Tương lai điện hạt nhân – nguyên tử :
Ý niệm
và kiểu mẫu đầu tiên
G
S Tôn Thất Trình
1- Nhà
máy điện hạt nhân (nguyên tử) an tòan thế hệ thứ ba AP1000 của Hoa Kỳ ?
Năm 2009, Quốc hội Việt Nam chấp thuận làm 2 nhà máy điện hạt nhân-nguyên tử ở tỉnh Ninh Thuận , công xuất 4 tua bin của
hai nhà máy là 4 triệu KW , lớn gần gấp đôi nhà máy thủy điện thấp Sơn La ( 2, 4 triệu KW) hay hơn hẳn đập
cao Sơn La ( dự trù 3,6 triệu KW) có lẽ
phải nâng cấp tương lai chăng ? Tổng phí 10.8 tỉ đô la Mỹ. Hình như với kỷ
thuật thế hệ thứ ba của Nga ? Và sẽ khởi công xây cất nhà máy đầu tiên năm 2014- 2015, dự trù hòan tất năm 2020 ? .
Sau 30 năm kể từ khi các nhà điều hòa Hoa Kỳ cuối cùng chấp thuận xây cất một nhà máy mới điện hạt
nhân, các kỷ sư đã cải thiện mạnh mẽ
mức an tòan các lò phản ứng. Các
nhà máy Thế hệ thứ Nhất – Generation I plants là những nhà máy kiểu
mẩu đầu tiên - prototypes . Các nhà
máy Thế hệ thứ Hai – Generation IIs
được xây cất từ thập niên1960 đến
thập niên 1990, gồm luôn cả cơ sở các nhà máy điện nguyên tử
Fukushima Nhật, bị động đất ( và có thể cả sóng thần -
tsunami ?) làm hư hại tháng ba năm 2011 vừa
qua. Các nhà máy Thế hệ thứ Ba – Generation IIIs khởi sự hoạt động cuối thập niên 1990, tuy
phần lớn ở Nhật, Pháp và Nga. Khác với những tiền bối, đa số các lò phản ứng-
reactors Thế hệ Ba cọng – Generation
III+ đều có những lớp – layers yếu tố an tòan thụ động họa kiểu để ngăn chặn nung chảy – meltdown , ngay cả trong
sự cố mất điện. Xây cất các lò Thế hệ Ba cọng Generation III+ đang tiến hành tốt đẹp ở Âu Châu . Trung Quốc
đang xây dựng ít nhất là 30 nhà máy
mới điện nguyên tử thế hệ III+ này.
Ở Hoa Kỳ, công ty Southern Company vừa
mới khởi công xây cất các lò Thế hệ
Generation III+ đầu tiên ở Hoa Kỳ , nhà
máy điện hạt nhân Vogtle gần thành phố Augusta , bang Georgia . Lò phản ứng đầu tiên sẽ
hòan tất năm 2016.
Sau tai họa Fukushima , ao ước
có những nhà máy điện hạt nhân xuống thấp
như bong bóng xì vào thời kỳ hậu Chernobyl .
Các nhà điều hòa từ Ý đến Thụy Sĩ, đến
bang Texas ,
Hoa Kỳ đều muốn ngưng xây cất các dự án nhà máy
điện hạt nhân chưa giải quyết. Ủy Ban Điều Hòa Hạt Nhân Hoa Kỳ - US Nuclear
Regulatory Commission( NRC) bắt đầu tái
duyệt xét mức an tòan của mọi nhà máy nội địa Hoa Kỳ. Tuy nhiên, điện
hạt nhân vẫn còn cung cấp 20% tổng số
điện và 70% năng lựợng sạch phát
thải- emissions free energy ở Hoa Kỳ , phần lớn là vi không
có nguồn năng lượng thay thế nào
sánh được hiệu năng của điện hạt nhân. Hoa Kỳ hiện có 104 lò phản ứng hạt nhân họat động
ở 65 vị trí ( nhà máy ) ở 31 tiểu bang; mọi nhà máy đều đã được chấp
thuận trước năm 1980. Một nhà máy có dấu
chân trên khỏang một dặm Anh vuông ( 2.59 km2 hay 259 ha ) cung cấp một số năng lượng tương
đương với 20 dặm Anh vuông ( 5180 ha ) các pannen mặt trời, 1200 máy điện chạy gió – windmills, hay tòan thể đập thủy điện Hoover Dam. Nếu Hoa Kỳ muốn giảm
bớt có ý nghĩa phụ thuộc vào năng lượng
căn bản carbon, Hoa Kỳ cần xây cất thêm nhiều nhà máy điện hạt nhân. Vấn đề là
làm cách nào xây cất nhà máy an tòan.
Phân nữa số 440 lò phản ứng căn cứ trên họa kiểu Westinghouse, Hoa Kỳ. 50 năm bài học họat động điện hạt nhân giúp cho những đặc điểm an tòan thụ động của nhà máy tân tạo 1.150 megawatt ( 1 megawatt=1
triệu kilowatt - KW ) AP1000, lò phản ứng Thế hệ III+ hầu có được cấp giấy công nhận họa kiểu cuối cùng từ NRC. Sau đây là chú thích họa đồ AP1000 đính kèm:
1-
Lỗ thông hơi không khí – Air
vents : Đường ống trên chóp bình ngăn chặn hút không khí nguội lạnh từ bên ngòai. Khi không khí đi ngang qua vỏ bình ngăn chặn, vỏ có thể nóng tới 2120 F (1000
C), nó sẽ tăng bốc hơi làm nguội lạnh và đẩy
nhiệt lượng vào một kênh trên chóp
lò phản ứng.
2-
Thùng nước – Water tank : một thùng nước 3200000 lít
đặt trực tiếp trên vỏ bình ngăn chặn.
Khi có sự cố mất điện, thùng giải tỏa nước xuống phía dưới, làm nguội vỏ bình.
Hệ thống cung cấp 72 giờ làm nguội , sau
đó máy phát điện bơm thêm nước vào.
3-
Phòng vệ khủng bố - Terrorism defense. Sau tấn công 9/11, NRC đòi hỏi
là các nhà máy tân tạo phải được
xây cất chịu đựng được một máy bay đụng húc vào. Khiên mộc phòng vệ xây cất
AP1000 là một bê tông củng cố dày 0.90m
kẹp giữa những tấm thép dày ¾ ngón Anh ( khoảng 14 mm ).
4-
Hồ nhiên liệu tắt- Spent
fuel pools . Cũng như ở các nhà máy
ngày nay , phế thải phóng xạ nằm trong những hồ và được che chở , khiên mộc sau các tường bê
tông dày. Cải thiện an tòan căn bản liên hệ đến
một hệ thống cung cấp nước thụ động,
sẽ tự dộng bật lên khi mất điện.
5-
Làm Ngập Lỗ Trống- Cavity flooding : Làm cho lò phản ứng chìm nhập tropng nước là khẩn thiết để tránh
một nung chảy. Trong một sự cố tai nạn
quan trọng, một nhân viên họat động có thể làm ngập bằnh tay lỗ trống quanh lò phản ựng
6-
Lò phản ứng- Reactor
7-
Máy phát hơi – Steam generator
8-
Khiên mộc xây
cất bê tông- Concrete shield
building
9-
Vỏ bình ngăn chặn – Containment shell
10-
Phòng Kiểm sóat : Trong trường hợp khẩn cấp,
một đội nhân viên 11 người có thể ở an tòan bên trong phòng
kiểm soát của AP1000 trong vòng 3
ngày . Những chai không khí cao áp tạo ra một phân sai áp xuất – a pressure differential giữa phòng và lò phản ứng, không cho bụi phóng xạ và hơi nước lọt vào .
Cũng như 20 cơ sở Generation III+
đang chờ chấp thuận ở Hoa kỳ, nhà máy Vogtle cũng sẽ sử dụng các lò phản
ứng AP1000 Westinghouse. AP100 là một
lò
phản ứng nước nhẹ - light water thúc đẩy
U-235 chạy một phản ứng dây chuyền tung ra những neutron năng lượng cao. Các hạt tử làm nóng nước thành hơi nước – steam , sau đó
hơi nước xoay đẩy một tua bin phát ra điện.
Như chúng ta đã biết nguy
hiểm lớn nhất ở nhà máy điện hạt nhân là
nung chảy – meltdown, trong đó nhiên liệu đặc nóng lên quá độ, làm nung chảy và làm nứt vỡ vỏ bình ngăn chặn thóat ra các vật
liệu phóng xạ. Cũng như mọi lò phản ứng khác, AP1000 được quạt và nước bơm từ
những bơm điện làm nguội lạnh, nhưng lại có một hế thống an tòan thụ động, sử dụng
những lực tự nhiên tỉ như trọng lực, ngưng đặc tụ hơi và bốc hơi để làm
nguội lạnh lò phản ứng khi tắt mất điện.
Đặc điểm chính của hên thống là
một thùng nước 800 000 ga lông, đặt trực tiếp trên vỏ bình ngăn chặn. Các van hồ chứa nước dựa vào điện , để luôn luôn đóng kín . Khi mất điện , các van sẽ mở ra và nước chảy xuống về phía vỏ bình ngăn chặn. Các lỗ thông hơi
hụt thụ động không khí vào từ bên ngòai
và đưa không khí về phía cơ cấu phát huy
thêm bốc hơi làm nguội lạnh.
Tùy theo lọai khẩn cấp, thêm một hồ chứa nữa bên trong vỏ bình ngăn
chặn có thể giải tỏa bằng tay hầu làm
ngập lò phản ứng. Khi nước sôi tỏa ra,
nó dâng lên và ngưng đặc lại trên chóp vỏ bình, và chảy lui xuống để làm nguội
lạnh lò phản ứng một lần nữa . Khác với
những nhà máy hiện hửu, đa số cỏ đử
điện hổ trợ tại chỗ! kéo dài
được từ 4 đến 8 giờ , sau khi điện mạng
lưới tắt mất, AP1000 có thể họat động an tòan
ít nhất là 3 ngày không cần có
điện hay con người can thiệp. Không rỏ nhà máy thứ nhất Thế hệ thứ ba Việt Nam
đặt mua của Nga ( ? ) có hệ thống an tòan thụ động này không ?
2-
Nhà máy điện hạt nhân Thế hệ thứ tư ( ? ): lò phản ứng chạy nhiên
liệu Thorium MSR
Lò MSR nhìn từ trên xuống |
Các lò
phản ứng MSR đã được phát triễn ở La
Bô Quốc gia Hoa Kỳ Oak Ridge vào đầu
thập niên 1960 và đã chạy khỏang
22 000 giờ từ năm 1965 đến năm 1969 . Theo lời kỷ sư John Kutsch , giám
đốc Liên Minh Năng Lượng Thorium không
vụ lợi “ chúng không phải là những lò phản ứng
lý thuyết hay thử nghiệm ý tưởng
, thật sự các kỷ sư đã xây dựng chúng và đã cho
chúng chạy” Trong số những họa kiểu lò phản ứng Generation IV lưu hành ngày nay, chỉ có
MSR là đã chứng nghiệm ngòai các kiểu mẩu làm ở máy computer. Nhà vật lý học La bô Oak Ridge Jess Gehin,
một chánh xử lý gia lập trình của la bô Sở Các Chương trình Kỷ thuật Hạt nhân, nói: “ Nó
chưa phải là một hệ thống đầy đủ, nhưng nó đã tỏ ra là chúng ta có thể họa kiểu
và họat động thành công một lò
phản ứng muối nấu chảy.
Hoa kiểu MSR
có hai ưu điểm an tòan chủ yếu. Nhiên
liệu lỏng nó dùng duy trì được ở áp xuất thấp hơn nhiên liệu đặc nhiều của các nhà máy nước nhẹ - light water plants. Như vậy giảm bớt rất nhiều tai nạn xảy ra, tỉ như vụ nổ khí hydrogen ở nhà máy Fukushima . Hơn nữa, trong
một sự cố điện tắt mất, một nút ( ổ )cắm
muối đông lạnh trong các nung
chảy của lò làm nhiên liệu lỏng sẽ thóat ra một cách thụ động vào các thùng và
nhiên liệu đặc lại, làm ngưng phản
ứng phân hạch – fission reaction.
Kutsch nói: “ lò phản ứng muối nấu chảy là một thắng trận thi đấu an tòan dễ dàng. Nếu như bạn vừa bỏ đi, nó
không có điện ; và khi giờ cuối cùng thế
giới đến – chẳng hạn một sao chổi đụng vào Trái Đất- nó sẽ nguội lạnh đi và tự đặc lại một mình nó”
Dù rằng
một MSR cũng chạy được bằng uranium hay
bằng plutonium, sử dụng nguyên tố thorium ít phóng xạ hơn , với một ít plutonium hay uranium như thể là một vật xúc tác – catalyst ,
vừa có lợi kinh tế vừa an tòan. “Quặng” thorium bốn lần phong phú hơn “ quặng”
uranium và đễ đào mỏ hơn, một phần vì
phóng xạ nó thấp hơn. Cung cấp thorium ngay trong nội địa Hoa Kỳ sẽ thõa mãn đủ cho yêu cầu Hoa Kỳ về điện cả hàng thế kỷ. Thorium cũng lũy thừa hửu hiệu hơn
uranium . Kutsch nói: “ ở một lò
phản ứng truyền thống, bạn chỉ đốt cháy
phân nữa 1 % đến 3 % uranium. Ở một
lò phản ứng muối nấu chảy, bạn đốt cháy 99% thorium.” Thành quả: một cân Anh thorium
làm a điện bằng 300 cân Anh
uranium hay bằng 3.5 triệu cân Anh than
đá.
Vi lẽ hửu hiệu này, một thorium
MSR có thể sản xuất ít phế thải hơn là nhưng nhà máy hạt nhân hiện nay. Phế
thải căn bản uranium sẽ luông luôn nguy
hiểm cả hàng chục ngàn năm sau . Còn với thorium, mức nguy hiểm chỉ là vài trăm năm thôi. Đồng thời, thorium thô hào- raw thorium không bên trong hay tự mình phân hạch được,
cho nên khó lòng làm võ khí . Kutsch cho
biết không thể sử dụng thorium làm bom . Bạn có thể tồn trử 1000 cân Anh
dưới tầng hầm nhà bạn và không có điều gì sẽ xảy ra cả thảy.
Vì khỏi cần yêu cầu xây cất những
tháp làm nguội lạnh to lớn, MSR có thể nhỏ bé hơn nhà máy nước – nhẹ điển hình, trên phương diện hình thể lẫn
khả năng làm ra điện . Ngày nay trung bình một nhà máy điện hạt nhân làm ra khỏang 1000 megawatts. Một MSR nhiên liệu thorium có thể phát ra rất ít điện, chừng 50 megawatts. Nhờ kích thước nhỏ hơn, làm ra nhiều nhà máy hơn có cơ tiết kiệm được mất điện truyền đi (
theo ước tính chừng 30% ở mạng lưới điện
hiện hửu. Lục Quân Hoa Kỳ đang chú tâm
đến sử dụng MSR để cung cấp điện cho
các căn cứ cá nhân theo lời Kutsch
và Google , đang trông cậy vào điện vững chắc để duy trì chạy các máy cống hiến dịch vụ - servers, đã
tổ chức một hội nghị các lò phản ứng thorium, năm 2010. Google
mong muốn có một lò phản ứng 70- 80 megawatts đặt
bên cạnh một trung tâm dưỡng
liệu, cũng theo lời Kutsch.
Ngay cả khi có sự ủng hộ của giới quân sự và tổ hợp công nghệ, chuyễn tiếp từ một lọai
phát điện hạt nhân mới mẽ, sẽ rất
chậm chạp, ít nhất là ở Hoa Kỳ. Các
lò phản ứng nước – nhẹ đã cư
định rồi và chưa co thể lệ điều hòa nào để quản trị những họa kiểu lò phản ứng khác. Ngòai Hoa Kỳ, chuyễn
tiếp sẽ mau lẹ hơn. Hàn Lâm Khoa học
Trung Quốc đã chấp thuận phát triễn một MSR thiết lập theo một thòi gian ngắn hơn , có lẽ
trong 10 năm tới, và quyết định của
Trung Quốc có thể tăng gia công
trình phát triễn kỷ thuật MSR khắp thế giới. Theo lời Gehin , thế giới vẫn
còn chú tâm đến hạt nhân tiên tiến và
chắc không mấy ai thay đổi ý tưởng này cả?
Sau đây là giải thích về họa đồ đính kèm một MSR nhiên liệu thorium :
1- Vòng nhiên liệu – fuel loop : nhờ một bơm thúc đẩy, thorium
hoa tan trong một muối nóng chảy
luôn luôn vòng suốt lò phản ứng
và các máy trao đổi nhiệt – heat exchangers . Dung hợp- fusion chỉ xảy ra đường kính của bình đạt 6 bộ Anh, giới hạn
phản ứng bên trong lò phản ứng.
2- Thùng làm thóat nhiên liệu – Fuel drain tank. Trong thùng thóat nhiên liệu khi khẩn cấp, nhiên liệu lỏng đặc lại không có con người
can thiệp, như trong đèn sáp nguội lạnh
. Để an tòan hơn, nhũng ống carbon bên
trong thùng ăn hết mọi neutron dùng để
thay thế, giúp cho phản ứng ổn định.
3- Ổ cắm đông lạnh –
Freeze Plug . Một nút cắm
làm bằng muối đôTng lạnh được
làm nguội bằng quạt – fans điện , khẩn thiết cho hệ thống
an tòan thi đấu thắng trận của
MSR . Khi tắt mất điện , ổ cắm nóng chảy
và nhiên liệu thoát ra từ lò phản
ứng đi vào các thùng làm thóat.
4-
Bình
ngăn chặn- Containment vessel . Vì lẽ nhiên liệu lỏng của MSR khổng ở dưới áp
xuất, rất ít hiểm nguy
có một nổ cháy và không cần một
bình ngăn chặn to lớn . Khi có sự cố
thủng vỏ bình hay lò phản ứng, mọi phun xì
đuợc định rỏ vị trí và sẽ không đe dọa dân gian lân cận.
5- Trạm điện – Power Station . Cũng như ở nhà máy qui ước, nhiệt lượng phát ra từ phản ứng hạt nhân, được dùng để
chạy một máy phát điện. Các nhà đề xướng
MSR cỗ vỏ các tua bin
Chu kỳ Brayton Cycle, dựa
vào áp xuất thấp, carbondioxide tỉ trọng
cao, và để làm dịu bớt yêu cầu các tháp làm nguội lạnh.
6- Dấu chân nhỏ - Small footprint . Vì MSR sẽ nhỏ hơn và an tòan hơn các nhà máy qui ước ,
chúng có thể xây dựng gần các
trung tâm dân cư hơn, như thế cũng làm giảm bớt mất mát truyền điện-
transmision loss. Các nhà máy hiện
hửu hy sinh 20- 30 % điện chúng phát ra
cho mạng lưới truyền điện .
( chiếu
theo Kalee Thompson và Kevin Hand:
Irvine ,
Ca Li gày 18 tháng 6 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét