trung Tâm Hoa Màu Nhiệt đới Quốc tế Á Châu ( đặc biệt bắp lai cao năng kiểu Mỹ, khoai mì giống mới Phi
Châu hay Nam Mỹ, đập phụng Virginia, Spanish Mỹ Châu hay Phi Châu, đậu nành Mỹ,
khoai lang tía Nhật , nay trồng trên đất xám bạc màu phù sa cỗ….) thay vì ở Thái Lan ( Kasetsart
) hay Ấn Độ ( ICRISAT – Hyderabad ) . Cũng như Trung
Tâm Lúa Gạo Quốc Tế IRRI, thay vì ở Phi Lụât Tân , đã có thể là ở Việt Nam
( Cần Thơ hay Sóc Trăng ), vì phái đòan lúa gạo FAO quốc tế khi đến các nước lựa chọn vị trí trung tâm lúa gạo,
đã để ý tới các nơi này cuối thập 1950-đầu thập niên 1960, trước khi phải lựa
chọn năm 1962 Los Banos – Phi Luật Tân, một quốc gia trồng ít lúa gạo hơn Việt
Nam . Ngòai các cây công nghiệp lâu năm
: cao su , cà phê, hột điều…, Đồng Nai
nay tương đối có diện tích lớn nước nhà về bắp, mía, đậu nành ( đổ tương ), đậu
phụng ( lạc), khoai mì( sắn ) , khoai lang, thuốc lá … Tuy vậy, vì hai lảnh vực công nghiệp - xây dựng
và dịch vụ tăng nhanh từ đầu thập niên
1990, trị giá nông lâm nghiệp ở tam giác tăng trưởng vùng “ đất hứa” địa bàn trọng điểm công nghệ là
TP Hồ Chí Minh- Đồng Nai - Vũng Tàu, chỉ còn 12. 5% GDP, so với 39.6 % ở công nghiệp - xây dựng , 47.5 % ở Dịch
Vụ. Năm 1995, nông lâm ngư nghiệp tòan
cõi Việt Nam là 27, 2% GDP , công nghiệp xây dựng cơ bản là 30.3 % và dịch vụ là
42,5 %, nghĩa là cơ cấu của một nước thu nhập thấp kém.
Tuy tỉ lệ nông
nghiệp ở GDP, mỗi ngày mỗi giảm so với hai lĩnh vực kia, Đồng Nai vẫn là một tỉnh miền Đông Nam Bộ có đất đai nông nghiệp
lớn. Năm 2001, diện tích đất nông nghiệp
Đồng Nai chiếm 300 200 ha, lớn hơn cả Bình Thuận nay xếp vào Miền Đông Nam Bộ diện tích đất nông nghiệp chỉ 208 000 ha, tuy tổng diện tích Bình Thuận lớn
hơn 7828km2 . Chỉ sau Bình Phước có diện tích đất nông nghiệp là 421 400 ha và tổng diện tích Bình Phước 6856 km2 cũng lớn hơn. Diện tích đất nông nghiệp vẫn tiếp tục gia
tăng, vì đến năm 2007 lên đến 369 195 ha
, phải nuôi sống 1. 6 triệu nông dân tỉnh nhà , nghĩa là trên 70 % tổng dân số.
Có lẽ nên nhắc lại là đợt di dân thứ ba sau 1975- 80 của đồng
bào châu thổ sông Hồng bà con với dân di cư công giáo “Hố Nai- Gia Kiệm” 1954-
56 vào Đồng Nai tuy giàu có hơn hẳn nơi quê cha đất tổ không
đất hay ít đất, và không còn mấy trồng lúa, cũng vẫn là nông dân, dân nông
thôn.
Tuy thời các
chúa Nguyễn Đồng Nai là vựa lúa gạo xứ Đàng Trong, nhưng nay diện tích chỉ lên xuống
ở khỏang 70 000 – 80 000 ha ( 1995- 2002 ) mỗi năm cả ba vụ: năng xuất còn kém cõi khỏang 3. 5 – 3.6 tấn /ha/vụ ,
kém hẳn năng xuất lúa nước
4,5 tấn / ha ở tỉnh Ninh Thuận - Phan-Rang, tỉnh khô hạn nhất nước nhà (
nay cũng là thuộc miền Đông Nam Bộ như
Bình Thuận - Phan Thiết), dù rằng khởi
thủy kỷ thuật cận đại theo tiểu điền tăng
gia năng xuất, sản lượng các giống lúa Thần Nông –IR như đã nói ở phần A là ở Trung
tâm cù lao Phố và chính ở khu công nghệ Biên Hòa cũ, có trước nhất công ty nhà
máy sản xuất nhiều lọai nông cơ mới cho lúa nước VIKINO, thành lập từ năm 1967…
) , nhà máy pha trộn các phân hóa học
thích nghi, nhà máy pha thuốc bảo vệ mùa
màng v.v… Không rỏ các giống lúa lai ưu thế lai – hybrid rice mới (
các giống lúa Thần Nông -IR là các giống nội phối – inbreds hay “lúa thuần”
cao năng, cao phẩm tuyễn chọn cháu chắt, sau khi lai các giống cha mẹ thích
nghi ) do công ty cổ phần giống cây trồng
miền Nam nhập nội, khảo nghiệm ngắn
ngày tỉ như PAC 807
, chống đổ ngã, bông to, trồng quanh năm, kháng bệnh đạo ôn ( cháy là ), lùn xoắn lá.., gạo dài , (
7mm) không bạc bụng , mềm cơm, đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu, năng xuất 7-8 tấn (
thâm canh tốt dạt 10- 11t/ha/vụ) có thích nghi cho những sinh thái ruộng lúa nước
tỉnh Đồng Nai chăng ? Đồng Nai cũng là tỉnh có diện tích trồng bắp ( ngô ) lớn nhất nước, diện tích trung bình trên 65 000ha, gấp đôi diện tích bắp hai tỉnh Đông Bắc ( Hà Giang, khỏang 40 000 ha, Cao Bằng khỏang
32 000 ha ) và Thanh Hóa (45 – 50 000 ha
) tỉnh Bắc Trung Bộ trồng nhiều bắp nhất,
và áp dụng kỷ thuật cũng trồng các giống bắp lai cao năng
kiểu Hoa Kỳ ( kỷ thuất bắp giống lai của các hảng Pioneer, Cargill …. ) bộ
Nông Nghiệp đã khảo cứu nhiều năm ở miền
Đông Nam Bộ , sau năm 1975, đặc biệt ở Trung Tâm Hưng Lộc ( ? ). Tuy vậy
bình quân đầu người lương thực mễ cốc ( cereals
) quy thóc ( lúa ), ( một mức tiêu chuẩn ý niệm đủ lúa gạo ăn
suốt năm), các năm 1995 – 2002 của tỉnh Đồng Nai, chỉ mới đạt mức 220 – 250 kg (muốn đủ nhu cầu lương thực, bình
quân đầu người quy thóc một năm phải trên 500 Kg). còn thua kém Tây Ninh ( 540 – 593 kg ), tuy đã vượt xa hai tỉnh miền Đông
Nam Bộ khác là Bình Phước ( khỏang 75 kg)
và Bình Dương ( 90 – 115 kg ). Không một
tỉnh nào của Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc
Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ( ngọai trừ Tây Ninh ) các năm vừa kể, đạt mức
tiêu chuẩn bình quân đầu người qui thóc
cả thảy . Ở đồng băng sông Hồng thì đã
có các tỉnh Hà Nam, Nam Định,
Thái Bình, Ninh Bình luôn luôn vựợt mức tiêu chuẩn ; Hải Dương , Hưng Yên trên
mức tiêu chuẩn những năm được mùa và Bắc
Ninh ít hơn mức tiêu chuẩn đôi
chút. Các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long : thường sản xuất mỗi năm gần hai lần
mức tiêu chuẩn là Trà Vinh, SócTrăng, Vĩnh Long ; trên hai lần là Long An, An
Giang , Cần Thơ, Bạc Liêu , Đồng Tháp :
và đặc biệt gần ba lần là Kiên Giang vào
những năm cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000. Cà Mau trụt xuống dưới mức tiêu chuẩn các năm
đầu thập niên 2000, khi dân chúng đưa nước
mặn vào ruộng lúa nuôi tôm lợi hơn
lúa. Bến Tre, xứ dừa, luôn luôn chỉ mới đạt trên phân nữa mức tiêu chuẩn đôi chút! Nếu không tiến triễn nhiều thêm được về mức tăng gia
lúa gạo về năng xuất trong tương lai, vì ít đất phù sa mới thích hợp lúa nước so với đồng bằng sông Hồng
hay đồng bằng Sông Cửu Long, tỉnh Đồng Nai có lẽ nên chuyễn đổi cơ cấu cây trồng qua bắp lai cao năng vì năng xuất trung bình
ở tỉnh nhà còn qúa thấp, các lọai lương
thực củ như khoai lang ( không phải làm lọai thực phẩm chính ăn độn gạo
vào những năm mất mùa lúa, mà là là củ các lọai khoai lang “tía “ Nhật bổn mới đây ( các giống
DST , CM , N1, N2, NH3, HN 418)
trên những đất xám bạc màu như ở làng Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc , năng xuất
thu hoạch sau 3 tháng trồng đến 20 tẩn/ha năng xuất lúa nước quá kém làm các món ăn
phụ trộn “rau” canh, hay các lọai cũ nhiệt đới khoai môn - taros, khoai mở -
ignames ( yam ) … công dụng như “rau” khoai lang tía , nay đã thấy bán nhiều ở các
siêu thị Tàu – Á Đông. Một lọai củ - root
crop cỗ truyền khác là khoai mì – sắn
( cassava , manioc ) mà Trung Tâm Hưng
Lộc – huyện Long khánh Đồng Nai, cũng đã
tuyễn chọn với sự cộng tác của Trung
tâm Quốc tế Canh Nông Nhiệt đới - CIAT
, Nam Mỹ Châu tạo ra nhiều tinh dòng mới ( gọi là tinh dòng –clones
vì trồng bằng hom vô tính – asexual
cuttings, khúc thân, thay vì
hột giống chỉ sử dụng khi lai tuyễn chọn di truyền ) cao năng gấp
4-5 lần năng xuất các tinh dòng cỗ
truyền ( tỉ như HL -HưngLộc 20 , HL 23, HL 24 , KM 94 ( Kasetsart 50 ) KM 60 (
Rayon 60 )… , góp phần giúp cạnh tranh
thắng lợi công nghệ làm bột ngọt nước
nhà, làm bột năng – tapioca, làm ethanol ( hình như có phần tốt hơn cả từ bắp kiểu Hoa Kỳ hay từ mía, kiểu
Brasil ? ), làm thực phẩm gia súc ( kể luôn cả lá chứa nhiều chất dinh duỡng tốt,
nhiều protein …. ), bột pha trộn được với bột lúa mì lên men làm bánh mì tây
phương đặc sản kiểu Brasil ăn sáng, pha trộn làm bánh phồng tôm Sa Giang
– Sadéc … Diện tích khoai mì các năm
2001 -2002 ở tỉnh Đồng Nai là 16 000 ha
gấp đôi diện tích các năm1999- 2000 , tuy ít hơn Tây Ninh, Bình Phuớc; năng xuất có phần cao hơn 11 – 15t / ha, nhưng còn kém năng xuất khoai mì trung bình ở
Thái Lan 22- 25 t/ha, sau xa năng xuất các tinh dòng cao năng tiềm thế đã có trong nước là 50 -60t/ha.
I- b . Tiến
tới chuyễn đổi cơ cấu vòng cung xanh –
rau hoa, vòng cung trắng sửa tươi , các làng chuyên canh đặc sản
Đồng Nai phải lợi dụng
tính cách ngọai ô của thành phố Sài Gòn làm ra vòng cung – vành đai rau đậu-
vegetables, cây cảnh hoa kiểng –
flowers, bonsai- ornemental trees
quanh Sài Gòn, để phục vụ phong
phú hơn dân trung lưu yêu cầu mới cũ các thành phố, thị trấn đang dâng cao hơn lên ở miền Đông Nam Bộ; bổ sung
các thực phẩm rau hoa cây kiểng bán ôn đới
Đà Lạt – Bảo Lộc , Lâm Đồng thiết lập
cung cấp cho Pháp Kiều mất liên lạc với mẩu quốc thời điểm 1940: nhấn mạnh đến những lòai nhiệt đới
đã xuất khẩu được như dưa leo bé nhỏ- baby cucumber , khoai lang tía , cà chua , các lọai đậu , ớt
, hành tây , hành ta… cố gắng dùng các kỷ thuật canh tác tốt – GAP ( Good agricultural
Practices ) nước sạch không ô nhiễm,
kiểm dịch – vệ sinh đàng hoàng, để bán
ra rau đậu tươi thay vì chỉ thường xuất
khẩu dưới các thể chế biến đóng hộp, sấy khô hay đông lạnh. Một lọai rau mới phát
triễn ở Long Khánh là rau lá nho ,
thay vi trồng ăn trái nho ( hay làm rượu
nho, bồ đào mỹ tửu) . nay trồng khai thác lá xuất khẩu sang Đông Âu và Trung
Đông , dưới thể bảo quản đựng thùng nhựa kỷ thuật Hoa Kỳ công ty thực phẩm Mỹ
Yeget thu mua; hom giống nho IAC mua từ Bình Thuận. Xây dựng những làng chuyên
canh như đã thực hiện trong tỉnh nhà, 25 làng trồng các lọai nấm – mushroom
cultivations : nấm mèo – Auricularia
sp., nấm rơm Volvoriella sp ., nấm
bào ngư Pleurotus sp - nấm đầu đinh enoki, nấm đông cô … nấm dược
phẩm Linh Chi reishi Ganoderma sp. ; sản
luợng trên 30 000 tấn nấm tuơi ( 5000 tấn nấm khô ) vào năm 2007.
Tương tự cách thiết lập những làng trồng nấm chuyên canh ở tỉnh Đồng Nai là những làng
chuyên canh cây ăn trái “ tươi “( ăn quả ) như đã có làng bưởi Biên Hòa– TânTriều
: chuối , thơm dứa , đu đủ , sòai riêng
, ổi xa lị, chuối bé- baby bananas
ngon ngọt hơn lọai chuối Già to ( chuối xiêm , chuối cau , chuối mật mốc,
chuối ngự , chuối Đồng Nai… ), nhãn,
chôm chôm, các lọai mơ lông- dưa hấu -dưa gang Trung Á, và tại sao không nhãn lồng, chùm bao “chanh dây “ – passion
fruit xứ nóng , cây bơ lòai lai cho
xứ nóng, các lọai mận ta ( roi , đào –lý, táo ta , xơ ri Gò Công- Barbados cherries Acerola… ), táo ta – jujuba nhiều giống cải thiện trái to ngon ngọt hơn
các giống táo đào tiên, táo ta Thái Lan,
ngay cả chùm ruột, bần( bồ ) quân, bòn bon ngọt- langsat lịm Mã
Lai, dâu da, dâu ta đỏ ( nam trân )-
rambai sp. cải thiện, mảng cầu dai
như đã có ở Tây Ninh, ngòai mảng cầu dai Tân Thành- Gò Công trước chiến tranh gần
khí hậu biễn, mảng cầu xiêm -corrosol
giống mới Mexico , dừa lùn hay dừa xiêm… lấy nước uống ( không phải là nạo gáo,
ép khô dầu lấy dầu xưa cũ )…
Mở rộng thêm cây ăn trái, cũng như
các cây công nghệ lâu năm, tất nhiên phải duyệt xét lại chương trình trồng lại 5 triệu ha, quan niệm còn hơi xưa cũ, quá thiên về môi sinh ôn đới
hay bán ôn đới các nước đất rộng người thưa, trong khi nước nhà phần lớn khí hậu
nhiệt đới hậu đất hẹp người đông. Ở tỉnh Đồng Nai, có lẽ nên duyệt lại cách thức diện tích và ranh giới các rừng bảo vệ , rừng
bảo tồn nguyên thủy, lưu vực thủy điện, thủy nông, công viên bảo tồn thực
vật-động vật hiếm có, mục đích đúng kinh tế hơn, khoa học nhiệt đới hơn
cho các rừng trồng lại lọai cây gỗ ,tre mây …Tỉnh Đồng Nai
có chừng 180 000 ha đất lâm nghiệp, có ba công nghệ lâm nghiệp quan trọng cho
nước nhà là giấy, đồ tre mây và đồ mộc gỗ xẽ gỗ ván ( ? ). Mức
xuất khẩu đồ mộc- tre mây của Việt Nam năm 2008 đã là 2, 4 tỉ đô la, giá trị
trên xuất khẩu gạo và nhiều nông phẩm khác, chỉ sau ngư sản . Đồng Nai nổi tiếng
xa xưa là nơi rừng tre mây bạt ngàn, một trong những tỉnh nhiều rừng tre
nứa, cao hơn mức trung bình cả nước có
1, 4 triệu ha tre nứa, 10,5 % tổng diện
tích đất rừng lâm nghiệp , cung cấp mỗi
năm 400- 500 triệu thân tre -nứa - luồng-
mạy … nhưng nay đã có dấu hiệu là thiếu
tre làm giấy ( nhà máy giấy Đồng
Nai Cogido thời Cộng Hòa sử dụng nhiều lọai tre , chẳng hạn các lọai tre lồ ô Bình Phước ) và công nghệ đan
tre. Từ lâu Việt Nam đã phải nhập khẩu mây cho công nghệ, dù trong nước đã kiểm kê đến
30 lọai mây trong số này có 10 lọai có
gía trị kinh tế cao, nhiều lọai này hiện diện ở các rừng Đồng
Nai ; mức xuất khẩu đồ mây Việt Nam chiếm trên 20 % thị trường quốc tế . Mức nhập khẩu lên đến 33 ngàn tấn mỗi năm cho nhu cầu mây tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tổng cọng chừng 60 – 80 000 tấn một năm. Việt Nam đã có 2017 làng tiểu công nghệ tre mây trong đó
723 làng chuyên đan mây. Trị giá
hàng xuất khẩu tre mây đã đạt 219 triệu
đô la năm 2007, năm 2010 lên đến trên
300 triệu đô la Mỹ , bán cho 120 quốc gia trên thế giới và xử dụng
trên 342 000 nhân công . Rừng Việt Nam sản xuất chừng 3 triệu m3 gỗ không đủ dùng cho khỏang 1500
doanh nghiệp cưa xẽ , chế biến gỗ, làm các bàn ghế, tủ, giường thời
trang, cận đại … của 2 tỉnh
Đồng Nai, Bình Dương cùng Thành
phố HCM nơi tập trung công nghệ này để
xuất khẩu. Như đã kể trên , ngòai việc kiểm sóat lạm thác, Việt Nam cũng như tỉnh
Đồng Nai cần duyệt xét lại việc bảo vệ , khai thác rừng tre mây , cố gắng tổ chức
những làng chuyên trồng tre mây cho những khu vực tập trung được quanh làng chừng 30 – 50 000 ha , như đã thành công trồng tre
“ luồng” Dendrocalamus barbatus ở tỉnh
Thanh Hóa hay trồng mây ( mây đan , mây manh, mây Bắc Bộ- glutinous rattan ? ) cao năng và ngắn
ngày, chỉ 5 năm là khai thác được ở tỉnh
Thái Bình.
Hai lảnh vực khác đáng nêu lên là chăn nuôi và ngư nghiệp lục địa. Nuôi gà
thịt kỷ thuật Hoa Kỳ qui mô ở tỉnh nhà
còn nhỏ bé, còn phụ thuộc quá nhiều về
nhập khẩu bắp Hoa Kỳ, vì chương trình khoai mì chưa phát triễn hướng về chăn
nuôi, bắp lai cao năng chưa phổ biến đủ kỷ thuật chuyễn đổi cơ cấu sản xuất thích nghi đại trà cao năng hơn, tuy Đồng Nai đã tiến bộ nhiều về lai tạo các giống bắp lai cao năng sau 1975, như đã nói trên. Hình như mới đây, một cơ cấu chăn nuôi bò sửa liên
doanh năm 2003 chánh phủ chỉ còn giữ
47.6 % cổ phần mà thôi, là Vinamilk thay cho công ty quốc doanh cũ thành lập năm 1976, do một ban quản trị hòan
toàn là phụ nữ, đã thành công cung cấp
một triệu cốc sửa tươi một ngày
cho trẻ em, thu mua các trại chăn nuôi
bò sửa tỉnh nhà . Đầu thập niên 1960, trại bò sửa thử nghiệm tân tiến Úc Châu viện trợ thành lập
đầu tiên ở Bến Cát – Bình Dương, đã bị tàn phá vì chiến tranh .
Sản lượng thủy sản nuôi trồng đã tăng hơn gấp đôi từ 6131 tấn năm 1995, lên đến
trên 13 000 tấn năm 2002, còn có thể tăng thêm hơn nữa khi sử dụng đúng tiềm năng các hồ trử nước thủy điện : hồ Trị An diện tích mặt nước 32 300 ha và hồ La Ngà…, cũng như 60 sông suối,
kênh, đất thấp đầm lầy hệ thống sông Đồng Nai đặc biệt nuôi cá bè như đã nói ở
phần tổng quát , nuôi tôm nước ngọt , cá nước ngọt như cá tra, cá rô phi , điêu
hồng tòan đực hay các lọai khác của sông Đồng Nai và chi nhánh v .v… góp phần
tăng sản lượng xuất khẩu thủy sản tòan quốc năm
2010, đã đạt 5.034 tỉ đô la- USD ( vượt kế họach dự trù là 4.5 tỉ ) và 1 353 triệu tấn.
I – c . Tiến thêm về
các cây công nghệ lâu năm: cà phê vối Robusta , cao su cao năng ba công
dụng, cây hột điều tháp tinh dòng cao
năng , tiêu xen kẻ cây hột điều đất xám … , chú tâm hơn nữa về cách chế biến làm sạch hay bớt
ô nhiễm…
Cà Phê Robusta Đồng Nai |
Có lẽ tốt hơn nữa
cho nông nghiệp tỉnh Đồng Nai là mở rộng thêm và cải thiện năng xuất , phẩm giá
các cây lâu năm công nghiệp như cà phê ,
cao su , hột điều , ( hồ ) tiêu. Khí hậu , đất đai Đồng Nai rất thích hợp cho lọai cà phê vối Robusta. Diện tích cà phê Robusta không đáng kể ở tỉnh Đồng
Nai trước năm 1975, năm 2004 đã đứng
hàng thứ tư nước nhà,diện tích trên 60
000 ha , chỉ sau Đắc Lắc ( Ban Mê Thuột
) 234 000 ha , Lâm Đồng 100 000ha và
Pleiku – Gia Lai 75 000 ha , trong tổng số
506 500 ha cà phê tòan quốc năm đó.
Góp phần đưa Việt Nam lên hàng thứ nhì xuất khẩu mọi lọai cà phê, sau Brasil, trên hẳn Colombia, Inđônêxia và Bờ
Biễn Ngà- Côte d’ Ivoire và hàng thứ nhất
xuất khẩu cà phê vối Robusta,có tỉ lệ
cafêin cao nhất.
Năm 2008 , Việt Nam đã xuất khẩu 994 000 tấn cà phê, đa số là Robusta, trị gíá
2. 003 tỉ đô la Mỹ và năm 2009 xuất khẩu
1183000 tấn, trị giá lại thấp hơn 1. 731
tỉ. Năm 2010. Việt Nam
xuất khẩu 1200000 tấn, 20 -30 000 tấn
cao hơn 2009, nhưng trị giá cũng chỉ là
tương đương 1. 7 tỉ đô la . Năm nay
2011, cà phê lên gíá lại trên thương trưòng quốc tế và ước lượng quốc tế sẽ còn tăng thêm nữa những năm tới, nên chắc chắn tỉnh Đồng Nai sẽ
còn tăng thêm diện tích và sản lượng cà
phê . Vì không những Đồng Nai có thể có đủ nước tuới dặm mùa khô cho cà
phê khỏi rụng hết hoa đầu mùa lỡ khi
mưa đến chậm, cà phê cần nhiều nhân công chăm sóc , thu họach , 230 ngày
công/ ha . Hệ thống thu mua cà phê cũng
rất có lợi cho nông dân tiểu điền sản xuất; theo nhiều nghiên cứu cho biết 90%
tiền bán FOB ( Free On Board )được hòan lại cho nông dân. Đồng Nai còn có lợi nhờ công ty Thái Hòa thu mua, sản xuất, chế biến cà phê ngay tại khu công nghệ tỉnh nhà, tương tự công ty cà
phê Tây Nguyên ở Ban Mê Thuột vậy đó. Cũng
như lúa gạo và nhiều nông phẩm khác, vấn đề cho ngành cà phê Việt Nam là phẩm
giá và nhãn hiệu- brand name đặc
hửu cà phê nước nhà để tăng thêm trị giá
xuất khẩu, nâng cao thêm lợi tức cho các tiểu điền trồng cà phê. Sản lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu,
như đã biết, đứng hạng nhì thế giới, nhưng chỉ được xếp vào hạng tư trên
cương vị phẩm giá !
Cao Su |
Thứ đến là cao su thiên nhiên Ngân Hàng Đông Dương
cũ đầu tư tài trợ lập các đồn điền- đại điền Pháp phần lớn trên đất đỏ latosols,
nay cọng thêm các tiểu điền Việt trên
các đất đai hệ thống sông Đồng Nai. Năm
2008, Việt Nam đã xuất khẩu 650 000 tấn
cao su thiên nhiên trị giá 1.593 tỉ đô
la và năm 2009 tăng lên 731 000 tấn, trị giá 1. 227 tỉ đô la. Giá cao su thiên
nhiên tiếp tục gia tăng , nên xuất khẩu
cao su là 783 000 tấn năm 2010, trị giá 2. 37 tỉ đô la.
Diện tích phát triễn
cao su cao năng trên đất đỏ, nâu đỏ latosols
tỉnh nhà gần cạn kiệt, khai thác hết. Vì
vậy phải tìm cách trồng cho được cao su cao năng trên đất phù sa như Đồn diền Pháp cũ Michelin đã làm ở Dầu Tiếng hay tiến thêm , hòan tất mau
hơn các thử nghiệm cao su trên đất đất
xám bạc màu có kết von laterit khá xa mặt đất, địa phương gọi là “ đất khốp” , lọai ít khi ngập nước nhiều tháng, và tỉnh Đồng
Nai có vũ lượng cao hơn 1000 m , một giới hạn mức tăng trưởng cây cao su đáng kể
trên đất khốp. Ngòai việc thực hiện trồng 200 000 ha cao su trên đất
đỏ ở Lào, ở Cam Bốt; diện tích các doanh nghiệp trồng cao su Việt Nam ( tập đòan
công nghiệp Cao su Việt Nam VRB , Đắc Lắc, Bình Định, CP Hòang Anh Gia Lai v.v…), đã đạt
54 640 ha ở Lào từ năm 2005 đến năm 2010 . Khả năng cải thiện năng xuất
với các tinh dòng và kỷ thuật chăm sóc vườn cao su cận đại tỉnh nhà đã có sẳn, nên mức sản xuất còn có thể gia tăng , cũng như diện tích khai thác tổng diện tích trồng mới
đến 60%. Áp dụng trồng các giống nguồn gốc Mã Lai, có khả năng làm bột giấy và
làm gỗ cưa-xẽ, kỷ nghệ đồ mộc -
furniture nước nhà còn nhập khẩu nguyên liệu đến hơn 1 tỉ đô la , khi vườn
già cỗi phải trồng lại, có thể khích lệ
giúp tiểu điền cao su trồng lại vườn già cỗi hay nới rộng diện tích với các cao su giống mới cao năng, đa dụng
hơn . Một khó khăn khác có thể giới hạn
phát triễn cao su thiên nhiên tương lai
là chế biến mũ cạo thành sản phẩm xuất
khẩu tương đối khá ô nhiễm, nên Việt Nam
cần phối hợp với Thái Lan , Mã Lai Á ….tìm cho được các giải pháp sạch hay bớt
ô nhiễm .
Hột Điều |
Hột điều cũng là một xuất khẩu mới gần đây và quan trọng ở tỉnh
nhà. Trồng được trên đất xám bạc màu, một lọai đất diện tích lớn ở Đồng Nai. Năm 2000, Việt Nam chỉ mới sản xuất 19 000 tấn .
Năm 2007 đã xản xuất 157 000 tấn, năm 2010
lên đến 196000 tấn , gíá trị xuất khẩu 1. 14 tỉ đô la. Vấn đề cho
ngành trồng hột điều là phải tìm cách tăng gia 3- 4 lần năng xuất, tháp các tinh dòng cao năng trên các vườn tiểu điền trồng giống sa cạ không tuyễn
chọn , năng xuất rất thấp kém. Cố gắng chấm dứt nhập khẩu hột nguyên liệu chưa
chế biến từ Phi Châu (Côte D’ Ivoire hiện chiếm 50% tô/ng số, trước
đây là Tanzania, Mozambique … , và từ Cam Bốt ( trước đây là từ Ấn Độ )
càng sớm càng hay.
Cuối vùng là tiêu ( hồ tiêu ) . Năm 2007, tỉnh Đồng Nai cũng đứng thứ tư
sản xuất tiêu , khỏang 5000 ha , sau Bình Phước 13 000 ha, Đắc Lắc 9000 ha, Bà Rịa – Vũng Tàu 76000 ha. Mức xuất khẩu tiêu tòan quốc năm đó
là 82 000 tấn. Năm 2010 đạt 110 000 tấn, trị
giá trên 390 triệu đô la. Tiêu Đồng Nai tập trung ở vùng đồi núi huyện
Xuân Lộc, trên cả đất đỏ lẫn đất xám bạc màu.
Tiêu Định Quán - Đồng Nai |
Áp dụng đúng kỷ thuật, tiểu điền thu họach
trên đất đỏ đến 7- 8 tấn tiêu khô / ha.
Trên đất xám bạc màu , năng xuất kém hơn ; nhưng đa số nông dân Đồng Nai
trồng tiêu xen kẻ với các vưòn hột điều,
thu lợi gấp ba bốn lần thu họach hột điều riêng rẽ, vì đầu năm 2011, giá tiêu gấp ba lần giá hột điều, và năng xuất
tương đương trên đất xám bạc màu. Vấn đề là thiếu nhân công thu họach tiêu, vì
lao động đã đi làm tại các công ty, xí nghiệp; không thu họach kịp để tiêu quá
già, trụ tiêu sẽ suy và giảm năng xuất vụ
tới.
II – Phát triễn công nghệ
Tăng trưởng công nghệ ở tam giác đất hứa đứng hạng nhất nước nhà .
Đồng Nai thuộc
vùng trọng điểm phát triễn phía Nam gồm TP HCM – Sài Gòn , tỉnh Bình
Dương, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hình thành một tam gíác
đất hứa - tăng trưởng ( không gồm Bình Dương ), tiến triễn nhanh mạnh,
tạo sức hút, lực kéo đối với các lảnh thổ
xung quanh, chuyễn đổi kinh tế theo “ hướng rồng bay”, hội nhập vào nền kinh tế
Đông Nam Á và quốc tế .
GDP của Việt Nam mỗi đầu người,
năm 1990, khỏang trên 200 đô la Mỹ đôi
chút, chỉ mới tương đương với Hàn Quốc cuối thập niên 1960 ( lúc này GDP mỗi đầu
người Hàn Quốc còn bị dư hưởng chiến tranh Triều Tiên thua kém Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam được an bình 5
năm, không chiến tranh ). Nhưng cơ cấu GDP
của tam giác tăng trưởng đất hứa, lúc này đã tương đương với cơ cấu GDP Hàn Quốc nữa cuối thập niên 1980 , thời điểm Hàn Quốc
đang cất cánh kinh tế– take off , “hóa
rồng” ở Đông Nam Á( gồm 4 nước là
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore ; rồng là tên gọi các nước hay lảnh thổ mới đang công nghiệp
hóa NIC – Newly Industrializing Countries ) . Nếu kể riêng rẽ thì Saigon -TP HCM năm 1995 , đã có cơ cấu kinh tế tương tự của những nước có thu nhập cao trên thế giới ( nông lâm ngư
nghiệp : 3% , công nghiệp và xây dựng: 42%,
dịch vụ 55% ). Còn Đồng Nai có cơ
cấu kinh tế của các nước có thu nhập trung bình ( 12 % , 37 % và 51 % ) . Cơ cấu
kinh tế Đồng Nai, năm 2009, dù ở thời điểm Việt Nam phát triễn suy thóai như mọi
nước trong vùng, vẫn ở mức tăng trưởng 9
% và đạt tỉ lệ 10% ở nông lâm ngư nghiệp,
40% ở công nghiệp – xây dựng, 30% ở dịch vụ . Chín tháng đầu năm 2009 đã tạo
ra hơn 85 000 công ăn việc làm, đưa mức lợi tức trung bình mỗi đầu người lên đến 1403 đô la Mỹ, hạ tỉ số gia đình nghèo
khổ xuống mức 6.9 %; chiếm 4 % GDP tòan quốc và đứng hạng 5 đóng góp vào ngân sách quốc gia.
Thập niên 1990,
Việt Nam
thiết lập những vùng hành chánh đặc biệt
để thu hút đầu tư ngọai quốc trực tíếp, khích lệ xuất khẩu, khuyến khích
đầu tư đồng đều hơn khắp xứ sở. Đó là những
công viên hay vùng công nghệ-industrial parks, industrial zones, có anh
giới địa lý định sẳn, đúng theo các luật lệ điều hành chánh quyền
ban hành và thường chứa nhiều đặc
ân dành cho đầu tư . Gồm 4 lọai : * vùng công nghệ- Industrial zones là những khu vực đặc thù chuyên chế tạo – manufacturing sản phẩm công nghệ và cung cấp dịch vụ cho công nghệ chế tạo; *vùng chế xuất -
Export Processing zones chuyên môn sản
xuất những hàng hóa xuất khẩu ; * mới gần đây là vùng công nghệ cao kỷ tri
thức- High Tech zones chuyên môn làm
khảo cứu, phát triễn và ứng dụng cao kỷ: * vùng Kinh tế- Economic zones . Khích lệ là miễn thuế một thời
gian – tax holidays, giảm bớt thuế lợi tức
tổ hợp ,gác lại thuế quan và thuế đánh trên đầu vào sản xuất và nhà máy và
những tỉ xuất ưu đải tiền thuê đất đai.
Chắc chắn là các vùng này đã đóng một vai trò quan trọng phát triễn sản xuất địa phương và thu
hút đầu tư ngọai quốc. Đến cuối năm
2008, Việt Nam đã thiết lập 219 vùng đặc
biệt này, thu hút trên 16 tỉ đô la dự án
tư bản đầu tư trực tiếp. Công nghệ điển hình là tơ sợi, áo quần, điện tử, nhựa dẽo – plastics và chế biến
nông phẩm. Riêng trong năm 2008, 49 vùng công nghệ mới đã được thành lập ở vùng
phát triễn trọng điểm kinh tế phía Nam ( gồm thêm tỉnh Bình Dương ,
ngòai tam giác tăng trưởng) , tổng diện tích là 15 675 ha và 8
vùng cũ đang được nới rộng, tăng
thêm 2 810 ha. Ở tam giác tăng trưởng “
đất hứa” , tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu dẫn đầu
tòan quốc, thu hút 4.5 tỉ đô la đầu
tư ngọai quốc năm 2008 và tỉnh Đồng Nai thu hút
1.01 tỉ. Năm 2000, tỉnh Đồng Nai đã
xây dựng 14 khu công nghệ .
Thúc
đẩy tăng trưởng nhờ thiết lập, hình
thành các công viên vùng công nghệ, khu chế xuất…
Sau đây là tóm tắt tình hình 8 khu- công viên công nghệ điển hình tỉnh Đồng
Nai, tính đến tháng 5 năm 2011:
1- Vùng
công nghệ I Biên Hòa, ở phường An
Bình thị xã Biên Hòa, cách thành phố Sài Gòn 25 km về phía Đông Bắc, cách thị xã Vũng
Tàu 90km. Diện tích 335 ha, trong đó diện tích cho thuê là 231 ha, đã cho thuê hết 100%. Hạ tầng cơ sở đã làm xong tất cả đường
xá giao thông nội khu, mọi mương hào
thóat thủy, có một trạm biến điện 125 MVA
từ mạng lưới điện quốc gia, nhà máy nước Thủ Đức cung cấp 25 000 m3 một ngày, thông tin và
viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy làm sạch phế thải chất
lỏng và mọi cơ sở công cọng dịch vụ hòan tất. Hiện có 90 dự án, tư bản đăng ký lên trên 326 triệu đô
la Mỹ. Đầu tư ở các lảnh vực: chế biến thực phẩm, hóa chất,vật liệu xây dựng,
cơ khí, điện tử, giấy và dịch vụ.
2- Vùng công nghệ II Biên Hòa, ở
phường Long Bình , thị xã Biên Hòa, đối diện vùng công nghệ I Biên Hòa. Diện
tích 365 ha, trong đó có 261 đất cho
thuê, đã cho thuê hết 100 %. Hạ tầng cơ
sở cũng đã làm xong mọi đường xá giao thông nội khu và mọi mương hào thóat thủy,
có một trạm biến điện 63 MVA sẽ nâng cấp
lên 80 MVA từ mạng lưới điện quốc gia,
nhà máy nước Biên Hòa cung cấp 15 000 m3 một ngày, thông tin và viễn
thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy trị liệu phế thải chất lỏng
cho tòan vùng công xuất ở giai đọan1 là
4 000 m3 /ngày . Hiện có 126 dự án, tổng cọng tư bản đăng ký
là 1396 triệu đô la Mỹ. Lảnh vực đầu tư gồm: sản phẩm, nông phẩm và chế biến thực phẩm, áo quần và tơ sợi, châu
báu nữ trang, hàng mỹ nghệ, giày dép, đồ
ăn mặc thể thao, gói ghém cao phẩm, các sản phẩm công nghệ từ cao su thiên
nhiên, sành sứ, gương, xưởng ráp hàng điện tử, đồ phụ tùng cho computer, các bộ
phận điện tử, chế tạo mọi lọai dây điện, mọi vật dụng điện, vật liệu xây dựng
cao cấp, chế biến gỗ điêu khắc, chạm trỗ đồ gỗ, các phụ tùng xe hơi và xe gắn
máy, xưởng ráp xe hơi và xe gắn máy, các
sản phẩm ngành dược các dụng cụ y khoa và thuốc ta từ cây cỏ, hột PVC và hàng
hóa chất nhựa dẻo, các bộ phận cơ khí và kim lọai máy móc và trang bị công nghệ.
Khu Công Nghệ Gò Dầu |
3
- Vùng
công nghệ Gò Dầu, ở làng Phước Thái, huyện Long Thành. Diện tích 136,7 ha,
diện tích cho thuê 116.3 ha ( không kể
120 ha công Ty Vedan đã thuê ), chỉ mới cho thuê đất 85.08 %. Đường xá và mương hào hạ tầng cơ sở đã hòan tất,
cũng như trạm biến điện 40MVA từ mạng điện
quốc gia, đã xây cất nhà máy nước dung tích 10 000 m3 / ngày, thông
tin viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc, đã xây cất nhà máy trị liệu
chất lỏng phế thải, dung tích 1000 m3 / ngày. Hiện có 14 dự án, tư bản đăng ký là 370 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm vật liệu
xây dựng,bộ phận cơ khí, chế tạo và sửa chửa các máy móc – trang bị xe cộ, tơ sợi,áo quần, nhuộm, các đồ điện và điện tử, các hóa chất
công nghệ và nông nghiệp, thực phẩm, các chế biến thực phẩm và nông phẩm, và
công nghệ khác không làm ô nhiễm nặng nề.
Khu Công Nghệ Amata |
4- Vùng
công nghệ Amata, ở phường Long Bình, thị xã Biên Hòa. Diện tích 410 ha,129 ha cho giai đọan 1. Diện tích đất cho thuê
là 100 ha và đã cho thuê 90 ha. Tiền thuê đất thay đổi tùy loại công nghệ ; giảm
bớt cho công nghệ sử dụng diện tích lớn và
hay cao kỷ .Về hạ tầng cơ sở đã
hòan tất mọi đường xá nội vùng và mương hào thóat thủy; đã có trạm biến thế 40 MVA, đang
xây dựng nhà máy điện cho tòan vùng Amata
công xuất 120 MVA ; nhà máy nước
dung tích 30 000 m3 / ngày, thông tin và viễn thông thuận tiện đến
khắp nước và ngọai quốc. Có một nhà máy trị liệu chất phế thải lỏng dung tích
1000 m3/ ngày. Hiện có 46 dự
án, tư bản đăng ký lên đến 320 triệu đô la . Lảnh vực đầu tư gồm computer và
các bộ phận, thực phẩm và chế biến thực phẩm, chế tạo hay ráp các sản phẩm điện
, cơ khí và điện tử, sản phẩm da, áo quần, len, giày dép, nữ trang châu báu,
hàng mỹ phẩm, phấn son, dụng cụ thể thao , sản phẩm plastics, gói ghém, các sản
phẩm công nghệ từ cao su thiên nhiên, sành sứ, guơng kiếng, thép xây dựng, công ten nơ thép, đồ phụ tùng xe hơi, chế tạo
xe hơi, hóa chất cho bê tông, thực phẩm và chế biến thực phẩm, tơ sợi, nhà máy
xay bột mì, mì ăn liền, các hàng tiêu thụ khác, tu bổ máy kéo ( máy cày ), sơn
cao cấp mọi lọai, các chất dính công nghệ, chai đựng khí dầu, khăn vệ sinh,
khăn bàn, lưới cá, hóa chất : sợi PE, hột plastics, bột màu công nghệ, dược phẩm,
dược liệu cây cỏ, thuốc bảo vệ mùa màng, các thành phần bê tông ép trước, bê
tông tươi.
5- Vùng công nghệ Loteco, cũng ở phường Long Bình, thị xã Biên Hòa. Diện
tích giai đọan 1 là 100 ha, kể cả 40 ha
dành cho khu chế xuất tương lai. Đất cho thuê là 72 ha, đã cho thuê 72 ha (
49.01 % ). Về hạ tầng cơ sở đã hòan tất mọi đường xá nội vùng, mương hào thóat
thủy; đã có nhà máy điện công xuất 3.2 MW, 6MW từ mạng lưới quốc gia và sẽ thiết
bị thêm cho đến 40 MW;
được cung cấp nước 6000 m3 / ngày, thông tin
viễn thông thuận lợi khắp nước và ngọai quốc, có nhà máy trị liệu chất thải lỏng
dung tích 1500 m3 / ngày. Hiện có
22 dự án, tư bản đầu tư đăng ký lên đến 151 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư
gồm: thiết bị điện tử computers và ngọai vi, chế tạo và ráp các sản phẩm cơ khí,
điện và điện tử, dây, cáp, chế tạo các phụ tùng xe hơi và các phương tiện
chuyên chở khác, chế tạo xe mô tô và phụ tùng công nghệ tơ sợi và áo quần, đồ
da, giày dép, sản xuất và chế biến thực phẩm, dụng cụ quang học, đá qúi, mỹ nghệ,
phấn sáp, dụng cụ thể thao và đồ chơi trẻ
em, dụng cụ y khoa, sản phẩm plastics và
kim lọai , dụng cụ gia dụng, đồ sành sứ-
gương kiếng và pha lê, dụng cụ cơ khí chính xác, thép xây dựng, ống thép, vật
liệu xây dựng guơng kiếng xây dựng và khắc chạm nổi – relief glass, sản
phẩm cho tàu đi biển , đồ gói ghém mọi kiểu, dụng cụ thông tin, kỷ thuật sinh học, thuốc men cho người và cho súc vật, công nghệ
giấy ( ngọai trừ bột giấy ) chế biến gỗ
nội địa hay gỗ nhập khẩu, kỷ thuật in, dụng cụ máy móc và sản phẩm cho các nhà
máy trị liệu phế thải công nghệ, hóa chất cho
các doanh nghiệp sản xuất dùng ở
các vùng chế xuất hay vùng công nghệ khác.
khu Công Nghệ Loteco |
6- Vùng công nghệ Hố Nai, ở làng Hố Nai và
Bắc Sơn, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Diện tích 523 ha , 230 ha cho giai đọan 1. Đất cho thuê 145.94 ha, đã cho thuê 83.65 ha ( 57.32 % ). Về hạ tầng cơ sở đã có
điện đến 150 KVA, thông tin và viễn thông thuận tiện khắp nước và ngọai quốc. Đầu
tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ hệ thống điện, nước, viễn thông, thóat thủy,
trị liệu chất phế thải. Hiện đã có 66 dự
án, tổng số tư bản đăng ký trên 219 triệu
đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: công nghệ
may mặc, ráp các thành phần điện và điện
tử, ráp xe hơi và xe mô tô, xe gắn máy, công nghệ mùi vị, hóa chất phấn sáp, vật
liệu xây dựng, dụng cụ trang trí nội gia, đồ gỗ, dụng cụ điện gia thất, dịch vụ
ngân hàng, bưu điện, nhà kho và xây cất nhà máy cho thuê.
Quy Họach KCN Sông Mây |
Đầu tư đang tiến triễn song song với hòan tất đồng bộ hệ thống điện, nước, viễn thông, thông tin, thóat thủy, trị liệu phế thải. Hiện đã có 19 dự án, tư bản đầu tư đăng ký 190 triệu đô la. Lảnh vực đầu tư gồm: chế tạo cơ khí, ráp sản phẩm điện tử, chế biến thực phẩm, dược phẩm, đồ da, áo quần.
8-
Vùng công nghệ Nhơn Trạch 1 (
còn có tên là Tuy Hạ A ), ở làng Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Diện tích 430 ha. Đất cho thuê 323 ha.
Đã cho thuê 213.72 ha ( 66. 16 % ). Về hạ tầng cơ sở, đã hòan tất đường xá nội dịa và mương hào; thông tin và viễn thông thuận tiện
đi khắp nước và ra ngọai quốc, đã có một trạm biến điện phụ 110KV/220KV công xuất
56 MVA, có một nhà máy bơm nước ngầm cung cấp
4500 m3 / ngày, sẽ nâng cấp cung cấp 15 000 m3 /
ngày, đã có nhà máy trị liệu chất phế thải lỏng, dung tích 4000 m3 /ngày.
Hiện có 47 dự án, tư bản đầu tư đăng
ký 449 triệu đô la , trong số này 17 dự
án đã họat động, 5 đang xây cất và 10
đang sửa soạn.
Lảnh vực đầu tư gồm: vật liệu xây cất, cơ khí, dụng cụ cơ khí chính xác sản xuất và sửa chửa
máy móc xe cộ, dụng cụ , tơ sợi , áo quần , nhuộm, các đồ điện và điện tử,
hóa chất công nghệ, nông nghiệp và thực
phẩm chế biến thực phẩm và sản phẩm nông
nghiệp, các công nghệ khác không gây ô nhiễm nặng nề.
KCN Nhơn Trạch |
Tính đến tháng 30 tháng 8 năm 2010 ,
theo Bồ Ngọc Thụ , giám đốc Qui họach và Đầu tư ở tỉnh Đồng Nai ,
trả lời các phỏng vấn của các phóng
viên Tin Tức Kinh tế Việt Nam – Việt
Nam Economic News, tỉnh Đồng Nai đã
có 981 dự án ngọai quốc đầu tư trực tiếp ( FDI ), tổng số
tư bản đăng ký là 18.37 tỉ đô la Mỹ . Khỏang
89.85 tỉ trong thời gian 2006 – 2010. Cho đến nay , có 32 quốc gia hay lảnh thổ
đầu tư vào Đồng Nai, theo thứ tự dẫn đầu là Đài Loan ,
Hàn Quốc, Nhật Bổn, các quốc gia
Đông Nam Á – ASEAN, hiệp Hội Âu
Châu và Hoa Kỳ . Âu Châu và Hoa Kỳ đã Đầu tư Trực tiếp – FDI hơn 11. 4 tỉ thời
gian 2006- 2010, cao hơn qui họach dự liệu
chỉ 5 tỉ mà thôi. Trước năm 2006, đa số các dự án FDI đầu tư vào
khu vực công nghệ. Thế nhưng sau 2006, các dự án dịch vụ và cao kỷ đã gia tăng, đúng theo
sách lược ưu tiên đầu tư vào tỉnh
nhà.
Các
nước Đông Nam Á đặc biệt đầu tư vào 113 dự án ở tỉnh Đồng Nai, nghĩa là 11.5%
tổng số dự án ở tỉnh nhà, tư bản đăng ký 3. 4 tỉ đô la , chiếm 18.13 %
tổng số. Cả thảy có 99 doanh nghiệp ASEAN làm nghiệp vụ trong tỉnh, tổng số đầu tư trị giá 1.7 tỉ ( chiếm
51.7 % tổng số tư bản đăng ký ) và sử dụng 26 500 lao động. Doanh nghiệp tên
tuổi là CP Việtnam Co.Ltd, Amata Vietnam Joint stock Company, TPC Vina Plastic and Chemical Co. của Thái
Lan, Hualon Vietnam, Betjara –D2D của Mã Lai Á, Haiyatt Vietnam Co . Ltd của Singapore, San
Miguel của Phi luật Tân, UICViệtnam của
Inđônêxia, và Roam Riva Chiung của Brunei. Các hảng ASEAN thích nghi mau lẹ nhất hiểu biết
các thủ tục doanh nghiệp tại Viêt Nam ,cho nên thành công ở tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên các doanh nghiệp FDI tại Việt
Nam đa phần có quy mô nhỏ, định hướng xuất
khẩu và tỉ xuất lợi nhuận thấp, chủ yếu làm
thầu phụ cho các công ty đa quốc
gia lớn hơn và do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của chuổi giá trị sản phẩm
Diều tra cho biết các doanh nghiệp
FDI chỉ tiêu thụ một lượng hàng hóa nhỏ và dịch vụ trung gian nội địa, có đến 54
% nguyên vật liệu được FDI nhập khẩu
do vật hiệu ứng năng lực công nghệ và kỷ
năng quản lý bị hạn chế , không mấy kích thích sản xuất trong nước . Do đó
chiến lược phát triễn kinh tế nước nhà,
cũng như riêng tỉnh Đồng Nai, dựa nhiều
vào FDI sẽ không bền vững. Cần sửa đổi theo hướng hội nhập tốt, nghĩa là
thu hút FDI chất lượng cao để phát huy nội
lực, nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước ( FCI ), kiến tạo
môi trường kinh doanh lành mạnh, sử dụng thông minh hơn các nguồn lực sẳn có ….
Những tiến triển ưu, khuyết điểm
vài công nghệ then chốt, còn
ít lạm bàn
Chúng tôi đã lạm bàn khá nhiều về phát
triễn công nghệ nguyên liệu nông lâm ngư và công nghệ tơ sợi may mặc nước nhà ở các làm bàn về một số tỉnh,
trong 63 tỉnh nước nhà. Nay chỉ lạm bàn thêm về vài lĩnh vực công nghệ liên
quan đến tỉnh Đồng Nai, ít khi được nói đến .
* Công nghệ cơ khí mà nhản hiệu điển hình là VIKINO, thành lập năm 1967, thuộc vùng công nghệ I Biên Hòa, trước năm
1975, chủ yếu ráp các bộ phận máy cày nhỏ kiểu Kubota, Nhật Bổn, nhưng đã chuyễn
đổi mạnh cơ cấu từ 1975 đến nay để trở
thành một công ty cơ khí máy móc chế tạo nông cơ ( nông cụ cơ giới) hạng nhất
nước nhà . Đặc biệt là sản xuất các lọai động cơ diesel từ 6 đến 30 mã lực theo kỷ thuật tân
tiến nhất của Nhật và hiện đang cố gắng họa kiểu, phát huy R&D, sản xuất, giao hàng, sửa chửa hậu
cung cấp, một động cơ hiệu năng hơn, sạch phát thải hơn, không những cho Việt
Nam và khắp các nước ASEAN . Việt Nam hiện
có 3100 doanh nghiệp công nghệ cơ khí
- mechanical engineering industry, quốc doanh, tư doanh và công ty
FDI. Chỉ gần phân nữa các công ty này là các công ty lớn chế tạo, ráp máy móc và thiết bị. Tư bản quốc
doanh chiếm 380 triệu đô la Mỹ; tư bản
các công ty FDI là 2.1 tỉ đô la. Công ty
FDI đầu tư chủ yếu về ráp xe hơi, xê mô
tô, xe gắn máy và các đồ gia dụng. Ưu
tiên phát triễn dành cho 8 khu vực sau đây:
các động cơ sản xuất tòan diện thiết bị- giàn sản xuất; máy móc cho sản
phẩm nông nghiệp, dụng cụ làm máy móc, máy móc xây dựng, công nghệ đóng tàu,
thiết bị điện và điện tử công nghệ xe
hơi và công nghệ chuyên chở. Các công ty
Việt Nam đã bước nhanh hướng về khả năng chế tạo các sản phẩm cơ khí. Trong thời
gian 2001- 2007, mức tăng trưởng trung
bình là 22 % và đã
thõa mãn 40 % yêu cầu nội địa. Sản xuất mỗi năm 150 – 185 000 động cơ diesel, 100- 135 000 motor điện, 33-
50 000 máy biến điện, 8000 dụng cụ máy
móc … Đồng thời các công ty công nghệ cơ khí Việt Nam luôn luôn góp sức
ở những dự án công nghệ quan trọng như làm nhà máy xi măng , các nhà máy nhiệt điện hay thủy điện, nhà máy
lọc dầu Dung Quất, cơ xưởng đóng tàu thủy và nhiều công nghệ khác. Nhưng ngành công nghệ này chỉ cạnh tranh được với
những công tác phần lớn đơn giản như hàn xì , làm các cơ cấu khung hay không phải là tiêu chuẩn thép. Ngành công nghệ xe hơi và
đóng tàu thủy là những thí dụ tốt đẹp
cho khu vực này. Các chuyên gia nhìn thấy yếu kém ở mọi mức độ
khác về đóng góp vào phát triễn của công
nghệ địa phương ở những khu vực như
đúc, rèn, tạo ra bán sản phẩm lớn,
trị liệu bằng nhiệt , trị liệu mặt bằng
và chế tạo các sản phẩm phẩm giá tiêu chuẩn cao . Những
thừa tố các công ty công nghệ cơ
khí cần khắc phục hầu cạnh tranh quốc tế được gồm những nhược điểm sau đây: nhiều
máy móc trang bị với những kỷ thuật rất
xưa cũ, thiếu thông tin và khả năng cọng táctrong nước, thiếu tin tưởng vào phẩm giá các sản xuất trong nước, các
công ty chuyễn về hướng kinh tế thị trường quá chậm chạp
không đủ khả năng cạnh tranh
trên một thị trường tòan cầu canh
tranh nhau rất lớn, thiếu tư bản đầu tư vì các công ty thường không muốn lảnh trách
nhiệm làm đầu tư tư bản lớn hơn, thiếu thông tin thị trường quốc tế. Nhập khẩu máy móc vào Việt Nam tăng từ 748 triệu
đô la năm 1986 lên đến 21.5 tỉ năm 2008.
Máy móc Việt Nam xuất khẩu tăng từ 1.86 tỉ
năm 2008, 2.003 tỉ năm 2009 và 2. 4 tỉ (
? ) năm 2010. Chứng tỏ dù sao đi nữa
công nghệ cũng có nhiều tiến bộ .
Sản xuất bản mạch in điện tử tại Nhà máy Fujitsu VN, KCN Biên Hòa |
*
công nghệ điện tử , mà điển hình là công ty Fujitsu Computer Products of Việtnam, Inc., ở
vùng công nghệ II Biên Hòa, có nhà máy PCBA làm chip ( vi xủ lý ) cao tốc, rất chính xác và họat động không ngừng. Công nghệ
điện tử đã xuất hiện ở Việt Nam kể
từ thập niên 1975, khi hảng Sanyo mở nhà máy ti vi và rađiô, nay là công ty Vietronics
Biên Hòa dưới hình thức một thỏa
hiệp môn bài- licence agreement. Nhưng sau “ Đổi Mới” ( 1986 ) công nghệ mới thật tăng trưởng có ý nghĩa. Vào thập niên 1990, một lọat công ty liên
doanh với các công ty ngọai quốc được thiết lập. Nhũng năm gần đây, càng ngày
càng nhiều công ty ngọai quốc đã thiết lập
các chi nhánh ở Việt Nam . Tỉ như Canon Vietnam Co. Ltd, Fujitsu
Viêtnam Ltd hay Intel Product Vietnam
Co. Ltd. Cũng như ngành công nghệ cơ
khí, ngành công nghệ điện tử có lập ra một kế họach phát triễn tòan bộ đến năm
2010 và các viễn cảnh dự tính đến năm 2020 theo quyết địn chánh phủ ban hành ngày 28
tháng 5 năm 2007 số 875/2007/QĐ-TTg. Các mục tiêu là: sản xuất đồ điện tử
các địa phương trong nước phải đạt trị giá 4,6 tỉ đô la Mỹ, xuất khẩu đồ
điện tử lên đến 3- 5 tỉ đô la, tạo ra
300 000 công ăn việc làm, mức tăng trưởng hành năm là 20- 30% . Thật tế
, theo Business Monitor International , sản xuất đồ điện tử ở Việt Nam là 1.770 tỉ năm 2006, 2.2 tỉ năm 2007, có thể
là 4.451 tỉ năm 2010 và 5,510 tỉ năm
2011, có thể đến 10. 722 tỉ năm 2014. Theo
các báo cáo Bộ Công Nghệ và Thương Mãi Việt
Nam , năm 2009, Việt Nam đã
xuất khẩu 2. 76 tỉ đô la ,tăng 4, 8 % so
với năm 2008; thị trường xuất khẩu chánh là Hoa Kỳ , Nhật , Thái Lan và Trung
Quốc. Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu 3.95 tỉ đô la, tăng
6.5 %; các công ty FDI ngọai quốc là các
nhà nhập khẩu chính yếu, trị giá lên đến 2, 55 tỉ. Các đồ điện tử xuất nhập là các máy computers,
các linh kiện điện tử và các bộ phận. Chiếu theo các chuyên viên quốc tế, ngành điện
tử Việt Nam sử dụng những kỷ thuật và thiết bị lạc hậu.
Việt Nam vẫn còn ở giai đọan 1 ( nghĩa
là nhập khẩucác bộ phận và ráp theo yêu cầu nội địa ), trong khi các quốc gia khác trong vùng ( Thái Lan,
Singapore, Mã Lai Á, Inđônêxia và Phi Luật
Tân ) đã đến giai đọan 3 ( R&D, cao
kỷ - high tech hướng về xất khẩu ). Khả năng công nghệ điện tử nước nhà chỉ chủ yếu giới hạn vào lắp ráp, thiếu hẳn một khu vực hổ trợ đã phát triễn cung cấp cho nhà máy lắp ráp những thành phần, bộ phận cần thiết.
Thế cho nên các công ty địa phương khó lòng cạnh tranh thắng lợi các nhãn hiệu
ngọai quốc. Thị trường linh kiện điện tử ước lượng sẽ tăng 13% mỗi năm cho đến
năm 2014 , các khu vực chủ yếu là các đồ cầm tay – handsets giá rẽ, các computer
sổ tay – note book computers và các máy ti vi LCD. Tuy nhiên rất nhiều công ty các
nước tiên tiến đã phát triễn, càng ngày càng
xem Việt Nam như thể là một thay thế
nhiều sức thuyết phục so với
Trung Quốc . Các công ty Việt Nam
thường thiếu hiểu biết – know how , kỷ thuật và tư bản so với các công ty họat động mạnh mẽ quốc tế
Âu Châu, Hoa Kỳ… Mặt khác, phí tổn lao động ở các công ty Âu –
Mỹ rất cao, nên khó lòng cạnh tranh ở thị
trường tòan cầu. Cơ cấu phí tổn các công ty Việt Nam đầy sức hút dẫn, không thua kém
Trung Quốc gì hết. Ưu diểm của Việt Nam ở rất nhiều vị
thế , vì Việt Nam cung ứng lao động
phẩm giá cao hơn. Việt Nam
cũng bảo vệ tốt tác quyền trí thức hơn là tại
các quốc gia khác trong vùng.
Công nghệ hạ tầng cơ sở ( công nghệ
dịch vụ )
a-
Xây
đường hàng không và đường bộ cao tốc
Về hàng không dân sự, từ năm 1998
Cơ Quan hàng không dân sự được
chia ra làm 3 công ty công cộng để phụ trách xây dựng các
công tác quản trị tổng quát và xây cất
các phi cảng: Cơ quan Phi Cảng miền Bắc ở Hà Nội . Cơ quan Phi Cảng miền Trung ở Đà Nẳng và Cơ quan Phi cảng ở Thành Phố HCM- Sài Gòn. Việt Nam hiện
có 23 phi cảng, 6 ở miền Bắc, 8 ở miền
Trung và 9 ở miền Nam. Số phi cảng quốc tế đã được dần dần tăng lên 9 và nâng cấp mức dịch vụ trong nước và ngòai nước. Các phi cảng
quan trọng nhất là phi trường quốc
tế Nội Bài ở Hà Nội, phi trường quốc tế
Tân Sơn Nhất TP HCM , phi trường quốc tế Đã Nẳng , phi trường quốc tế Cam Ranh ỏ hai tỉnh Khánh Hòa – Ninh Thuận và phi trường Cát Bi ở TP Hải Phòng. Còn 4 phi trường xếp hạng quốc tế khác
là Cần Thơ , Chu Lai, Đà Lạt và Huế,
nhưng chúng ít quan trọng hơn vì đườ ng
bay ngắn hơn. Cơ cấu
hạ tầng các phi cảng chưa phát
triễn thích nghi, không đủ khả năng thỏa mãn
mức hành khách và hàng hóa tăng mau lẹ trong những năm tới. Hiện di chuyễn
hành khách hàng không là 33 triệu, dự trù sẽ tăng lên đến 82 triệu( ? ) năm
2020. Năm 2010, Việt Nam đã được Nhật chấp thuận tài trợ
xây cất phi cảng quốc tế và nội vùng Long Thành, dự
án thiết lập từ năm 2006, thay cho phi cảng Tân Sơn Nhất đã
quá tải. Khi hòan tất, phi cảng Long
Thành có khả năng chuyên chở tối đa mỗi năm 80 – 100 triệu hành khách và 5 triệu tấn hàng hóa tổng cộng. Phi cảng rộng 6 000 ha và sẽ có 4 đường bay dài 4000 m
x 60m. Giai đọan 1 cần có đầu tư khoảng
4 tỉ đô, gồm hòan tất các ga-
terminals và 2 đường bay song song. Hầu đạt khả năng chuyễn dịch đến 30 triệu hành khách vào năm 2015 . Hai đường bay sẽ giúp cất cánh hay hạ cánh
cùng lúc, ngay cả các phi cơ siêu jumbo A 380 và Boeing 747 .
Về đường bộ, ngòai xa lộ số 51 đã hòan tất,
chánh quyền đang cố sức thực hiện hai xa lộ cao tốc – expressway để dễ
dãi chuyễn dịch hà khách tới và di khỏi
phi cảng quốc tế Long Thành. Đó là xa lộ cao tốc TP Hồ chí Minh - Long Thành - Dầu Giây ( Dầu Giây
là mối nối trước đây của quốc lộ 1 với Quốc lộ 20 đường lên Lâm Đồng Tây
Nguyên- Bảo Lộc – Đà Lạt) có 10 lằn , nối Long Thành với TP HCM. Xa lộ cao tốc này dài 55 km
tổng phí 932 triệu đô la đà được
JICA- ODA và ADB- OCR cho vay thực hiện. Xa lộ cao
tốc thứ hai Biên Hòa – Vũng Tàu , có
8 lằn sẽ nối thị xã Biên Hòa với thị xã Vũng Tàu.
b- Công nghệ Thông Tin ( IT )
Như đã kể trên , tỉnh Đồng Nai đã góp
phần xây dựng công nghệ thông tin Việt Nam với Fujitsu , Canon v.v…
Công nghệ Thông Tin là một trong
bốn công nghệ trọng điểm ( cơ khí, điện tử -thôngtin, hóa chất- nhựa cao su,
tinh chế biến lương thực thực phẩm ) Việt Nam đang cố tâm phát triễn, nhưng vẫn còn phôi thai lắm. Ngành này hiện sử dụng 200 000 nhân viên hoạt động phần cứng
– hard ware, phần mềm – software và doanh vụ có chứa kỷ thuật số - digital content. Trong số này 15 000 người được xem là chuyên môn xuất sắc. Việt
Nam có 500 hảng phần mềm tích cực, gồm luôn 19 công ty liên doanh – joint
ventures , sử dụng tổng cọng 57 000
nhân viên. Khỏang 300 công ty
liên hệ đến nguồn ngọai – outsourcing. Đa số công ty kích thước
nhỏ với 10- 50 nhân viên cung cấp các ứng
dụng căn bản trang web, tìm giải pháp đặc thù cho khách hàng và làm cố vấn IT (
công nghệ thông tin ). 20 công ty đầu sổ có 100- 500 nhân viên.
Khỏang
40 công ty đã có các
văn bằng phẩm giá quốc tế tỉ như
ISO 9001, ISO 27001 và chừng 20 công ty
đã có văn bằng Kiểu Mẩu Khả năng Trưởng Thành – Capability Maturity
Model ( CMM ) mức 3, 4 hay 5. Các hảng dẫn đạo nguồn ngọai là FPT Software
, CSC, TMA, Lạc Việt , CMC,Tinh Vân.
Khách hàng chánh là từ Nhật Bổn, Hoa Kỳ , Úc Châu và Hiệp hội Âu Châu – EU. Năm 2000, tổng số lợi tức cho công nghệ phần mềm chỉ mới đạt 50
triệu đô la, nhưng năm 2009 đã lên đến
880 triệu đô la, với một tĩ xuất tăng trưởng vững chắc khỏang 20-25 % một năm.
Tổng
số lợi tức công nghệ thông tin IT năm
2009 là 6. 26 tỉ đô la Mỹ, tăng 20 % so với năm 2008. Phần cứng góp phần lớn nhất về tăng gia này, chiếm 75
%. Công nghệ phần cứng Việt Nam
sử dụng 110 000 nhân viên năm 2008, đa số họat động chánh ở ngành điện tử và
ráp máy computer. Các công ty quốc tế công nghệ thông tin ICT tỉ
như Intel, IBM, Cisco Nortel, Compaq,
Hewlett- Packard, Sony, Fujitsu, Hitachi, Canon, Daiwa, Fuji, NTT, Panasonic, NEC, Foxcom, Compal, Hon
Hai, đã có nhà máy ở Việt Nam. Hiện Việt
Nam
có trên 30 nhà máy ráp computers .
Việt Nam nhắm mục đích trở thành một quốc
gia công nghệ thông tin mạnh mẽ vào năm 2015, đặt mục tiêu tổng lợi tức ngành chiếm 17- 20% GDP.
53 triệu đô la sẽ được chi tiêu đạo
tào nguồn nhân lực phát triễn IT nước nhà. Việt
Nam nhắm đào tạo 1 triệu kỷ sư IT và 23 công viên cao kỷ vào năm 2020. Hiện đã
có 10 công viên cao kỷ họat động, một số ở tỉnh Đồng Nai như đã kể trên.
Vì lạm bàn phát triễn cho tỉnh Đồng
Nai đã quá dài và vì ở những lảnh vực
khác như công nghệ viễn thông( đạt tiến bộ đáng kinh ngạc những năm gần đây;
năm 2009 sau 2.1 tỉ đô la đầu tư vào hạ
tầng cơ sở 3G, dịch vụ cần thiết cho internet di động, gọi viđêô –
viodeo call và Ti vi di động- mobile TV đã có
13 triệu người thuê – subcribers đăng ký, nhưng
IBM cho biết thật sự chỉ mới có
100 000 nguời thuê mướn … ), công nghệ xây cất và bất động sản, thuơng xá tân tiến, khu gia cư cận đại, công nghệ Âu dược
và Nam dược, hóa chất, dụng cụ y khoa, ngân hàng, bảo hiểm v.v … không chỉ tỉnh
Đồng Nai mới đặc sắc, trội hẳn lên … nên chúng tôi sẽ có cơ hội lạm bàn những kỳ tới . Ai muốn biết thêm hiện trạng,
xin tham khảo tài liệu 2010 Report on ViêtNam của các Cố Vấn
Kinh tế và Thương Mãi Hiệp Hội Âu Châu, trình bày tháng 6 năm 2010 ở Hà Nội.
( Irvine ngày 9 tháng 6 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét