Lạm bàn về phát triển một tỉnh khô hạn, nóng
nhất nước :
Tỉnh Ninh Thuận , Phan Rang –
Tháp Chàm
G S
Tôn Thất Trình
Phần I – Tổng quát
Vị trí
Trong Việt Nam ,
tỉnh Ninh Thuận nằm vào kinh tuyến Đông
1080 E và vĩ tuyến Bắc 11 0 45’ N.
Trung
tâm Panduranga, tên Chăm ( Chàm, Chiêm Thành ) của Phan Rang là ở Ninh Thuận, cũng
gồm thêm phần lớn đất tỉnh Bình Thuận
ngày nay. Panduranga là trung tâm chính trị
của tiểu quốc Champa sau khi Vijaya thất thủ năm 1471. Nhưng vẫn độc lập mãi đến năm 1832 , khi vua Minh
Mạng sáp nhập tiểu quốc này vào Đại Việt
-Việt Nam . Năm
1976, Ninh Thuận nhập vào Bình
Thuận cùng lúc với tỉnh Bình Tuy và tỉnh Khánh Hòa, thành tỉnh Ninh- Khánh-
Thuận. Năm 1991, tỉnh này lại tách ra ba
và tỉnh Ninh Thuận thành tỉnh riêng mình. Trong việc chia miền hành chánh mới,
tỉnh Ninh Thuận cũng như tỉnh Bình
Thuận nay thuộc Miền Đông Nam Bộ - North East South; trong khi đó tỉnh Lâm Đồng thuộc Tây Nguyên – Central
Hihghlands và Khánh Hòa là tỉnh cuối
Duyên hải Nam Trung Bộ- South Central
Coast, trải dài từ Đà Nẳng xuống Khánh Hòa. Còn Bắc Trung Bộ - North Central
Coast trải dài từ
Thanh Hóa xuống Thừa Thiên – Huế .
Diện tích Ninh Thuận
là 3,358 km2 ( 1,296 .5 dặm
Anh vuông ). Bắc giáp Khánh Hòa,Tây giáp Lâm Đồng, Đông giáp Biển Đông và Nam giáp
Bình Thuận. Tổng dân số năm 2009 là 565700
người; năm 1991, năm Ninh Thuận tách rời thành tỉnh riêng biệt chỉ
mới là 421 600 người . Các tộc dân đông nhất tỉnh là Kinh, thứ đến là Chăm chiếm
chừng 12 %( ? ) dân số tỉnh, khỏang 90 000
người, Raglai, Cơ Ho và Hoa. Đa số dân Chăm sống gần thị xã Phan Rang- Tháp Chàm.
Dân Raglai sống nơi xa xôi hẻo lánh như ở quận Ninh Hải phía đông Bắc tỉnh và vùng núi non phía Tây.
Điểm đáng lưu ý là dân đô thị Ninh Thuận tăng mau , lên đến 185 700 hay 32 ,3 % năm 2007, thay vì chỉ là 123 700 năm 2000, nghĩa là mức tăng này trung bình 6 % từ năm 2000 đến
năm 2007. Trong khi đó, dân nông thôn lại
tương đối giảm đi, tăng trưởng âm; dù rằng
mức tăng trưởng dân số trung bình
là 1.5 %, cao nhất miền Nam Duyên hải
Trung Bộ, chỉ sau Đà Nẳng .
Tỉnh lỵ nay là thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và Ninh
Thuận có 6 quận : Bác Ái , Ninh Hải ,
Ninh Phước , Ninh Sơn , Thuận Bắc , Thuận Nam . Thị xã Phan Rang – Tháp
Chàm ở ngã ba : đường xe lữa Nam Bắc, quốc lộ số 1, đường liên tỉnh số 27 lên Đà Lạt ( tỉnh Lâm
Đồng), Đắc Lắc ( Buôn Ma Thuột ). Thị xã Phan Rang – Tháp Chàm cách Nha Trang 105km, Đà Lạt 110km, TP Sài
Gòn - HCM 350km và thủ đô Hà Nội 1382 km .
Địa hình, đất đai
Ninh Thuận có địa hình điển hình cho miền duyên hải Trung Bộ , là có
núi cao không những gần biên giới
phía tây tỉnh đến Tây Nguyên , mà
núi non cũng nhiều gần bờ biển. Cao nhất là Núi Chúa, đỉnh đạt 1040m ở
Đông Bắc tỉnh. Đỉnh khác là Núi Đá
Bạc cao 643 m ở bờ biển phía Nam . Cả hai núi đều thấp hơn các
đỉnh núi vùng ranh giới với hai tỉnh
Khánh Hòa và Lâm Đồng. Vùng ranh giới này có ba ngọn núi cao trên 1600m , cao
nhất là đỉnh Núi Sương Mù 1652 m. Chỉ có
một phần nhỏ tỉnh Ninh Thuận gần tỉnh lỵ Phan Rang là thấp hơn 50 m.Trên phương diện sinh thái ,vùng núi Ninh Thuận cũng như vùng từ Đèo Cả
( Cap Varella, Mũi Diều …) ranh
giới Phú Yên – Khánh Hòa xuống đến Mũi
Né- Bình Thuận ( theo Thái Công Tụng 2005 ), ngòai cao độ khác nhau còn có
nhiều lọai đá acid như đá thạch cương, sa thạch, phiến thạch hoặc đá vôi khác nhau tạo ra nhiều lọai đất đai khác nhau. Vì dãy núi gần
biển nên nước mưa chảy tràn rất mạnh
nhất là khi triền dốc lớn, tuy nhiên may mắn là tỉnh Ninh Thuận ít mưa
nhất nước, khô hạn nên ít lụt lội xảy ra.
Vùng gò đồi chân núi ở giữa
núi non và đồng bằng duyên hải, cũng có
cao độ khác nhau và ở nơi núi thấp hay có thung lũng ngang cải biến thành ruộng
lúa. Tiếp theo đất đai vùng núi là vùng
thềm phù sa cổ sinh do nước biển rút tạo thành. Dưới lớp đất mặt luôn luôn có những cuội sỏi đang phong hóa,
nhiều nơi dạng lượn sóng và có nhiều sỏi
latêrit kết thành đá ong. Vùng các giải đồi cát duyên hải tạo ra
các bải biển rất nổi tiếng do bồi lắng phù sa và quá trình lấn biển làm ra, rộng hẹp khác
nhau, màu sắc cát khác nhau trắng, trắng
xám hay đôi khi màu đỏ vì chứa nhiều
oxýt sắt, tuổi địa chất xưa cũ hơn các đồi cát trắng. Đồng bằng Phan Rang là một phần đồng bằng Tam Phan – Ba Phan là
Phan Rang , Phan Rí và Phan Thiết ( Phan Rí và Phan Thiết, thuộc Bình Thuận ).
Diện tích đồng bằng Ninh Thuận nhỏ nhất
220 km2 của ba tỉnh nhập một (cũ) sau 1997; đồng bằng Khánh Hòa rộng 400 km2
, đồng bằng Bình Thuận 310km2.
Các lọai đất, cũng theo Thái Công Tụng ( 2005 ), gặp ở Ninh Thuận là đất cồn cát trắng vàng- Luvic arenosol, sát biển hay song song dọc bờ biển , độ giữ nước kém, độ phì nhiêu thấp ; một vài đất
cồn cát đỏ - Rhodic Arenosols hay pha đỏ ít gặp hơn là ở Bình Thuận, cồn cố
định tương đối phì nhiêu hơn cát vàng và đất cát biển
Haplic Arenosols ở địa hình bằng
do bồi lặng phù sa và quá trình lấn biển
hình thành, trong đất có vỏ sò , vỏ hến
tuy nghèo nàn dinh dưỡng, nhưng đã được cải biến thành vườn
rau đậu( hành tỏi … ), hoa màu ( khoai lang , đậu phụng- lạc… ) cây ăn
trái ( dừa … ) Nhóm đất nâu vùng bán
khô hạn đồng bằng Tam Phan, có pH cao, đất ít bị rữa trôi vì khí hậu khô
hạn độ bảo hòa baz tương đối cao . Chia
ra làm hai đơn vị: đất đỏ vùng khô hạn - Chromic Lixixols tập trung ở thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và đất nâu vùng bán
khô hạn – Haplic Lixixols, hình thành
từ các phù sa cổ hay đá mẹ giàu thạch anh . Vài lọai đất đồng bằng Ninh
Thuận, mùa nắng nước bốc hơi nhiều, các bọt màu trắng đục trồi lên mặt đất chứa nhiều carbonat
sodium, địa phương gọi là “ đất Cà Giang” . Nhóm đất
ferralit vàng đỏ - Ferralic Acrisols tại
các vùng núi tên những lọai đá acid.
Và cuối cùng là nhóm đất núi gồm
nhiều lọai đất Ferralit , có thể có mùn ở cao độ - Humic Acrisols …
Rừng
và thực vật đặc trưng
Tính đến năm 2007, Ninh Thuận có đến 55.7%
tổng diện tích còn rừng bao phủ, là tỉnh còn nhiều rừng nhất
các tỉnh miền Nam duyên hải Trung Bộ cũ . Rừng bao phủ phần lớn bờ biển Đông Bắc
tỉnh ở quận Ninh Hải và phần lớn đất đai
Bắc và Tây Nam
tỉnh. Tỉ số rừng này cao hơn tỉ số tổng
số diện tích còn rừng thống kê 10 năm
trước ( 1997 ) là 169 400 ha ( 50 . 5 % ) ; có lẽ nhờ trồng lại được nhiều rừng
hơn chăng, vì năm 1997 thống kê ghi là
chỉ trồng 3800 ha rừng ở tỉnh
nhà. Hay là nhờ hiệu quả của chương
trình Rừng Bảo vệ đa số rừng tỉnh nhà đặc biệt ở Công viên Quốc gia Núi Chúa và và Công viên Quốc Gia
Phước Bình. Tuy nhiên rừng Ninh
Thuận hiệu năng rất kém trị giá thương mãi chỉ là 1.8% trị giá sản xuất lâm nghiệp các tỉnh Duyên Hải miền
Nam Trung Bộ ( cũ ), thua kém ngay cả
Thành phố Đã nẳng. Vì khí hậu khô hạn, rừng Ninh Thuận thuộc nhóm rừng vùng bán khô hạn - tropical dry forests, mà vì tương đối không đủ cao độ nên ít thấy các lọai
cây lá kim -tùng bách , như thông ba lá , hai lá , du sam ( Kateleria davidiana ) , cây họ kim giao
– Podocarpaceae, cây họ bách tán – Cupressaceae ( pơ mu Fokiena hodginsi ) hay họ Bách Tán ( Araucaria excelsa , samu Cunninghamia
lanceolata ). Nhưng lại chứa nhiều
lòai cây chịu đựng khô hạn lá nhỏ có gai, chẳng hạn họ Cáp Capparaceae như Capparis ( C ) sp.; cáp chưn rít, cáp
thơm C. beneolens hoa trắng trái
vàng vùng nhiều đá, cáp vàng C.
flavicans lá tăng tiết sửa, hoa ăn như rau, cáp gai đen C. horrida, lá có gai cong dài, mũi nhọn
là một dây leo hoa hường, trái đỏ ( không biết đây có phải là dây “ chùm né “ai đạp nhầm
bàn chân thối khó chữa loan truyền Phan Rang xưa cũ: “ thứ nhất là rắn dọc-
đọt nưa , thứ nhì là gai Chùm né” không ?, cáp cứng C.
rigida , một dây leo gai rất nhỏ và
rất nhọn ( một gai chùm né thứ hai ?)
mọc nhiều ở vùng đá Cà Ná, cáp Thorel C . thorelii var pranensis, một bụi hoa trắng,
trái to 1.5 cm màu đỏ, cáp Tích Lan – cáp gai đen C . zeylanica, một dây leo dài, lá có lông , gai cong dài 6mm , hoa hường, trái đỏ rồi chín đen ( một
lọai gai chùm né khác chăng ? )… Ngòai một số cây họ dầu Dipterocarpacea
, trên núi đá vôi rừng bán khô hạn, cũng
gặp rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới, những lòai cây ưa vôi phát triển chậm nhưng gỗ rất cứng. Đặc biệt ở rừng Ninh Thuận, theo G S Phạm Hòang Hộ kiểm kê lại chứa nhiều
lòai cây họ thị - họ hồng Ebenaceae, họ cây trái hồng kaki-
persimmon . Tông chi Diospyros
có 69 lòai kiểm kể ở Việt Nam, 5 lòai cho gỗ quí , đặc biệt là lòai gỗ
mun, 11 là lòai cây rừng hoang dã cho trái ăn được.
Hồng persimmon |
Đáng tiếc là lòai trái
hồng Diospyros kaki , tuy yêu cầu
lạnh rất ít ( chỉ 100 giờ ) và cao hơn ( 110C thay vì 70C
) không trồng được ở Phan Rang Ninh Thuận, không có lạnh như Lâm Đồng kế cận. Đáng kể ra ở Ninh Thuận là thị lọ nồi Diospyros apiculata, đại mộc nhỏ gỗ làm
cột, thị Bà Râu Diospyros
barauensis trên đất nhiều đá, thị da – thị đen Diospyros crumenata , thị Collins Diospyros collinsae, thị đất-
thị Phan Rang Diospyros phanrangensis ,
một đại mộc hay thấy ở thị trấn Tháp Chàm, thị hồng – thị nha trang Diospyros
nhatrangensis, một đại mộc có trái ăn được,gỗ lõi đỏ tốt, thị đen lông vàng nâu trên đài hoa Diospyros rhodocalyx một đại mộc
trái ăn được, thị đỏ Diospyros rubra
một đại mộc, trái màu đỏ cam . Còn gỗ Mun tốt nhất cũng theo GS P.H. Hộ, lại
thuộc loài Diospyros lobata tên Việt là thị trâm - sang đen - cậy, tìm
thấy ở Nha Trang, hoa trắng rất thơm, trái nhỏ ăn được, gỗ cho một thứ Mun tốt nhất. Hai lòai khác cho gỗ Mun
tốt ghi là thị Bejaud Diospyros bejaudii, một đại mộc vỏ đen lúc khô, trái đen mọc tại vùng Bảo Chánh -Đồng Nai và thị lông
phún Diospyros hirsuta , một đại mộc gỗ cho Mun lại tìm thấy ở Châu Đốc . Không
thấy kiểm kê ghi cây gỗ Mun Diospyros Mun
ở Phan Rang như thời thơ ấu thập niên 1940 , có lúc sống ở Phan Rang, chúng tôi
cứ tưởng là tỉnh Ninh Thuận là nguồn gốc cây gỗ Mun, tiếng đồn là đủa hay bát
chén gỗ Mun có khả năng sủi bọt tiết lộ chất
độc trong đồ ăn !.
Khí hậu , sông ngòi
Khí hậu Ninh
Thuận là phối hợp giữa gió mùa nhiệt đới
và thời tiết khô hạn nhiều gió thổi. Nhiệt độ trung bình là 270 C (
khỏang 800 F ). Ninh Thuận là tỉnh có số giờ nhật chiếu cao nhất
nước và là tỉnh khô hạn nhất nước như đã nói trên. Vũ lượng trung bình hàng năm
chỉ chừng 700mm. Vũ lượng tăng lên đến 1100 mm ở các vùng núi non. Chính vì các
điều kiện khí hậu khắc nghiệt này cho nên trước khi mới đây
phát triển du lịch và doanh
nghiệp, tỉnh Ninh Thuận vào cuối thập
niên 1970 và các thập niên1980 – 1990 là một trong bốn tỉnh nghèo nàn nhất
nước!.
Sông chánh ở
Ninh Thuận là sông Dinh hay sông
Phan Rang, còn gọi là sông Cái, có
nhiều chi lưu như sông Me Lâm , sông Sắt – Iron River, sông Ong , sông Quao … ;
ở thượng nguồn có đập Nha Trinh ,chảy ngang qua các vùng đất thấp của tỉnh và
của thị xã Phan Rang. Dòng sông thường khô nước hay rất ít nước. Nay nhờ thiết lập đập Đa Nhim, đổ nước thượng
nguồn lưu vực sông Đồng Nai từ hồ Đa
Nhim – Đơn Dương( Dran ) về lưu vực sông Phan Rang, tăng thêm nhiều nước tưới tiêu ruộng đất. Ngòai hệ thống sông
Phan Rang này, ở phía Bắc tỉnh còn có
những sông, suối nhỏ như sông Trâu ( ? )
chảy từ quận Du Long qua gần Hội
Diêm rồi vào Đầm Nại, quận Ninh Hải;
phía Nam thì có sông Bà Râu (? ) chảy ra Biển Đông gần Cà Ná và Mủi Sừng Trâu,
phía dưới Mủi Dinh ( Cap Padaran ).
Suôi dòng lịch sử tỉnh Phan Rang,
theo Hưng Vong nước Chàm - Chăm – Chiêm
…
Chiêm nương ơi, xin cười đi em hởi,
Cho lòng anh quên một phút buồn lo …
Chế
Lan Viên ( 1920 – 1989 )
Nước non ngàn dặm ra đi,
Mối tình chi ?
Mượn màu son phấn đền nợ Ô Ly,
Đắng cay vì
Đương độ xuân thì,
Má hồng da tuyết,
Tuyết sương dầm, thân này bao xiết
Vàng lộn theo chì ! …
(bài ca điệu Nam bình, công chúa Huyền Trân đặt ra ?)
Phan Rang là tiếng Việt dịch
thủ phủ Panduranga, nên có lẽ nhân cơ hội xin nói qua về lịch sử nước Champa-
Chiêm Bà, nước Chăm- Chàm -Chiêm Thành. Cham theo tiếng
Phạn- Sanskrit là một bụi cây và một
bông hoa. Hậu duệ của vương quốc Champa,
được dân Việt tộc dân Kinh gọi là Chàm hay người Champa. Ở vùng núi ba tỉnh
Khánh Hòa , Ninh Thuận và Bình Thuận, tộc dân Chàm hay Chiêm và các tộc dân liên hệ như Raglai , Chu Ru …
cũng còn có tên là Hời ( Ha )? . Từ thời
Thang ( Thương ) – Chu ( Chu ) , trước Công Nguyên tòan miền Nam Á ( ? ) giáp Trung Hoa có mệnh danh là : “Việt Thường
Thị”. Nhà Tây Hán , năm 111 trước Công Nguyên cải thành Giao Chỉ Bộ, chia ra
làm 9 quận, trong đó có An Nam Đô hộ Phủ
sau này . Chiêm Thành – Champa
thuộc quận Nhật Nam. Bang giao giữa “ các bộ lạc” Việt Nam và Chiêm Thành không vượt
qua giới hạn sông Gianh, ngọn Hòanh Sơn ( Đèo Ngang ). Năm 102 sau Công Nguyên, đời Đông Hán lập ra huyện Tượng Lâm phía Nam
quận Nhật Nam , sai quan cai
trị vì người Tượng Lâm hay đến cướp phá Nhật Nam . Như vậy đời Hán, nước Chiêm có
lẽ chỉ là một bộ lạc phía Nam
quận Nhật Nam
.
Người Chàm |
Niên đại lịch sử Chiêm Thành có ý nghĩa
Đời vua Thuận Đế nhà Đông Hán
(Tàu), năm 137 sau Công nguyên, ở Tượng Lâm Khu Lân cùng mấy nghìn người nổi lên đánh huyện Tượng Lâm, giết trưởng lại.
Thứ sử Giao Chỉ là Phần Diễn phải đem cả vạn binh hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân hợp sức đánh
dẹp, nhưng bị vây hơn một năm. Triều đình nhà Hán phải sai Trương Kiều làm thứ sử Giao Chỉ, Chúc
Lương làm thái thú Cửu Chân đến vỗ về,
dẫn dụ mới yên được. Cuối đời Đông Hán, con công tào huyện Tượng Lâm
là Khu Liên ( Theo G S Trần Kinh Hòa,
Khu Lân hay Khu Liên không phải là tên người mà là dịch thổ âm từ ngữ Kalinga,
nghĩa là chủng tộc lảnh đạo cuốc độc lập ) giết quan huyện lệnh và tự lập làm
vua .
Vương quốc Chiêm Bà , sử Tàu gọi là Lâm Ấp, thành lập và đánh phá Việt
Nam, còn bị Tàu đô hộ .
Năm 192 sau Công Nguyên ( A.D.) có thể là năm thành lập Vương quốc Champa, ViệtNam
gọi là Vương Quốc Chiêm. Từ Chiêm Thành có thể chỉ là kinh đô ( kinh thành )
của nước Chiêm Bà – Champa. Theo lời ghi khắc trên một tấm bia tìm được của người Chàm, vị
vua đầu tiên nước Chàm là C$ri Mara , như vậy có thể là Khu Liên
?
Năm 192 sau Công Nguyên ( A.D.) có thể là năm thành lập Vương quốc Champa, Việt
Các năm 220- 230: lần đầu tiên, sử biên Tàu ghi tên Champa
là nước Lâm Ấp -Lin Yi. Lâm Ấp lấy đất Quảng Nam ngày nay làm trung tâm điểm,
dựng đô ở Trà Kiệu. Tổ tiên người Chàm
từ các hải đảo Mã Lai ,
Nam Dương tràn
lên bờ biển Trung Bộ ngày nay nhiều thế kỷ
trước Công Nguyên. Họ tiếp xúc
với thổ dân là người Kiritas cũng thuộc giống Inđô nêxia - Nam Dương. Khi bước vào lịch sử năm 192, từ tổ chức quốc
gia đến xã hội, mọi phong tục đều theo Ấn Độ. Tôn giáo là Ấn độ giáo thờ các thần
Brahma, Visnu, Civa cùng các Cacti là vợ hai thần sau. Phật giáo cũng được sùng bái. Còn Hồi
giáo thì chỉ mới truyền vào từ thế kỷ
thứ XI, Xã hội cũng chia làm 4 giai cấp: Gíáo sĩ - Quí tộc, điền chủ, thương
gia và hạ lưu – nô lệ ; nhưng phân chia không
nghiêm khắc như ở Ấn Độ. Trong gia đình
quyền thừa kế theo dòng mẹ, nhưng quyền nối ngôi vua phải theo dòng cha. Lúc này
Chiêm Thành chia ra 3: Bắc là
Amarâvâti vùng Quảng Nam ngày
này có Indrapura – Đồng Dương và thành
phố Sinharpura trên sông Thu Bồn ở Trà
Kiệu. ; Giữa là Vijaya, vùng Bình Định
ngày nay. Sau năm 100
(? ) kinh đô Phật thệ tức Trà Bàn hay Chà Bàn ( gọi sai là Đồ Bàn?
chăng ); Nam là Panduranga vùng Phan
Rang. Vào thế kỷ VIII, kinh đô Chàm đóng ở đây và mở rộng nhất gồm luôn cả
Kauthara là vùng Khánh Hòa ngày nay. Có lúc
Kauthara tách rời thành khu vực
Chàm thứ tư là Yanpunagara, thị trấn
Khánh Hòa ngày nay làm thủ phủ.
Năm 240, quân Chàm tiến đánh cổng An Nam – Gate of Annam và vị trí Huế. Sử Tàu Tam Quốc Chí Lục Dận truyện, ghi
chép là năm 248, Lâm Ấp đem quân xâm lăng Giao Chỉ, Cửu Chân, cướp
thành ấp. Giao Châu và Lâm Ấp đánh nhau ở Cổ- Châu- Loan, tuy Lâm Ấp mất
Khu Túc, nhưng lại chiếm huyện Thọ Linh
là tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay .
Thế kỷ
thứ 4 – thứ 5: nhiều cuộc chiến tranh xảy ra. Năm 347, vua Lâm Ấp là Phạm Văn đem quân đánh Nhật Nam, giết chết 5- 6 ngàn người, chiếm cứ Nhật Nam. Năm 348, lại đánh Cửu Chân giết hại 8-9 phần 10 nhân dân
Cửu Chân. Đô hộ Tàu đem quân Giao- Quảng ( Giao Chỉ và
Quảng Châu ) đi đánh, bị thua ở Lô Dung ( ? ). Năm 399, Phạm Hồ Đạt vua Lâm Ấp,
đem quân xâm chiếm đất Tàu bảo hộ là Nhật Nam, bắt Thái Thú và tiến chiếm Cửu Đức ( Hà Tĩnh ). Năm 407, vào cướp Nhật Nam . Năm 413, vào cướp Cửu Chân. Các năm 414- 417, vua
Lâm Ấp thứ 3 là Phạm Dương Mại hàng năm
đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân, Cửu Đức, chém giết rất nhiều, làm Giao
Châu kiệt quệ. Sau đó, sai sứ triều cống Tàu, xin lảnh đất Giao Châu làm An Nam tướng quân Lâm Ấp Vương. Tống Văn
Đế không nghe, phái Thái thú Đàn Hòa Chỉ
đánh dẹp, bị thua, lại phải phái tướng
Tô Xác đi tập kích, mới phá nổi thành
Champapura. Thành quả là quân Tàu chiếm đóng các vùng bờ biển và châu thổ Bắc Việt và đây cũng là thế
kỷ đuổi lui quân Chàm.
Từ nước
Hòan Vương đến nước Chiêm Thành:
chiến tranh giữa Việt Nam
độc lập và Chiêm Thành
Thế kỷ thứ 8:
giai đọan xâm lăng và cướp bóc của giặc cướp biển, từ Java – Chà và
, Inđônexia ngày nay. Năm 749, vua Lâm Ấp là Chư Cát Địa, triều cống nhà Đường,
xin đổi tên nước là Hòan Vương Quốc. Người nước Hòan Vương lại sang quấy nhiễu Giao
Châu, chiếm lấy Châu Hoan ( Nghệ An ), Châu Ái ( Thanh Hóa ). Năm 808,
vua Đường sai Đô hộ Trương Châu ( Chu ) đem binh thuyền vào đánh quân
Hòan Vương, giết hại rất nhiều, vua nước này
phải rút lui về Nam vào Quảng Nam – Quảng Ngãi bây giờ và đổi quốc hiệu là “ Chiêm Thành” từ đó. Chiêm Thành thực tế gồm nhiều thị tộc khác nhau , nhưng chia ra
hai thị tộc chánh. Thị tộc mạnh nhất ở phía
Bắc là Cây Dừa – Narikelavamca, vùng Indrapura
– Đồng Dương , Quảng Nam ,
thủ phủ là Trà Kiệu. Thị tộc mạnh nhất ở miền Nam là Cây Cau – Kramukavamca,
thủ phủ là Phan Rang – Panduranga
và Nha Trang - Kauthara.
Thế kỷ
thứ 10: Sau khi đẩy lui quân Tống ( Tàu ) xâm lăng năm 891, Lê Hòan ( Vua Lê
Đại Hành ) nhà Tiền Lê, năm 982, tự mình cầm quân đánh Chiêm Thành, vì Chiêm muốn liên minh với nhà Tống cố tình gây hấn bắt sứ giả Việt. Vua Lê Đại Hành là vị vua Việt Nam đầu
tiên chinh phạt Chiêm Thành, hạ kinh đô
Indrapura- Đồng Dương, giết vua Chiêm, lấy nhiều tiền bác bảo vật đem về
. Sau biến cố này, một người Việt là Lưu Kỳ Tông cướp quyền vua Chiêm mới, trị
vì Chiêm Thành từ năm 983 đến năm 989
thì mất. Vua kế tiếp Vijaya Sri
Harivarman II , trị vì các năm 989 -998
, dời đô xuống Trà Bàn ( Vijaya )
thuộc tỉnh Bình Định ngày nay.
Thế kỷ
thứ 11: Năm 1043, vua Chiêm là Sạ Đẩu
– Jaya Simhavarman II trị vì 1040 –
1044, đem hải quân tấn cống miền Nam
Việt Nam, nhưng bị đẩy lui. Đầu năm 1044, vua Lý Thái Tông thân chinh đánh Chiêm Thành qua cửa Đại An ( Nam Định) , đánh tan tành quân Chiêm
dàn trận ở sông Ngũ Bồ ( sông Bồ, huyện
Quảng điền – Thừa Thiên ngày nay) chận
quân Việt. Vua Sạ Đẩu tử trận, rồi quân Việt
tiến hạ dễ dàng kinh thành Trà
Bàn, bắt 5000 người Chiêm đưa về nước
Việt trong đó có vợ vua Sạ Đẩu là vương phi Mỵ
Ê cùng các cung nữ giỏi ca múa. Trên đường về Thăng Long, Mỵ Ê không
chịu sang hầu thuyền vua Lý, gieo mình xuống sông tử tiết, vua khen Mỵ Ê trinh
tiết, phong làm “ Hiệp Chính Hựu Thiện Phu Nhân”. Chiếm đất Chiêm là từ vua Lý Thánh Tông, năm 1069, thân chinh
đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm
là Chế Củ -Rudravarman III,
thâu nhận 3 châu Địa Lý( Trung và
Nam Quảng Bình, Ma Linh( Bắc Quảng Trị) và Bố Chính ( Bắc Quảng Bình ), Chế Củ
dâng chuộc tội .
Chiến tranh hơn 100 năm giữa
Chân Lạp và Chiêm Thành
Năm 1120 , vua Chân Lạp mới là Suryavarma II
( trị vì 1113- 1150 ) tấn công Champa,
khiến nhiều đòan người Chiêm Thành và Chân Lạp chạy sang nhà Lý, đời vua Lý Nhân
Tông xin lánh nạn. Nhưng năm 1128, năm đầu
vua Lý Thần Tông, Suryavarman II
sai 20 000 quân vào cướp phá bến Ba Đầu, châu Nghệ An. Thái phó Lý Công
Bình đánh bại quân Chân Lạp. Mấy tháng
sau Chân Lạp lại đem hơn 700 chiến thuyền vào cướp phá
huyện Đổ Gia ( huyện Hương Sơn , tỉnh Hà Tĩnh ngày nay ), bị tri phủ Thanh Hóa là Nguyễn Hà Viêm và tri
châu Nghệ An là Dương Ổ đánh bại.
Năm 1132,
Chân Lạp và Chăm hợp nhau chống Việt Nam ,
đem quân quấy nhiễu Nghệ An, bị tướng nhà Lý
là Dương Anh Nhỉ đánh thua, phải lui.
Nhưng năm 1135, vua Chiêm Chế Mana –Jaya IndravarmanII , không
muốn tiếp tục liên minh nguy hiểm cho Chiêm Thành này nữa, sai sứ sang cống vua
Lý. Năm 1137, quân Chân Lạp một mình
đánh châu Nghệ An – Chiêm Thành, lần này cũng bị Lý công Bình đánh bại.
Năm 1145, Chân Lạp dồn
hết ý chí đánh Chiêm Thành, chiếm khinh đô Vijaya, làm chủ tòan quốc Chiêm
Thành. Jaya Indravarman III mất tích. Ngôi vua truyền cho
Rudravarman IV , nhưng vua này phải trốn Chân Lạp , chạy trốn vào
Panduranga. Vua chết, dân Paduranga mời
con vua lên ngôi năm 1147, lấy hiệu là Chế
Bì La Bút - Jaya harivarman I . Thắng được
người Chiêm, vua Chân Lạp
Suryavarman đặt em vợ mình là
Harideva lên ngôi vua Chiêm, buộc dân
Chiêm miền Bắc phải thừa nhận. Chế Bì La Bút đem quân từ Pandarunga ra đánh
thành Chà Bàn- Vijaya, đánh tan Harideva
và đuổi quân Chân Lạp ra khỏi bờ cõi, lên ngôi vua ở Chà
Bàn, năm 1149.
Năm 1150, nước Chiêm khởi sự quyền
lảnh đạo cao nguyên Darlac ( Đắc Lắc,
Dak Lak ). Năm 1151, Chế Bì La Bút đem quân, đánh bại hết mọi đạo quân người Kiritas ( Cao Nguyên ) đang tràn xuống
chiếm vùng đồng bằng và cả quân lọan nội
bộ là quân của Ung minh Ta Diệp –
Vancarâja, anh vợ của Jaya Harivarman các tộc dân Kiritas tôn lên làm vua .
Thừa thắng, Chế Bì La Bút đuổi theo các đạo quân Thượng, chiếm miền Bắc Darlac ngày nay và miền cao nguyên từ Bình Thuận ra Phú Yên, khuất phục các bộ lạc
Gia rai, Rongao, Roglai Blao v.v… , làm chủ cai trị các vùng này một thời gian lâu dài, nên di tích Chàm còn rải rác từ các vùng này đến gần Pleiku, Kontum.
Năm 1170,
sau khi giao hảo với Đại Việt rồi,
Jaya Indravarman IV quay sang đánh Chân Lạp đem quân đi đường bộ, nhưng cuộc chiến bất phân thắng bại. Năm 1177, vua
Chiêm đổi chiến lược, cho thủy quân lên sông Khung ( Mêkong ? ) đến Biển Hồ,
đánh úp kinh thành Angkor , giết vua Chân Lạp, cướp bóc rất nhiều và chiếm cứ
vuơng quốc Chân Lạp. Nhưng năm 1181, một vì hòang thân Chân Lạp nổi lên
đánh đuổi quân Chiêm chiếm đóng,
lấy lại Angkor, lên ngôi vua hiệu là
Jaya varman VII. Năm 1190, Chiêm trở lại khiêu khích Chân Lạp. Vua Chân Lạp Jaya varman VII, tấn công Chiêm Thành, lấy kinh đô Vijaya, bắt vua Chiêm là Jaya Indravarman IV đưa về Chân Lạp , đặt em
rễ mình là In lên ngôi vua Chiêm, lấy
hiệu là Suryavarmandeva. Đồng thời cũng
lập một vương quốc ở miền Nam tại
Panduranga, đưa một tướng Chàm nuôi dưỡng từ bé ở triều đình Angkor là
Vidyânandana lên làm vua, cũng lấy hiệu là Suyravarmandeva. Nhưng chẳng bao lâu nội lọan ở Chà Bàn nổi lên đuổi In về nước ,
đặt một hòang thân thân Chiêm là
Rashupati lên ngôi, hiệu là Indravarman
V. Năm 1192, vua cai trị Panduranga là Vidyânbana
- Bố Trì, tiến chiếm Vijaya , giết
Rashupati, giải thóat sự thống trị của Chân Lạp , thống nhất đất nước. Vua Chân Lạp giận sự phản trắc của Bố Trì, sai quân sang đánh, nhưng bị
thua. Để cũng cố địa vị mình, năm 1198 , Bố Trì
sai sứ sang cống Đại Việt và năm
1190 vua Lý Cao Tông sai sứ phong
vương cho Bố Trì. Năm 1203, người chú của Bố Trì là Bố Điền ( có khi chép là Bố Do ) nhờ vua Chân Lạp
giúp sức, đuổi Bố Trì dành ngôi vua. Từ
năm 1203, Chiêm thành đã trở thành một lảnh thổ Chân Lạp. Năm 1216,
đời vua Lý Huệ Tông, Chiêm Thành và Chân Lạp đến đánh cướp Châu Nghệ An, nhưng bị châu bá là Lý Bất Nhiễm
đánh tan. Năm 1218 , quân hai
nước này lại ra đánh cướp châu Nghệ An,
và một lần nữa bị Lý Bất Nhiễm đánh bại.
Năm 1226, một hòang thân Chiêm tên là Ôn
vốn là cháu của Jaya Harivarman I và đã được nuôi dưỡng tại triều đình Chân Lạp và nhiều lần đem quân đánh phá Đại Việt, về nước lên ngôi
vua, lấy hiệu là Paranecvara - varman II.
Người Chân Lạp tự ý rút lui khỏi
Chiêm Thành và trao ngôi vua lại cho
người Chiêm vậy . Chấm dứt một cuộc
chiến tranh kéo dài 100 năm giữa Chiêm Thành và Chân Lạp . Chân Lạp từ
đây phải bận đối phó với một kẻ thù mới
là Tiêm La.
Còn triều vua Jaya Paramecvarman II thì
lo tu bổ lại các đền thờ, xây dựng các
đền thờ khác, mở mang canh tác ruộng đất
bỏ hoang vì chiến tranh , sửa
chửa hệ thống dẫn thủy nhập điền …
1282, quân Nguyên- Mông Cổ xâm chiếm Chiêm Thành
Hốt Tất
Liệt diệt nhà Tống rồi, năm 1280 truyền lệnh
cho các nước chư hầu ngọai phiên Tàu, phải sang chầu. Cả Đại Việt đời vua Trần Thánh Tông lẫn Chiêm Thành đời vua
Indravarman V, đều từ chối sang chầu .
Hai sứ Nguyên Hà tử Chí và
Hòang Phủ Kiệt, đi sang Tiêm La và
Malabar ngang qua Chiêm Thành đều bị bắt giữ . Vua Nguyên nghe tin sai Hửu
Thừa là Toa Đô đem quân sang đánh Chiêm.
Năm 1282 Toa Đô mượn đường Đại
Việt cho quân đi , nhưng vua Trần không thuận , Toa Đô phải đem 1000 chiến thuyền từ Quảng Châu đến cảng Chiêm Thành, cho quân lên đồn trú trên
bờ . Quân Chiêm chống cự kịch liệt nhưng
thua . Vua Indravarman V đốt kho lúa ,
bỏ kinh thành , rút lên núi , tập hợp
lại quân lính đánh quân Nguyên. Toa Đô
tiến quân đến Đại Châu ( ? ) bị bị phục binh Chiêm đánh thua. Hai bên cầm
cự. Vua Nguyên gửi thêm 15000
quân sang cho Toa Đô, Nhưng vua Trần không chịu cho đi qua nước Đại Việt , nên quân tiếp
viện không đến được. Vua Nguyên lại sai Ô Mã Nhi đem 20 000 quân Giang – Hòai
sang tăng viện cho Toa Đô, nhưng đến nơi thì Toa Đô đã bỏ Chiêm Thành ra
đi rồi. Nhắc lại là năm
1284, Vua Nguyên sai Trấn Nam Vương Thóat Hoan sang đánh Đại Việt
và năm sau 1285, Toa Đô được chỉ đem quân ra
Nghệ An hội với quân Nguyên đánh Đại Việt, nhà Trần. Indravarman V không muốn vua Nguyên tức giận, liền sau đó
sai sứ sang cống vua Nguyên Thái Tổ. Quân Nguyên ra khỏi nước,
Indravarman V truyền ngôi cho thế tử
Harijit là Chế Mân .
Năm1306, vua Chế Mân
Simhavarman III, trị vì 1287- 1307, xin
cưới công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần Nhân Tông với sinh lễ là hai châu Ô
và Ri ( hay Lý, tên Chăm là Ulik ), đưa biên giới Chiêm -Việt xuống tới Bắc
Quảng Nam ngày nay. Thân tình Chiêm Việt sớm đọan tuyệt sau khi Chế Mân chết, Trần Huyền Trân bị cướp trở về đất Việt. Thân gia đổi thành
oan gia, vì vua kế vị Chế Chí, con của Chế Mân lên ngôi hiệu là
SimhaharmanIV, bị vua Trần Anh Tông
lừa bắt đem về nước Việt, vì Chế Chí tuy
thần phục nhà Trần nhưng hối tiếc việc nhượng đất của vua cha , nên Đại Việt
cho là “ phản trắc”. Chế Chí chết ở Gia Lâm, gần Thăng Long năm 1323, gây mãi
óan thù Chiêm -Việt.
Các năm 1312 – 1326, Chiêm Thành trở thành một tiểu
quốc chư hầu của Đại Việt. Năm 1313, Đỗ Thiên
Nghiễn được bổ làm kinh lược sứ ,cả
đất Nghệ An lẫn đất Lâm Bình. Cai trị nội bộ giao cho người bản xứ lo liệu
lấy, chỉ cho mấy đạo binh đến đóng đồn phòng ngự bảo hộ, mỗi
năm thu thuế và thúc dân bản xứ phải
triều cống vua Đại Việt.
Đền thờ Huyền Trân Công Chúa tại Huế |
Các năm 1350- 1400, Chiêm- Việt chiến
tranh liên miên. Năm 1367, vua Trần Dụ Tông sai Thế Hưng và Tử Bình đi đánh
Chiêm Thành. Quân Chiêm phục kích bắt được Thế Hùng,Tử Bình bỏ chạy. Năm sau, vua
Chiêm anh dũng là Chế Bồng Nga- Po
Bin Swor, trị vì 1360 – 1390 ) cho
sứ sang đòi đất Hóa Châu. Năm 1376, quân Chiêm đánh Hóa Châu. Vua Duệ Tông thân
chinh đi đánh, đóng quân ở cửa Nhật Lệ ( Quảng Bình, sông Nhật Lệ tên Chăm là
sông Jriy )và năm 1377 kéo quân vào đánh
thành Chà Bàn, trên sông Côn ở Bình Định.
Gần đến thành, quân Chiêm đổ ra vây, quân Việt thua to, Duệ Tông chết trong
trận; tướng sĩ cũng chết rất nhiều. Đồ
Tử Bình lĩnh hậu quân không đến cứu, Lê ( Hồ ) Quí Ly bỏ chạy về. Thừa thắng Chế Bồng Nga
liền đem quân dánh vào Thăng Long
, cướp phá không ai giữ nổi. Năm 1378. Chiêm Thành lại sang đánh Nghệ An, vào
sông Đại Hòang lên đánh kinh đô Thăng Long. Năm 1 380, Chiêm Thành
sang đánh Nghệ An- Thanh Hóa, bị quân
Quí Ly đánh đuổi được. Năm 1382, quân Chiêm lại sang cướp Thanh Hóa, bị Quí Ly và Đa Phương đuổi
đến Nghệ An. Năm 1834, Chế Bồng Nga với tướng La Khải đem quân đi đường núi vào đóng tận Quảng Oai. Thượng Hòang Trần Nghệ Tông nghe tin,
cùng vua bỏ kinh đô chạy sang Đông ngạn. Nhưng rồi năm 1390, Chế Bồng Nga bị
tướng nhà Trần Khát Chân phục kích,
giết ở địa hạt Hưng Yên. Từ đây về sau
Chiêm Thành mới bớt nhuệ khí, trong nước lục đục, hai con Chế Bồng
Nga sang hàng Việt Nam đều được phong
hầu .
Năm 1402, để trả đủa
Chế Bồng Nga trước đây nhiều lần tấn
công nước Việt, vua Hồ Hán Thương ( trị vì
1401 – 1407 ) sai tướng Đỗ Mãn
đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm La Bích Đại - Indravarman XII
thất thế xin tặng Chiêm Động ( Nam
Quảng Nam ) và Cổ Lũy Động ( Quảng Nghĩa
). Nhà Hồ đổi thành bốn châu Thăng (nay là
quận Thăng Bình ) Hoa ( Mộ Hoa sau cải tên là Mộ Đức ), Tư, Nghĩa , ( Tư Nghĩa thành quận Tư Nghĩa
), đặt người cai trị , đem dân không có ruộng đất khắp nước đến đó định cư,
khai khẩn. Phía Nam tỉnh Quảng Ngãi là núi Bình Đê, ngăn
cách với tỉnh Bình Định. Phỏng định biên cương Chiêm Việt thời nhà Hồ là núi
Bình Đê.
Năm 1471, Vua Lê Thánh Tông nam chinh, chiếm cửa Thị
Nại, hạ thành Chà Bàn, bắt vua Chiêm Bàn La Trà Toàn ( trị vì 1460- 1471 )
đưa về Thăng Long. Chiếm vùng đất
mới đổi thành phủ Hòai Nhơn, sáp nhập vào 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, lập
ra thừa tuyên đạo Quảng Nam.
Đất Chiêm Thành còn lại chia ra
làm 3 nước nhỏ là Hòa Anh ( Phú Yên – Khánh Hòa ), Chiêm Thành ( Phan Rang và
Nam Phan ( Gia lai – Pleiku , Kontum, Dar Lac) . Thật ra, Chiêm Thành
vốn là một nước gồm nhiều thị tộc khác
nhau như đã kể trên, sự phân chia hành chánh, cai trị của vua Lê Thánh
Tông hầu như trở lại truyền thống
cũ giữa các thị tộc Chiêm Thành.
Người Việt nay đã đặt chân tới
vùng Bình Định ngày nay và biên
giới lúc đó là núiCù Mông, nằm giữa tỉnh
Bình Định và Phú Yên. Dừng lạiở đây khá lâu, mãi cho đến khi Chúa Tiên Nguyễn Hòang
mở lại cuộc nam tiến năm 1611.
Các năm 1579-1535 , các quận vương Chiêm Thành dùng Phan Rang Panduranga làm thủ
phủ . Nhưng năm 1611, Chúa
Tiên sai Chủ sự là Văn Phong đem quân
vào đánh Chiêm Thành, lấy đất phía Nam Đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi đặt làm phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân
và Tuy Hòa. Năm 1629, Văn Phong
dùng quân Chiêm làm phản , chuá Tiên sai cháu rễ là Nguyễn Phước Vĩnh ,
con trưởng Mạc Cảnh Huống lấy
công nữ Ngọc Liên con gái đầu
chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên, đi dánh dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành
dinh Trấn Biên ( dinh địa đầu nước nhà ). Năm 1653 , nhân vua Chiêm là Bà Tấm xâm lấn Phú Yên, chúa Hiền Nguyễn
Phước Tần sai Hùng Lộc làm thống binh, đem 3000 quân đi đánh, vượt đèo Hổ Dương , núi Thạch Bi, đuổi quân
Chiêm bỏ chạy chiếm đất đến sông Phan Rang. Chúa
Tần lấy sông Phan Rang làm biên giới mới
, từ phía Tây sông trở vào vẫn để cho
Chiêm Thành cai quản, nhưng Chiêm Thành
phải giữ lệ cống. Từ phía Đông dòng sông Phan Rang đến Phú Yên, xứ Đàng Trong lấy , đặt làm Phủ Thái Khương , sau đổi làm
Bình Khương là tỉnh Khánh Hòa ngày nay, chia ra làm 2 phủ là Bình Khương ( Ninh Hòa ngày nay) và Diên Ninh ( Diên Khánh ngày nay).
Đời Chúa Minh Nguyễn Phước Chu vua
Chiêm là Bà Tranh đem quân đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh, Chúa sai
Cai Cơ Nguyễn hửu Kính, con của Nguyễn Hửu Dật làm thống binh đem quân đi đánh. Năm 1692 , quân Việt đánh
bại Quân Chiêm, bắt được Bà Tranh cùng một viên quan là Kế Bà Tử ; Chúa
Nguyễn sáp nhập nước Chiêm vào bản đồ xứ Đàng Trong, đặt làm một trấn tên là
Thuận Thành. Năm 1693( ? ), đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận. Giam
Bà Tranh ở Núi Ngọc Trản ( điện Hòn Chén
). Năm 1684 Bà Tranh mất. Khi Bà Tranh bị bắt một viên quan Chiêm là Ốc Trảo Nha liên kết với
một người Tàu tên là A Ban, sau
đổi tên thành Ngô Lãng chạy về đất Đại Đồng ( ? ) mưu nổi lọan
Một người Chiêm tên Chế Vinh đốc xuất nhiều dân Chiêm theo Ngô Lãng. Cuối năm
1692, Ngô Lãng cướp Phố Hài ( ? ) giết Cai đội Nguyễn Trí
Thắng. Cai đội dinh Bà Rịa đem quân cứu viện
cũng bị phục kích giết . Ngô Lảng bèn mưu đánh Phan Rí, giết Cai Cơ Nguyễn Tấn Lễ, chiếm dinh trại, rồi
kéo binh đánh Phan Rang. Cai đội Phan Rang
Chu Kiềm Thắng, ít quân, đóng cửa
thành tự thủ. Tháng giêng năm 1694, Ngô
Lãng vây Phan Rang.Trấn thủ Nguyễn Hửu Oai đem quân đi đường thượng đạo đến cứu giải vây Phan Rang. Ngô Lãng chạy
về Phố Châm, rồi về Thượng dã
là biên giới Chân Lạp – Cao miên. Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ đem quân tiến đánh, mới dẹp yên bọn Ngô Lãng
. Trong các biến cố này một số người Chiêm
chạy sang Chân Lạp - Cao miên, một số khác chạy lên miền Cao Nguyên ( Tây Nguyên ngày nay ) . Tháng 11
năm 1694, thấy đổi ngay nước Chiêm Thành đặt dưới quyền cai trị của người Việt chưa tiện, Chúa Minh đổi phủ Bình Thuận lại thành trấn Thuận
Thành và phong Kế Bá Tử làm Phiên Vương
Thuận Thành để cai trị người Chiêm,
nhưng hàng năm phải nạp cống. Năm 1697, Chúa Minh lại lấy đất
từ Phan Rang, Phan Rí trở về tây, đặt ra phủ Bình Thuận, chia ra hai huyện là An Phước và
Hòa Đa. Người Chiêm vẫn cố gắng thỉnh thỏang nổi lên chống đối. Như
vậy trong thực tế năm 1693, chúa Nguyễn
đã chiếm hết đất Chiêm Thành, chỉ để lại
cho Chiêm Thành một khỏanh đất
Thuận Thành và một tước Phiên Vương cũng
do quan xứ Đàng Trong kiểm soát, cốt để
an ủi tộc dân Chiêm mà thôi.
Năm 1698, chúa Minh sai Thống
Suất Nguyễn Hửu Kính vào kinh lược phần
đất Chân Lạp mới chiếm được, chia đất
Đông Phố lấy xứ Đồng Nai đặt huyện Phước Long , lập dinh Trấn Biên ( Biên Hòa
ngày nay) ; lấy xứ Sài Côn- Preykor
đặt huyện Tân Bình , lập dinh Phiên Trấn
( Gia Định ngày nay ). Dinh Trấn Biên nay là Biên Hòa rồi không còn
là Phú Yên nữa và Phiên Trấn là Gia Định
thay vì là Thuận Thành . Tên Thuận Thành cũng bị bỏ và Chiêm Thành bị xóa hẳn trên bản đồ . Tuy nhiên, năm 1746,
đời chúa Vỏ Nguyễn Phước Khóat, ở Thuận Thành
hai người Chiêm là Dương Bao Lai và Diệp Mã Lăng nổi loạn. Bị LưuThú dinh Trấn Biên là Nguyễn
Cương đánh úp, bắt được cả hai đem giết
đi. Năm 1762, quân Tây Sơn vào đánh, Cai
cơ Tá ( họ ? ) quản hạt trấn Thuận
Thành sau khi Kế Bá tử chết, đầu hàng
Tây Sơn, đem bửu khí truyền quốc của Chiêm
Thành nạp cho Tây Sơn.
Phần II :
Lạm bàn Phát triển
tỉnh Ninh Thuận
1- Tham khảo văn hóa Chàm và các Tháp
Chàm
Thánh địa Mỹ Sơn một công trình kiến trúc cổ của dân tộc Chăm được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XI, bao gồm Cung Điện, đền thờ, thành luỹ. |
Hai điện thờ chánh của các triều đình Chiêm Thành là Mỹ Sơn ở tỉnh Quảng Nam và Po nagar Nha Trang ở tỉnh
Khánh Hòa, phản ảnh hiện tựợng song đôi quan niệm vũ trụ của Champa. Vị trí Mỹ Sơn là một thung lũng sâu chung quanh là núi non
hiểm trở. Còn Ponangar ở trên một đồi núi gần cửa sông ra biển. Mỹ Sơn ở miền Bắc là tiểu vương quốc Amaravati, thờ Thượng
Đế Thần( Thánh ) Cha- God Bhadrevara.
Po nagar Nha Trang xâycất ở miền Nam thuộc tiểu vương quốc Kauthara thờ Thánh
Mẩu ( Mẹ ) Bhagavati – Goddess Po Yang Inu Naga. Khỏang cuối thế kỷ thứ 4, Ấn Độ Giáo tràn vào
Champa. Điện Thờ Mỹ Sơn được vua Phạm Hồ Đạt Bhadravarman FanHuta , trị
vì 380- 413 xây dựng lên. Trong thế kỷ
thứ 9, Phật giáo tiểu thừa Mahayana Buddhism ảnh hưởng Champa và các điện thờ Phật Giáo
ở Đồng Dương, cách thủ đô Trà kiệu 15km,
được vua Jaya Indravarman II thiết lập vào khỏang 875 . Sau thế kỷ thứ 10, khi
Champa đóng vai trò quan trọng mỗi nggày mỗi thêm về buôn bán
ở Biển Đôn , được xem là « Đường tơ lụa qua Biển – Silk Road of
the Sea » từ Trung Đông đến Viễn
Đông, Hồi Giáo Islam du nhập Champa theo
chân các thương gia Ả Rập và Ba Tư.
Gần ¾ tộc dân Chàm sinh sống ở Việt Nam
theo một dạng Ấn Độ giáo ( Bà la Môn ) Bhramanism các mê tín địa phương đổi thay, tên gọi là Cham Kafir ( Kaphir ) hay Bội Tín, Dị Giáo - Infidel, Cham Jat ở từ ngữ Ả Rập. Chừng 6000
số người tộc dân Chàm còn lại,
phần lớn ở Châu Đốc ( Chà Châu Giang ) và Tây Ninh, theo một lọai Hồi
Giáo Đổi Thay Mohammedanism, tự gọi
mình là
Cham Bani, từ ngữ Ả Rập có nghĩa là các con của Chúa Trời Cảm ứng, Tiên Tri-
Prophet. Cham Kafir và Cham Bani sinh sống thuận hòa nhau; các
tăng lữ, tu sỉ một dạng Chàm này, nếu có lời mời, đều tham dự mọi lễ lạc dạng
khác. Nhiều thần thánh được thờ phụng
chung ở cả hai dạng tôn giáo Chàm.
Gia tài
vương Quốc Chiêm Thành truyền lại ngày nay vào đại gia đình văn hóa Việt Nam, rải rác khắp
nhiều tỉnh miền Trung và ở một vài nơi trên Tây Nguyên, dưới hình thể 80 tháp đền thờ - temple towers tên Chăm là kalan ( trong số hàng trăm kalan xây dựng, bị chiến tranh mãi đến
1975 tàn phá, điêu tàn, như ở Mỹ Sơn máy bay B52 đã phá sập 55 kalan và 15
kalan còn lại cũng mang đầy thương tích,
vì thời gian này Mỹ Sơn là một chiến khu quân đội Miền Bắc và Mặt Trận Giải
Phóng miền Nam sử dụng tấn công Cộng Hòa miền Nam ). Chiếu theo Trần Kỳ Phong
và Shige-eda ( năm 2002 ) đáng kể là các kalan tập trung : - ở Quảng Trị
là đền thờ thế kỷ thứ 10 Hà Trung
( ? )- ở Thừa Thiên , Huế là đền thờ thế kỷ thứ 11- 12 Liễu Cốc và đền thờ thế kỷ thứ 8 Mỹ
Khánh - ở Quảng Nam là Điện
Thờ Phức tạp các thế kỷ từ 7 đến 13 Mỹ Sơn
, điện thờ Phức tạp thế kỷ 9- 10 Đồng Dương, nhóm đền thờ thế kỷ thứ 10 Khương Mỹ, đền thờ thế kỷ 10 – 12 Bằng An - ở Bình Định là đền thờ thế kỷ 11-12 Tháp
Bạc / Bánh Ít, đền thờ thế
kỷ 11 Bình Lâm, đền thờ thế kỷ 12-
13 Dương Long, nhóm đền thờ thế kỷ 12- 13 Hưng Thạnh / Tháp Đôi, đền thờ thế kỷ 13-14 Cánh
Tiên, đền thờ thế kỷ 13-14 Thốc Lốc
, đền thờ thế kỷ 13-14 Thủ Thiện,
- ở Phú Yên là đền thờ thế kỷ 11- 12 Tháp
Nhạn - ở Khánh Hòa là điện thờ Phức tạp các thế kỷ 8-13 Po nagar Nha Trang - ở Ninh Thuận là nhóm đền thờ thế kỷ 9
Hòa Lai, nhóm điện thờ thế kỷ 13- 14 Po Kloong Garai, đền thờ thế kỷ 16-17 Po
Rame - ở Bình Thuận là
nhóm đền thờ thế kỷ 8-9 Po Đàm, đền thờ thế kỷ 8-9 Phú
Hài / Phố Hài . Và ở tỉnh Đắc Lắc là đền thờ thế kỷ 12- 14 Yang Prong. Đa số đền thờ này xây cất dọc theo các sông chánh của tỉnh.
Tháp bà Ponagar ở Nha Trang |
Nghệ thuật kiến trúc , điêu khắc độc đáo của các Tháp Chàm - Kalan
Nghệ thuật Champa là một yếu tố hội nhập nghệ thuật Đông Nam Á. Theo ghi chép bia ký, đa số
các tháp đền thờ xây cất trước thế kỷ
thứ 7 đều làm bằng gỗ, nhưng đều bị
phá tan tành qua các chiến cuộc. Sau thế
kỷ thứ 7 các tháp mới xây cất bằng
gạch và đá cát – sandstone . Theo Kiến trúc sư Đòan Đức Thành ( Văn hóa
Việt Nam, năm 1989), công trình kiến trúc Kalan Chăm là kiến trúc thờ các thần Bà La Môn – Brahman : Siva, Vishnu, Brahma, Xkanda, Mahara …
chủ yếu là thần Siva, các vương triều Chăm xây dựng từ thế kỷ thứ 7 đến thế
kỷ15. Lúc đó, tộc dân Chăm chưa hòa nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam, song
đã sớm giao lưu, chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa Ấn Độ, Cam Bốt và cả Việt Nam
nữa. Tuy hình dáng kiến trúc Kalan cũng
có dạng dãy núi đỉnh cao nhọn dần – sikhara, song lại xây bằng đất nung
chứ không bằng đá, niên đại còn sớm
hơn các sikhara đá Ấn Độ như đền
Lakshamana hay Angkor Wat, Cam Bốt . Đặc điểm xây cất là kỷ thuật tay đỡ,
tay chìa- corbel building technique. ( Trần và Shige-eda, 2002 ).
Thần Shiva, kiến trúc Kalan |
Theo kỹ thuật này, các gạch nung xếp hơi xìa
riêng ra theo xoắn ốc mái tháp nhọn, một
kiểu kiến trúc cũng thường thấy ở Cam
Bốt và ở trung tâm đảo Java, Inđônêxia. « Kỷthuật corbel » tạo ra những khỏang mái vòm bên trong rộng lớn.
Cho nên thành quả kiến trúc kalan Chăm là những cơ cấu cao với không gian bên trong tương đối to rộng.
Các gạch nung kích thước dài – dày khác
nhau chà- cọ xát nhau cho đến thật khít
nhau mới thôi. Cách đục đẻo gạch nung
phải thật tinh xảo để không hề bị sứt
mẽ dù dùng một số lượng lớn và cách liên kết các viên gạch tài tình, không có
chất dính liên kết ( ? ) vì không
thấy mạch, không thể tách rời từng viên ra được.
Ban đầu, kalan Chăm xây dựng
theo từng quần thể gồm 3 tháp kalang đứng ngang nhau, thờ ba vị thần Bà La
Môn là kalan Nam , kalan Chánh và kalan Bắc. Kalan chánh to lớn hơn hết, luôn luôn xây
dựng đầu tiên. Cạnh các kalan là nền phẳng những công trình phục vụ cho khách hành hương chuẩn bị tế lễ, kho tàng và
cổng phía trước , xung quanh có hàng rào vây kín. Kalan Chăm chỉ có một cửa ra
vào duy nhất mở lồi ra ở phía trước, không có cửa sổ, song xung quanh lại có
nhiều cửa giả chạm trỗ cầu kỳ. Kalan thờ thần mở cửa ra hướng Đông, người
Chăm cho đó là hướng của thần linh.
Kalan thờ vua mở cửa ra hướng Tây, hướng linh hồn người chết trú ngụ.
Khi các thành đô Chiêm Thành chuyễn dần xuống phía Nam, kiến trúc điêu khắc đơn
giản dần, chỉ có một kalan trung tâm và các công trình phụ.
Hình dáng bên ngòai kalan Chăm có ba lọai :
phổ biến nhất là kalan ba tầng, các tầng thu nhỏ dần theo chiều cao và kết thúc
bằng một chóp nhọn bằng đá được bọc vàng , bạc hay đồng. Cửa chánh nổi bật hơn
cả, bên trên có vòm cuốn, ở giữa gắn phù
điêu bằng đá hình vũ nữ hay các vị thần.
Chung quanh là những hoa văn chạm trỗ
rất tinh xảo. Bốn gốc của mỗi tầng bổ trụ
giả, đầu trụ gắn một kalan nhỏ, các tầng lớp hình thành dạng dãy núi đỉnh cao
nhọn dần kiểu sikhara. Lọai kalan phần mái thu nhỏ đều theo hình búp nhọn, biến thể là kalan mái lượn theo vòm cong đều đặn. Lọai kalan mái vat theo hình thuyền
rất gần gũi các ngôi nhà cỗ xưa của
người Việt.
Phong
cách điêu khắc, trang trí các mô típ hoa văn
nổi tiếng các kalan cũng khác nhau. Có thể phân biệt làm ra phong cách
Trà Kiệu ( thế kỷ thứ 7 ), phong cách Mỹ
Sơn ( các thế kỷ thứ 8- 9), phong cách
Hòa Lai ( thế kỷ thứ 9 ) và phong cách Đồng Dương ( các thế kỷ thứ 9- 10 ),
phong cách Kut thế kỷ thứ 17 , thế kỷ 18
. Chẳng hạn chạm trỗ bệ , chân cột trụ Ramayana
của Trà kiệu là hình người tóc
búi tó, chân dài v.v… Điển hình nhất là một
hàng vú – breasts phụ nữ. Mô týp vú phụ nữa thường được
chạm trỗ ở các đền thờ Chàm và
các bệ-nền suốt thế kỷ thứ 7 ở Trà Kiệu,
Mỹ Sơn, Dương Long, Tháp Mẫm, và từ thế
kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15 ở các đồ vật trang trí Vijaya Bình Định. Phong cách
Đồng Dương thể hiện ở chân cột trụ là
những mô týp trang trí hình giun ( trùn
) và hình người thân thể béo mập và ngắn
ngũi, của thế kỷ thứ chín ở một ngôi chùa
Phật Giáo Đồng Dương . Phong cách Kut hay chạm trỗ trên mộ chí – grave stone
. Mô týp vú phụ nữ xuất hiện trên Kut
– Mộ chí ở vùng Phan Rang vào các
thế kỷ thứ 17 và 18, đặc biệt ở làng Mỹ Nghiệp, quận Ninh Phước, là một chứng
cớ khuynh hướng muốn bảo tồn các mô týp
tộc dân Chàm suốt lịch sử nghệ
thuật Champa.
Kalan Chăm kiểu Ấn độ sikhara
là một đền thờ hình ảnh thiêng liêng
– yoni linga đặt trong một nơi
tối thiêng liêng - sanctum sanctorum ,
một phòng vuông nhỏ mái hình kim tự tháp. Kalan hình dung một
thế giới vi mô – microcosm thiêng liêng.
Tháp có thể giải thích là một bệ thờ -
altar, và mái tháp là đỉnh
núi Mount Meru , nhà của các thiên
thần. Như đã kể trên, kalan hướng về phía Đông ( Mặt Trời mọc ), khởi sự cuộc di chuyễn vũ trụ theo thời gian. Đặc biệt
tại Mỹ Sơn cơ cấu kalan lại hướng về hai phía Đông và phía Tây,
làm ra một đền thờ lọai tháp Mỹ Sơn A-1.
Ở Ấn Độ
kiểu kiến trúc này có tên là natamandir. Thần tượng thờ ở nơi tối
thiêng liêng đặt trên một bục đài kết thúc bằng một mương tắm gội
của các thiên thần snana –droni
luôn luôn phun trào về phía Bắc. Đôi khi
lại có một thùng chứa vuông khác dưới bệ thờ somasutra ( có nghĩa là phun
trào ) nước thiêng từ tháp chảy qua đó. Quanh bệ thờ là một
hành lang hẹp pradakshina patha cho người mộ đạo xếp hàng nối đuôi nhau cầu nguyện. Ở các đền
thờ Phật Giáo như Đồng Dương, bệ thờ
được đặt ở tường phía Tây nơi tối thiêng liêng để cúng bái làm lễ lạc trước bệ
thờ , nhưng không ai được phép đi quanh
bệ thờ như ở đền thờ Ấn Độ. Liên kết với
mật thất qua một cánh cửa là một tiền
sảnh ( phòng ngòai ) hẹp một phía bên là tượng bò đực màu trắng – white bull thiêng liêng Nandin như
ở các tháp Chàm Po Kloong Garai và Po Rame. Ở ngỏ vào tiền sảnh là hai cột đá chạm
trỗ tinh vi. Cột đá có thể tròn,
hình bát giác hay vuông vức tùy
theo thời đại xây cất. Ở Điện Thờ Phức Tạp Mỹ Sơn thuộc các nhóm A và B là một mạng lưới đền thờ thứ cấp, thờ các thần linh
của địa bàn – dikpalakas nghĩa là 7
hành tinh vũ trụ. Tỉ như Mỹ Sơn A2- A7 là
để tôn thờ: 1 là Indra hay thần sấm sét, cởi voi gìn giữ phía Tây , 2 là Agni, thần lữa ( hỏa ) cởi tây ngu, bảo vệ phía Đông Nam,
3 là Yama
hay tử thần cởi trâu, bảo vệ phía Nam, 4 là Varuna
hay thần nước ( thủy ) cởi ngỗng, bảo
vệ phía Tây, 5 là Nairrta
hay
thần phá hủy, cởi một bán thần – demigod , bảo vệ phía Tây Nam, 6 là Vayu hay thần gió cởi ngựa bảo vệ phía Tây Bắc, 7 là Kubera hay thần sức khỏe và may mắn trên
một lâu đài, bảo vệ phía Bắc, 8 là Isana thế
lực tối cao, cởi bò đực, bảo vệ
phía Đông Bắc. Còn nhóm Mỹ
Sơn B7- B12 lại thờ : 1 là Surya, thần Mặt Trời cởi ngựa, 2 là Chandra hay thần Mặt Trăng ngồi trên một
ngôi sen, 3 là Mangala hay thần Sao Hỏa cởi tây ngu, 4 là Varuna hay thần Sao Thủy ngồi trên lưng ngỗng, 5
là Brhaspati
hay thần Sao Mộc cởi voi, 6 là Sukra
hay thần Sao Kim, 7 là Sahni hay thần
Sao Thổ cởi trâu. ( theo Trần Kỳ Phương, 2004 ). Xin nhắc lại là trùng tu Phức
tạp Mỹ Sơn khởi sự năm 1937, do hai nhà
bảo tồn cỗ học Louis Bezacier và Nguyễn
Xuân Đồng thực hiện. Các dinh thự nhóm B và D
tỉ như B3, B5, B6 và D1, D2, D6 được cũng cố. Năm 1938, đền thờ A1, một
kiệt tác kiến trúc Champa và 6 tháp nhỏ ( A2- A7 ) được tái thiết và các cơ cấu
khác của B1,B3, B4, B5, B6,C1, D1, D2
được cũng cố. Các nhà bảo tồn cỗ của Trường Viễn Đông Bác Cỗ ( Ecole francaise
d’ Extrême Orient, EFEO ) dùng xi măng, cát , sạn sỏi , sắttcũng
cố các nền và tường các dinh thự hay tái xây cất những phần tháp bị đập vỡ, hầu
cố giữ cho được các mặt bằng nguyên thủy
càng nhiều càng hay. Công trình
tái thiết Mỹ Sơn được đô đốc Decoux, lúc
đó là Tòan Quyền Đông Pháp, công nhận là
« Công viên Cỗ Tích – Parc Archeologique de Mỹ Sơn » tháng 8
năm 1942. Từ năm 1978, vị trí Mỹ Sơn đã được dọn sạch mìn và lấp hết các hố bom và làm sạch
đạn dược không nổ. Năm 1980, một nhóm chuyên viên Ba Lan thuộc Bộ Văn Hóa Và Thông Tin, tiếp tục
khảo cứu những công trình Chàm ở khắp miền Trung Việt Nam, do kiến trúc
sư Kaxier Kwiatkkowski ( 1944- 97 ) thuộc Bộ Bảo Tồn
Văn hóa Ba Lan, thiết lập và dẫn đạo.
Cách trung tâm thị xã Phan Rang về phía Tây Bắc là các Tháp Chăm Po
Kloong Garai . xây dựng khỏang cuối thế
kỷ thứ 13 và đầu thế kỷ thứ 14 , vẫn còn huy hòang, tráng lệ , dù đã bị tàn phá theo thời gian. Các tháp
ngự trên đồi Trầu – Betel hill ở
phường Đồ Vinh ( ? ) thị xã Phan
Rang, xây cất để thờ phụng vua Po kloong
garai ( 1152- 1205 ). đã làm nhiều điều tốt cho dân Chăm, đặc
biệt là xây dựng hệ thống tưới tiêu – dẫn thủy nhập điền địa phương. Phức
tạp kiến trúc này gồm 3 tháp. Tháp thứ nhất là Tháp Chánh, dài
13.8m, rộng 10.71 m và cao 20.5 m. Đây
là nơi chánh làm các lễ tôn giáo. Một tượng bán thân vua Poklonggarai được trịnh trọng đặt bên trong Tháp Chánh cho
dân tôn thờ. Tháp thứ hai là Tháp
Cổng- Gate Tower, dài 5.10m, rộng 4.85m và cao 5.65m. Đây là nơi vua tiếp
đón qúi khách. Tháp cuối cùng có tên là Tháp
Lữa – Fire Tower, dài 8.18m, rộng 5m và cao 9.31m, là nhà bếp hòang cung
Chăm . Các tàn tích này đã được Bộ Văn
hóa xếp vào hạng di tích lịch sử văn hóa Việt Nam .
2-
Lễ hội Năm Mới văn minh Chàm Kate New Year Festivals.
Ninh Thuận là tỉnh tộc dân Chàm đông đảo nhất nước, cho nên các lễ
hội văn minh Chàm được tổ chức đặc biệt
là lễ hội năm mới – kate festival cho Chàm Kafir ( Brahmanist ) ở quận Ninh
Phước ( Phước Dân ), phía Đông Nam thị xã song đôi Phan Rang – Tháp Chàm. Biểu
hiện sặc sở qua màu áo, kiến trúc, điêu khắc, đồ gốm như gốm Bầu Trúc quận Ninh Phước, áo thêu kim
tuyến -weaving brocade, chữ viết Chàm. Nổi bật nhất là các lọai dân ca –
folks songs , phản ảnh nhiều đến các
điệu ca, lời ca Nam Bình - Nam Ai vùng Quảng Trị - Thừa Thiên- Huế và nhất là
các điệu múa, vũ – dance Chàm. Múa Cung đình ở Việt Nam
gồm ba tộc dân Chăm , Khmer ( ở Nam Bộ)
và Kinh . Múa cung đình Chăm chỉ còn dấu vết
ở các tượng đá Vũ nữ Trà Kiệu, Vũ
hội cung đình…, các thế kỷ thứ 7 và
thứ 8 … Không hiểu các kiểu múa cung đình Kinh ở miền Bắc như múa Bát
Dật với một đội hình 64 vũ công gồm
hai điệu múa võ và múa văn và múa cung
đình Huế là múa Hoa Đăng ,6 lần dân cúng
hương, hoa, đèn, trà, quả, ỏan với 6
cô tiên múa, sau phát triển múa đông người ; có bao nhiêu phần pha trộn cổ điệu Chăm và Ấn Độ Giáo? Khi chúng ta nhớ lại rằng tháng 7
năm 1044, vua Lý Thái Tông, sau khi phá thành Phật Thệ, bắt hậu phi của vua
Chăm Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát về kinh sư
hát múa điệu Tây Thiên cho cung đình nhà Lý. Múa điệu lên đồng ở điện Hòn Chén, tức điện Ngọc Trản – Huế chắc chắc đã chia sẽ phương cách Ấn Độ của
người Chiêm thờ phụng thánh mẩu Thiên Y Ana tại Tháp Bà
Po Nagar – Nha Trang. Po Nagar gọi
đúng tên là Po-yang-ineou-Nagar là vợ của
thiên thần Siva là vị thần uy vũ nhất tộc dân Chăm. Ngay cả các loại múa dân gian của tộc dân
Chăm như múa quạt , múa bình cũng đã
có thể ảnh hưởng đến các lọai múa quạt , múa nón … tộc dân Kinh (? ). Lễ hội Chăm còn đến nay là lễ hội khai mương thóat thủy, đập tưới ruộng đất chận giữ nước thung lũng sông ngòi, lễ hội các thứ hoa màu khác lúa gạo và lễ
gat là lễ đón mùa lúa mới. Thánh mẫu Ponagar, tòan tên là Po-
Yang-Ineou-Nagar – Bà Chúa Mẹ Vương
Quốc, vợ của thần Siva và là thiên thần uy vũ nhất. Dân Chàm tôn thờ bà là vị thần
của ruộng lúa và được mùa phong phú. Bà còn có tên là Bà Đen - Muk Juk – Black Lady hay Pata Kumei - Vương Mẩu Đàn Bà – Queen of Women. Bà có nhiều con gái, vài cô tốt hiền, vài cô
xấu dữ. Một số vẫn còn được tôn thờ: Po-Nagar Dara, Po- Bja-Tikuh và
Tara-Nai-Anaih. Tộc dân Kinh thờ thánh Mẫu Po Nagar dưới tên là Bà
Chúa Ngọc, làm lễ cầu xin ân đức Bà với múa hát hai lần mỗi
năm, vào tháng 2 và tháng 8. Tượng bà Po – Nagar đặt ở
ngọn Tháp Bà lớn nhất ở vùng núi
Cù Lao, Nha Trang.Tòan thân nữ thần thánh mẩu thiên Y Ana được điêu khắc bằng đá xanh, ngồi uy nghi xếp bằng trên một
nền đế cao rộng bằng đá khối. Đường nét tượng thần điêu khắc, chạm trỗ cực kỳ
tinh xảo, nhưng vẫn tóat lên một vẽ dịu dàng, uyển chuyển, sống động. Lễ lạc ở Tháp Bà rất kỳ thú vào đêm giao thừa; du khách được thưởng thức
một mùi hương phảng phất, đó là hương kỳ nam, hương trầm rừng sâu đưa đến quyện lẫn hương nhan, hương
hoa từ nhà chùa bay tới. Nguồn gốc là dân đi biển ( có khi là cướp biển ) nên
một số dân Chàm Ninh Thuận gần bờ biển
còn có Chùa Cá Voi ( dân Kinh gọi là Cá Ông ) .
Kate New year festival |
Bon Kate ( hay Kate ) và Bon Cabour ( Tia Bour ) là hai lễ hội uy nghiêm nhất của tộc dân Chàm. Lễ Kate vào ngày
mồng 5 tháng năm lịch Chàm ( khỏang tháng 9- tháng 10) và lễ Bon Cabur vào ngày mồng một tháng 9 Chàm ( khoảng tháng
giêng – tháng hai). Hai lễ lạc này là để tôn kính tổ tiên và dâng lễ vật lên 3
vị thần chánh là Po Nagar, Porome và Poklong Garai . Po rome
là vị vua cai trị dân Chàm từ năm 1627 đến năm 1651, nổi lên chống lại dân Việt – Kinh, bị
bắt giam và chết trong nhà tù. Truyền thuyết có lẽ nhầm với vua anh hùng Chế Bồng
Nga, cai trị dân Chàm từ năm 1328 đến năm 1373 . Po rome lấy vợ thứ hai là công
nương Ngọc Khoa con gái Chúa Sải, đã chặt cây linh thiêng là Kraik có thần bảo
vệ nước Chàm trú ngụ trên cây, bà vợ Việt theo lời cha yêu cầu vua Chàm đốn bỏ,
hầu chửa bệnh mình. Nên khi quân xứ Đàng
Trong xâm chiếm không còn thần bảo vệ;
nước mất, Po rome
bị bắt. Poklong Garai bị bệnh cùi khi
còn nhỏ, chăn trâu mãi cho đến khi gặp
một con rồng chửa lành bệnh, theo truyền thuyết đã có uy lực siêu tự
nhiên, tỉ như vặn cỗ trái mướp cho quẹo đi và làm lá chuối nổi bật gân. Trong 16 năm đầu trị vì, Po-Kloong Garai xây dinh thự, đào kênh, làm
đập ngăn nước sông và dạy cho dân Chàm dẫn thủy nhập điền. Sau 54 năm trị vì (
1151 – 1205 ), vua lên Trời, theo yêu cầu các vị thần linh. Lễ Bon Kate cúng dường ở các kalan và
nhà lá bumon- leaf huts. Còn
dâng tế vật lễ Bon Cabur, phần lớn thờ phụng nữ thần, làm ở các tháp thường và
trong gia thất .
3-Các danh lam thắng cảnh
khác, Ninh Thuận đón mời du khách trong khung cảnh tam giác đặc thù Đà Lạt –
Nha Trang – Phan Rang
Một điệu Múa Chàm |
Phụ nữ Chàm |
Đáng kể là dự án Công ty Liên doanh Du lịch và Đầu tư Bình Tiên đang xây cất môt khu du lịch rộng 190 ha có một nhà nghĩ mát xa xỉ, một khách sạn lớn, một villa, một làng văn hóa, một bải cho chó chạy đua và một sân gôn 18 lỗ. Số vốn công ty là 2. 58 ngàn tỉ đồng Việt
Cồn cát Ninh Thuận |
Phát triển du lịch, công nghệ, đô thị mới tất nhiên phải nâng cấp,
cải thiện đường xá, đường xe lữa, các hải cảng, phi trường … Đường quốc lộ số 1A và đường xe lữa Nam Bắc đi ngang qua thị xã tỉnh nay gồm cả thị trấn Phan Rang lẫn thị trấn Tháp Chàm,
như đã nói trên. Có lẽ đến lúc tân tiến hóa các ga xe lữa tỉnh nhà
như ga chánh Tháp Chàm và hai ga
nhỏ là Bà Râu ở quận Thuận Bắc và ga Cà
Ná ở phía Nam, cùng tân tiến hóa thêm quốc lộ số 1 và đường xe lữa Nam Bắc.
Cũng như đã trùng tu làm du lịch, đường xe lữa
dây xích móc - tremaillères Tháp Chàm - Đà Lạt, và sân bay dân sự quốc tế Cam Ranh ( ? ). Hình như cầu Ninh Chữ dài 511m, bắt ngang qua vịnh Khánh Hải, phí tổn 192 tỉ
đồng VN đã xong năm 2011. Công ty Hyundai Amco
Hàn Quốc ( Nam Hàn ) đã khởi sự
xây cất cầu An Đông nối quận Ninh
Phước với phường Đông Hải thị xã Phan
Rang (?).
Ninh Thuận có 3 cảng là Vĩnh Hy
phía Bắc quận Ninh Hải, Ninh Chữ phía Nam quận Ninh Hải gần thị xã Phan Rang và
Cà Ná phía Nam tỉnh nhà. Quốc lộ số 27
nối liền Phan Rang và Đà Lạt qua đèo Ngọan Mục. Đáng tiếc là chưa ai quan niệm
nối quốc lộ 20, ở ngã rẽ Đơn Dương -Thanh Mỹ ( trên Đức Trọng -Liên Nghĩa,
tránh đèo Ngọan Mục ) về một trong ba cảng Ninh Thuận, chuyên chở alumina( oxyd
aluminium ) Đắc Nông – Lâm Đồng, nhiên hậu cả alumina Cam Bốt -tỉnh Modulkiri (
?) về Ninh Thuận, tinh luyện thêm ra aluminium và các hợp kim, vì nay mai
Ninh Thuận sẽ có đủ điện tinh luyện alumina, khi thiết lập xong 2 nhà máy điện
hạt nhân và nhà máy điện gió hiệu xuất
lớn 200 MW của công Ty Nam Trung, sau nhà máy điện gió ở Phước Hửu, một trong
những nhà máy điện gió đầu tiên nước nhà ! Thay vì phải dự định chở alumina xuôi Nam theo đường quốc lộ 20 đến cảng Gò Dầu, Biên
Hòa – Đồng Nai, hiện đã quá tải có thể không chịu nổi trọng tải các xe vận tải 40 tấn
( theo bộ giao thông vận tải ). Và biết đâu trong tương lai gần, cà phê Tây
Nguyên , cao su , tiêu …Tây Nguyên cũng dùng đường nay bổ sung chuyên chở quốc
lộ số 14 về TP Sài Gòn – Đồng Nai ?
Mô hình cầu Ninh Chữ |
3-
Không nên sao lãng phát triển nông ( ngư ) nghiệp
A - Canh Nông
- Tìm
cách tăng năng xuất lúa gạo bà bắp ( ngô )
Tuy tỉnh Ninh Thuận có mức đô thị hóa lớn
nhưng dân nông thôn tỉnh nhà vẫn còn đến 65- 67 % năm 2007, sinh sống nhờ nông - ngư nghiệp. Cho nên không thể sao lãng canh tân ngành
nông, vì nông ngư dân phần lớn nghèo khổ, tại một tỉnh có tiếng là một trong 4
tỉnh nghèo nhất nước như đã kể trên. Cũng như
đa số tỉnh khác, căn bản nông nghiệp Ninh Thuận vẫn còn là lúa gạo. Trong số 70 000 ha trồng trọt,
lúa chiếm 33 400 ha( 3 vụ trong năm ) vào năm 2007. Tăng 4- 5000 ha so với năm 1995,
nhưng không mấy thay đổi kể từ các năm
1999 – 2000. Năm 2007, tỉnh nhà sản xuất 173 000 tấn lúa, năng xuất trung
bình trên 5,2 t/ ha. Gần mức trung bình
của cả nước, nhưng không phải là xuất sắc, vì khí hậu Ninh Thuận nhiều nắng
suốt năm, làm lúa nước tưới tiêu có kênh mương dẫn thủy nhập điền mới cũ, đáng
lý năng xuất trung bình các giống cao năng trung bình ngày nay phải là
6- 7 tấn/ha/vụ. Vụ lúa mùa Ninh Thuận thường có năng xuất kém nhất so với các vụ Đông Xuân hay Hè Thu, có
lẽ cần lưu ý chuyễn đổi, nếu được. Đáng quan tâm hơn nữa là năng xuất bắp (
ngô ). Năm 2007, trồng trên 14200 ha, sản lượng là 36 300 t. Năng xuất bắp
tỉnh nhà chỉ mới là 2.57t/ ha, tuy đã tăng gần gấp đôi so với các năm 1998- 1999, còn kém xa tiềm năng các bắp lai
tuyễn chọn ở miền Đông Nam Bộ ( Ninh Thuận và Bình Thuận thuộc miền
này), năng xuất từ 7- 10 t/ha.
- Hai cây
hạng nhất nước: một cũ là thuốc
lá nâu, một mới là nho ăn tươi
Trồng thuốc lá ở Ninh Thuận |
Ninh
Thuận, từ năm 1980, đã nổi tiếng nhờ phát triển ở quanh nhà, những vườn nho ăn tuơi - table grapes. Diện tích nho ăn tươi Ninh Thuận là 26 ha năm 1985, trong khi mãi đến năm 1994,
cả nước vẫn chưa trồng được một mẩu tây nho nào cả. Theo Lê Quang Quyền và Vũ xuân
Long ( tài liệu FAO- 2000 ) thuộc Trung Tâm Nha Hố, năm
2000, Ninh Thuận đã trồng được hơn 2400
ha nho ăn tươi, 90 % tổng số diện tích trồng nho cả nước năm đó là 2675 ha , và nho trồng các tỉnh miền Bắc ( Bắc Giang, Hà Tây, Hải Dương, Vĩnh Phúc)
lại là cả ba lọai: nho ăn tuơi, nho làm rựợu -wine grapes và cả nho
khô – raisins nữa. Bỏ xa đằng sau
Bình Thuận, một tỉnh khác cũng chỉ trồng nho ăn tươi( tập trung ở quận Tuy Phong )diện tích
năm 2000 mới đạt 250 ha, 9 % tổng diện tích.. Thật ra nho ăn tươi đã được
trồng thử khá thành công ở ngoại ô Sài Gòn, từ cuối thập niên 1960, với các
giống du nhập Thái Lan, đặc biệt giống nho xanh White Malaga, nguồn gốc Tây Ban Nha. Vào đầu thập 1970, Trung tâm Nha Hố- Ninh Thuận đã thử nghiệm
nhiều giống nho từ Hoa Kỳ, trong đó có các giống nho ăn tươi bộ Nông Nghiệp Hoa
Kỳ tuyễn chọn cho các xứ nhiệt đới, đặc biệt thích hợp là giống Cardinal, một giống nho đỏ nâu. Vào giữa
thập niên 1980, 4 giống nho ăn tươi phổ biến ở Ninh Thuận là các giống thử
nghiệm ở Trung Tâm Nha Hố : Muscat blanc- Muscat de Hambourg ( nho vỏ xanh Pháp cũng đã thí nghiệm thành
công ở Cam Bốt vào thập niên 1960-70 ), Alden , Ribier và Cardinal. Chỉ có Cardinal là giống Ninh Thuận thích
trồng mà thôi. Giống này có nhiều ưu điểm là cao năng, trái chín khó rụng cuốn
khỏi chùm nho và tăng trưởng ngắn ngày hơn 3 giống kia. Chu
kỳ từ khi xén tĩa cành đến thu
họach khỏang 4 tháng, 85-95 ngày, nghĩa là có thể thu họach 3 lần một năm.
Trong 4 Trung Tâm có thu thập 3 lọai
giống nho ( ăn tươi, làm rượu và nho khô )
ở Việt Nam, Trung Tâm Khảo Cứu
Bông Vải ở làng Nha Hố, quận Ninh
Sơn có bộ sưu tập các giống nho lớn nhất nước, tổng cọng là 61 (? ) giống, gồm 12 giống địa phương, giống ngọai du nhập từ lâu và 49 giống mới du nhập từ Pháp, Hoa Kỳ, Úc Châu, Ấn Độ, Thái Lan, Trung
Quốc và Đức và 3 giống dùng làm gốc tháp - rootstocks . 34 giống nho ăn
tươi và 25 giống làm rượu nho. Nghiên cứu cho thấy các giống NH ( Nha Hố )- 01-08 , NH-01-48 và
NH-01-60 là nho ăn tươi tốt, NH-02-04,
NH -02-10 và NH- 02-17 làm rượu tốt và
NH-01-17 làm nho khô tốt. Tại
Trung Tâm Rau Đậu và Cây Ăn Trái (Quả ) Hà Nội, giống nho ăn tươi tuyễn
chọn là Vilard Noir, tại Trung Tâm Tuyễn chọn Cây Trồng và Động Vật
Địa phương Ninh Thuận và Trung Tâm Phát Triển Kinh Tế Xã hội Bình Thuận ở quận
Tuy Phong là giống Black Queen. Chỉ có giống
NH-01 – 48 là được nhà vườn
Ninh Thuận thích trồng. Vì tuy chu kỳ
tăng trưởng từ xén tĩa cành đến thu họach dài hơn Cardinal 25- 30 ngày, nhưng kháng được bệnh lá sương mai – powdery
mildew, thối chùm – bunch rot,
chết lá non và lá già – downy mildew, tốt hơn Cardinal. Năng xuất cao hơn,
phẩm giá trái cũng tốt hơn ( ngọt hơn, ít hột hơn, vị thơm hơn ). Kỷ thuật trồng vườn nho ở Ninh Thuận và Bình Thuận là làm
giàn lưới mắt cáo – treillis cao hơn hẳn đầu, thay vì đóng cọc căng dây cho
nho leo ở Âu Mỹ. Dây nho cho leo trên giàn kiểu mạng nhện. Nho Ninh Thuận trồng bằng hom - cuttings. Tỉ trọng trồng thường là 2000 cây
một ha. Mùa trồng nho ăn tươi vào tháng chạp và tháng giêng mỗi năm. Xen tĩa cành
bất cứ lúc nào, thường cách nhau 10 – 15 ngày. Nho Ninh Thuận mau già cỗi vì khai thác quá độ . Mỗi năm thu họach từ 2.5 đến 3 lần , bất cứ
lúc nào trong năm, tùy theo lúc xén tĩa cành. Nhà vườn phải nhổ nho già trồng
lại sau 10 năm thu họach. Năng xuất
trung bình ở Ninh Thuận là 30 tấn
trái/ha. Thí nghiệm ở Trung Tâm Nha Hố cho thấy: năm thứ nhất năng xuất rất
nhỏ, đến năm thứ ba mới cao, kéo dài đến
năm thứ 6 - thứ 7 và giảm đi từ năm thứ 7 – thứ 8 , năm thứ 12 chỉ bằng năm thứ
nhất nghĩa
là vườn nho đã già cỗi rồi, không bỏ công
săn sóc bón phân, xén tĩa, trị sâu – bệnh, phun thuốc điều hòa tăng
trưởng … nữa. Mùa thu họach năng xuất cao là Đông-Xuân và Xuân- Hè, và thu họach thấp, bất ổn là từ Thu
đến Đông. Vì lợi lộc trồng nho ăn tươi rất cao, cho nên nhiều nông dân đã bỏ
lúa và hoa màu khác xoay qua trồng nho, ngay cả ruộng làm được 2 mùa lúa và trên
đất cát gần bờ biển. Những vườn
nho ở điều kiện này hay bị ngập lụt, đất quá acid
hay quá ít chất dinh dưỡng, ít phì nhiêu, phải đầu tư bón phân tốn kém
hơn. Mưa thường xảy ra cuối năm từ tháng 8 đến tháng 11, song song với nhiệt độ
cao, khiến nhiều bệnh cây nho tai hại phát sinh mau lẹ. Cho nên phải xịt thuốc trừ bệnh nhiều lần, quá tốn kém. Hai năm 1998 và 1999, Ninh Thuận bị mưa giông và nước
lũ, gây tai hại lớn cho các vườn nho, phá hủy 1487 ha và làm các vườn nho còn lại sản xuất
thấp hẳn đi, nhiều năm sau mới phục hồi .
Khảo cứu cải thiện cây hốc tường mới -cũ, đến mức phát triển nho
Ninh Thuận và thanh long Bình Thuận ?
Tuy nho là cây ăn
trái ưu tiên ở Ninh Thuận, một số lọai
cây trái khác cũng đáng tìm hốc tường phát triển thích nghi ( đất
đai, khí hậu, khéo léo dân tình, thị
trường, biến chế, bảo quản … ) tăng lợi tức cho dân nghèo tỉnh nhà. Trước tiên
là các cây chùm ruột, tên khoa học là Phyllanthus
acidus, tên Pháp là surette, tên Anh
là malay hay tahitian gooseberry, tên Khmer
là Kantout, có đặc điểm là cành mọc luôn
luôn chĩa hai , trái vàng mọc trên cụm
hoa dài 5- 7cm , có 3 khía rỏ rệt và hột
lõi rất cứng. Không nên lầm với chùm ruột núi, tên Anh là emblic hay malacca
tree , một lọai trái hoang dại mọc từ mặt biển lên đến 1500m, cũng thích nghi cho khí hậu khô cằn như chùm
ruột trồng trọt. Có thể chùm ruột nguồn
gốc Brasil. Nên tuyễn chọn các giống cao năng, chua ngọt hơn của Thái Lan, Cam
Bốt, Brasil …, để sản xuất chùm ruột
ngâm muối như Thái Lan đã
xuất khẩu sang Hoa Kỳ dưới tên là Mayom , hay làm mứt chùm ruột, pha
muối ớt trái khô mùi vị đậm đà.
Dân Cam Bốt dùng lá chùm ruột làm gia vị cho
cá. Nhưng phải coi chừng vỏ cây chùm
ruột khá độc. Từ mặt biển cho đến cao độ 700m
vùng khô hạn, tưởng nên tuyễn chọn lòai bồ
( mùng , bần , mồng, mận ) quân đã trồng trọt nhiều nơi ở tên Anh là rukam
tên khoa học là Flacourtia rukkam ,
một lọai hạnh đào xơ ri xứ nhiệt đới khô hạn, trái khá to 2.5 cm, giống không
cần xoa vỏ nhiều, vỏ mới khỏi chát . Còn xơ
ri-
hạnh đào xứ nóng Gò Công, cùng họ thực
vật với cây ổi thì cần mưa nhiều hơn nên thử nghiệm ở núi Chúa hay các núi cao hơn gần ranh giới Lâm Đồng , Khánh Hòa ).
Hay lai giống tuyển chọn cùng 8 loài hoang dại khác đã nhận diện ởViệt Nam là
bồ quân núi Flacourtia
montana vùng Ninh Hòa hoặc lòai mận xơ ri tổng trấn - governor plum
tên khoa học là Flacourtia indica
cũng đã có mặt ở các rừng khô hạn
Nha Trang – Phan Rang. Một lọai bồ quân
khác là bồ quân Ba Tây, xơ ri Brasil nhiệt
đới, trái có vị nho, trái mọc đầy thân cành, tên khoa học là Myciaria cauliflora, tên Anh là
Jabotica, trái cở 2.5cm như nho đỏ, vỏ
nâu tím hay đen, cây ra hoa ra trái suốt năm. Trên đất kiềm Cà giang, nên nghĩ đến cây lựu
Punica granatum , tên Anh là pomegranate , tên Pháp là grenadier, nay
đã có nhiều giống tuyễn chọn, trái rất to ở miền Nam bang Ca Li và miền Nam
bang Texas, Hoa Kỳ . Lẽ dĩ nhiên là không nên quên các loài dừa lai mới , bổ gáo
uống nước, cây thấp , trái nhiều, nước dừa ngon ngọt; các lọai mảng cầu ta – na chịu khô hạn và đất mặn , các lọai mảng cầu xiêm – corrosol các lọai mới Mễ Tây Cơ; các lọai táo ta – jujubes đặc biệt là các giống táo ta tân tuyển Ấn Độ Zyziphus mauritania, trái to hơn táo ta Thái Lan nhiều và tháp được
trên táo ta chua địa phương Zyziphus
rotundifolia; các loài dâu ta Baccaurea
ramifolia , dâu da Baccaurea sapida
( không phải dâu tiên- nam trân Baccaurea sylvestris vùng Quảng Nam cần nhiều mưa hơn ), bòn bon
giống ngọt lịm Mã Lai Á Lansium
domesticum ; ngay cả sung tây – sung
ngọt ( figs ) Ficus carica lọai tuyển
chọn mới không cần ong đặc biệt thụ phấn để hoa đậu ra trái; và loài họ thị cây hồng
nhung trái nhăn nheo, nhưng thịt ngon ngọt Diospyros digyna, trồng nhiều ở vùng khô hạn . Cuối cùng có lẽ cũng
nên khảo cứu thí nghiệm các giống cây
mọc tốt ở vùng khô hạn như nha đam
Aloes vera, tông Agao- Agave;
như nô- ni Morinda citrifolia var bractata trồng nhiều thay mía và thơm ( dứa, khóm ) ở
Hạ Uy Di không phải cây ba kích và nhàu lá nhỏ làm thuốc cùng tông Morinda tìm
thấy ở Việt Nam, như cây cồ nốc cây trái kỳ diệu -
Miracle fruit Synsepalum dulciforum
trái trích lấy chất thaumatin có đặc tính làm mọi trái chua đều hóa
ngọt khi đặt vào lưỡi; cuối cùng là các lòai Agao
– Agave sp. lấy nhựa trích chíết chế tạo rượu mùi kiểu dân Mỹ la tinh ưa
chuộng tequila.
Cây chùm ruột |
Tưởng cũng nên nhắc đến những cây trồng
trên đất cát, có tưới tiêu, đã làm nhiều ở Ninh Thuận như các lòai gia vị hành tây, tỏi …, và ớt . Nhưng phải thay
bằng các giống hành -tỏi mới Á Châu hay Âu Mỹ, nếu được
lựa ớt cay quán quân trước đây ở Châu Mỹ la tinh như Habanero, Savina, mới đây là Bhut
Jolokia ở Ấn Độ, Trinidad Scorpion
ở Úc châu, Naga Viper- Infiniti Chili
( ? ) ở Anh. Cố gắng cải thiện làm rau đậu đặc sản Ninh Thuận như cuốn lá nho chay hay đệm thịt dê thịt cừu; các lọai đậu
xanh, đậu “dal” khác cao năng làm sốt cà ry; cải thiện giống khoai lang Trà
Kiệu thành những khoai lang chiên ngon đang thịnh hành ở Hoa Kỳ, thay
thế được khoai tây chiên kiểu Pháp – French fries ….
B – Ngư nghiệp
Cá mú |
4- Phát triển công nghệ
- Năng lượng
Nhà máy thủy điện Sông
Pha đặt vị trí ở quận Ninh Sơn, phía Tây
Bắc tỉnh Ninh Thuận, công xuất trên 400 000 kw. Kế tiếp, tổ hợp Công ty điện
lực Việt Nam
–EVN đã quyết định đa dạng ra khỏi thủy điện ở tỉnh nhà. Tập trung vào các điện
“sạch” . Ngày 25 tháng11 năm 2001, quốc hội Việt Nam đã chấp thuận xây cất hai
nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, tổng chi phí đầu tư là 200 ngàn tỉ đồng VN
( khỏang 11 tỉ đô la Mỹ). Sẽ gồm
có hai nhà máy mỗi nhà máy là hai nhóm
tua bin công xuất 2000 000 kw, 5 lần hơn
công xuất của thủy điện Đa Nhim hiện nay. Ninh Thuận đang ráo riết dựng các cột điện cao thế nối với hệ thống mạng lưới điện quốc gia, cung
cấp điện cho các xí nghiệp khu công nghệ đã và đang thành lập,
tỉ như nhà máy thép Cà Ná sẽ cần rất nhiều điện, cũng như các thị trấn lớn nhỏ
đang mở rộng thêm và các vùng du lịch.
Nhà máy thứ nhất ở xã Phước Dinh, quận Thuận Nam . Nhà máy thứ hai ở xã Vĩnh Hải, quận Ninh Hải. Năm 2014, sẽ khởi
công xây cất nhà máy thứ nhất và tua bin đầu tiên sẽ họat động năm 2020. Ninh
Thuận là nơi có tỉ lệ gió biển lớn nhất
nước; ở cao độ 65m tốc độ gió là 7-7.5m một giây. Tỉnh đã chấp
thuận cho Công ty EAB Viet Wind Power Co.
môn bài phát triễn nhà máy điện
gió Phước Hửu trị giá 1.5 tỉ đồng VN, một trong
những dự án điện gió đầu tiên nước nhà. Chức quyền Ninh Thuận cũng vừa chấp thuận nguyên tắc cho Công ty liên doanh Đầu tư và Xây cất Trung Nam, phát triễn một dự án điện gió lớn hơn, tổng
công xuất là 200 000 kw, trên một diện tích
900 ha, ngang qua hai xã Lợi Hải và Bắc Phong ở quận Thuận Bắc. Tổng phí
đầu tư lên đến 500 triệu đô la Mỹ. Công
Ty Trung Nam cũng cam kết với chức quyền Ninh Thuận là sẽ thực hiện một nhà máy chế tạo trang bị điện gió cho các nhà máy nhỏ điện gió địa
phương. Ninh Thuận còn là tỉnh thứ ba
nhận Đầu tư Ngọai Trực tiếp- FDI để sản xuất ethanol sinh học –bioethanol. Dự án này chiếm 60 ha để hình thành một phức
tạp trị giá 50 triệu đô la Mỹ
ở Công Viên Công Nghệ Phước Nam
chế tạo ethanol, phân bón hóa học và thực phẩm chăn nuôi. Công ty Thái Việt
BioEthanol JCS , một liên doanh các nhà đầu tư Thái chiếm 70% cổ phần và Việt Nam 30 %. Dự án sẽ khởi công năm 2011 ( ? ) và hòan tất
năm 2012 , cung cấp trên 60 triệu lít ethanol mỗi năm cho thị trường trong nước
và hải ngọai như Nhật Bổn,Thái Lan, Hàn
Quốc và Liên Hiệp Âu Châu. Ngòai các cơ
sở chế tạo, công ty cũng dự tính trồng
cây rừng ( cây soan vùng khô hạn hay
cây nim – neem mọc tốt ở khí hậu Ninh Thuận ? ) cung cấp nguồn nguyên liệu
làm ethanol, tạo công ăn việc làm cho tỉnh Ninh Thuận và các tỉnh lân cận ( ? ).
-Các công viên công nghệ.
Ninh Thuận hiện có hai công viên công nghệ - industrial parks.
Vùng công nghệ Phước Nam đặt vị trí ở Phước Nam, cách thị xã Phan Rang –
Tháp Chàm 15 cây số và cách phi trường quốc tế Cam Ranh 70 km về phía Nam . Công viên này tụ
điểm kêu gọi đầu tư vào các công nghệ ít ô nhiễm như ráp xe gắn máy và ô tô, chế tạo các máy
móc, vật liệu xây dựng chế biến nông sản,
thực phẩm, áo quần và những công nghệ dùng nhiều nhân công rẽ tiền. Vùng công nghệ thứ hai là Du Long, nằm
phía Bắc tỉnh, chỉ cách cảng Cam Ranh có 30 km.
Cũng chỉ mới tập trung vào các công nghệ tương tự Phước Nam , chưa có công nghệ cao
kỷ , tri thức nào cả.
Khai thác điện gió ở Ninh Thuận |
Tương lai công nghệ Ninh Thuận là đóng tàu( chiến ? ) sau khi thực hiện nhà máy thép Cà Ná , đào tạo chuyên viên nhân công khéo léo vào công nghệ liên quan đến quốc phòng, đặc biệt cho hải quân (? ) , hỏa tiễn, phần mềm computer thông minh, điều khiển học phá được radar địch ( ? ) … phòng vệ bờ biển nước nhà và võ khí, đạn dược… “mới” chống cự xâm lăng manh nha…, liên kết vòng đai phòng vệ ( núi non , bờ biển … ) Tây Nguyên và các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ. Cũng như kiện tòan hệ thống du lịch biển và bờ biển từ Khánh Hòa qua Ninh Thuận đến cuối Bình Thuận kiểu Bờ biển Xanh Da Trời - Côte d’ Azur Pháp, kiểu Bờ biển Riviera hay Amalfi Ý hay kiểu Bờ biển Nam Ca li Hoa Kỳ ? .
( Irvine
, Nam Cali ngày mồng chín tháng chín, năm 2011 )
Trả lờiXóaKính anh,
Tôi thành thật cám ơn anh đã gửi bài về Ninh Thuận. Thật ra gần như bao trùm tòan bộ lịch sử Champa.
Bài này nghiên cứu rất công phu và tôi cũng rất lý thú về câu chuyện thiên niên kỷ Champa này.
Nếu chúng ta nhìn lại lịch sử đất nước thì nhận thấy rõ là đất nước mình đã kế thừa những nền văn minh lớn nhất của nhân loại:
1. Văn minh Ấn Độ
2. Văn minh Hồi Giáo
3. Văn minh Trung Hoa
3. Văn minh Tây Phương
Cả nghìn năm trước đây, Việt Nam đã toàn cầu hóa rồi, ở cửa Đại và thương cảng Hội An. Năm 1293, Marco Polo trên đường tơ lụa trên biển từ phương đông về có ghé lại cù lao Chàm và đã ghi lại những cảm tưởng của mình về vương quốc Champa lúc bấy giờ!
Trước đó thì các văn hóa Sa Huỳnh, Đông Sơn cũng đã giao lưu và hội nhập với các văn hóa từ các đảo Đông Nam Á lên, cho nên dãi đất mà sau này trở thành Việt Nam là một địa bàn "đất lành" (promise land) của nhiều tộc người đến đó định cư và phồn thịnh.
Trong thời đại của thế kỷ 21 này mà biên giới quốc gia cũng đã biến thể nhiều mặt vì tiến trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, Việt Nam cần định vị lại trên bản đồ thế giới để cộng đồng thế giới công nhận nước mình như một trung tâm văn hóa của nhân loại. Do đó trong thời đại mới, mình cần xây dựng hoài bão lớn cho đất nước, phản ảnh được sự kế thừa đặc sắc văn hóa của nhân loại.
Tôi xin gửi anh bài về Hội An: nhỏ bé nhưng tuyệt đẹp... small but beautiful! để đáp lại tình nghĩa của anh Trình và bác Thiện.
thân ái,
THÁI QUANG TRUNG
Date: Fri, 22 Feb 2013 16:57:41 -0500
Trả lờiXóaFrom: tonthatthien@rogers.com
To: tonthattrinh@hotmail.com; tqt.fof@gmail.com
Subject: Grands esprits
Trình, Trung thân,
Đọc thơ của hai cậu, tui thấy nguời Pháp nói đúng: "les grands esprits se rencontrent...", và riêng tui, các bà chị tui thường nói đến "nghiệp" cũng đúng....
Từ thòi Trung học tui đã để ý đến vấn đề "canh tân". Hồi ở Londres, thấy có trường dạy Chính tri-Kinh tế (LSE), thì cố thi vô. Nhưng càng học càng thấy thay đổi chính trị-xã hội mà không dùng bạo lực chủ yếu là một vấn đề văn hoá -- thay đổi tư tưởng (giá trị,) lối tư tưởng và hành động của đa số --.Cho nên từ lúc hưu trí, # 1992 trở đi, tui suy ngẫm và viết nhiều về cấn đề thay/sửa đổi văn hóa trong Thông Luận và Thế Kỷ 21. Ngày nay,sửa đổi văn hoá và hoà giải dân tộc là vấn đề suy nghẫm chính của tui. Bài "lớn"chót mà tui viết (đăng trong Diễn Đàn Thế Kỹ 21, on line) nói về "Vấn đề lớn nhứt hiện nay của Việt Nam" là tránh bị Trung Quốc thôn tính, và muốn có điều kiện để làm được việc này cần phải hoà giải dân tộc -- và hoà giải dân tộc đòi hỏi phải sửa đổi văn hoá trước! --.
Vấn đề có nhiều ramifications lắm, nhưng căn bản vẫn là văn hoá -- lựa chọn giá trị, suy tư, hành vi ---.
Các cậu đã nhận diện được điều đó và hướng suy tư về đó.
Tui rất vui biết như vậy và, tuy già yếu, phải tránh làm quá sức, sẽ cố gắng góp ý với các cậu, vì...bị "nghiệp" báo!!!
Tui cũng rất thèm, thấy các cậu còn thì giớ và sức lực để hoạt động như vậy (Trình còn 5+ năm, Trung 10+ năm nữa....)
Sẽ bàn thêm.
Thiện
Trả lờiXóaCám ơn anh Thiện và anh TQ Trung.
Rất vui thấy anh Trung cho rằng văn minh Việt là tinh hoa của văn minh Ấn, Tàu , Tây phưong ... không chỉ riêng có Tàu . Cho nên tôi có nói sơ qua ở bài đính kèm là nguồn gốc văn minh văn hóa Việt Nam không phải chỉ là văn hóa Lạc Việt , một tộc dân vùng Triết Giang lưu lạc về phương Nam thành các sự tích ( do sử ký Tàu đem lại phổ biến cho miền Bắc rồi miền Bắc phổ biến cho miền Trung và sau 1975 cho miền Nam Việt Nam); Lạc việt, Âu cơ , Lạc long Quân , Hùng Vưong ,Thục Phan , Triệu Đà.. văn mình Phùng Dậu , Đông Sơn, Sông Hồng truớc đó, quên bẳng văn minh Sa Hùynh miền Trung pha Ấn độ thời Chàm, văn minh Óc eo - Phù Nam - thủy Chân lạp- văn minh sông Đồng Nai - Vàm Cỏ , châu thổ Củu Long của Miền Nam và miền Đông Nam Phần .
Anh Thiện , anh Trung có thể nào đặt lại vấn đề nguồn gốc này không?, Triển khai những gì các anh đã viết ra ? Đặc biệt hướng khảo cứu này đúng ý niệm của anh Thiện là hai vấn đề lớn nhất cho VN là mai đây là tránh được Tàu thôn tính và cần 'hòa giải" với tinh thần hòa hợp các tộc dân cũ – mới Đông Dương- IndoChine và đã Tây phương Hóa, khởi đầu bằng giao tiếp với La Mã thời Oc Eo, Ba Thê ...
Kinh thư
TTT.
Trả lờiXóaFrom: tonthatthien@rogers.com
To: tonthattrinh@hotmail.com; tqt.fof@gmail.com
Subject: Tuoi
Trình, Trung thân,
Tui sợ các cậu hiểu lầm về vấn đề 5+năm, 10+ năm, nên xin nói rõ:
"Năm" mà tui đề cập đến trong thơ là năm hoạt động tích cực, plein gas, trong hoạt động của mình, chớ không phải năm tuổi.
Theo kinh nghiệm và nhận xét của bản thân tui, từ 60 đến # 75 tuổi còn thuộc về lứa tuổi/age bracket còn xông pha, trí tuệ và cô thể còn sung túc, mình còn điều khiển công việc theo ý muốn được.
Nhưng bắt đầu từ 75 thì tuy trí tuệ mình còn minh mẫn, sắc bén, cơ thể yếu đi, và bắt đầu "trở chướng", không làm theo mình muốn nữa. Như Bible nói: "The spirit is willing, but the flesh is not responding"...Đến 80 thì cơ thể yếu đi rõ ràng. Năng lực mình không còn như trước nữa. Trí tuệ cũng kém đi. Năng xuất mình xuống cấp rõ ràng.
Trong thòi gian đó thường có một vài biến cố về sức khoẻ báo động/wake up call là mình đã qua lứa tuổi/age bracket khác, như stroke, dehydration, infection buộc phải đưa gấp/emergency vô nhà thuơng.
Những chuyện đó là thuờng, phải có, do Tạo hoá định.
Cho nên trong công việc, kế hoạch, chương trình mình dự định, nhứt là kế hoạch chương trình quy mô đòi hỏi mộ thời gian dài -- vài chục năm, hay cả 100 năm -- mới hoàn tất được, mình phải nghĩ đến vấn đề kế tiếp, chuyển đuốc: thế hệ trẻ, có bản lĩnh, tâm huyết; rồi phải huấn luyện, thử thách, theo dõi họ...
Việc kế tiếp này rất quan trọng và phải cần được chú ý đến và làm ngay từ đầu. Có thể nó kéo dài cả chục năm....
Mấy lúc ni tui nghĩ đến vấn đề ni tui nghĩ đến công trình của nhà Nguyễn trong việc gây dựng một quốc gia xứng đáng ở Miền Nam, nhưng chưa hoàn thành thì đã bị vụTây Sơn nỗi dậy, rồi Pháp xâm lăng cản trở; gần đây những cố gắng của các ông Diệm-Nhu để cứu Việt Nam (Nam+Bắc) không thành công được vì hoàn cảnh thế giới không thuận....
Dù sao, thay/sữa đổi văn hoá cũng là một vấn đề lúc tuổi già của chúng mình, cần theo đuổi, được đến đâu hay đến đó.
Vạn sự khởi đầu nan....
Thiện
Trả lờiXóaHy vọng như anh nói là tôi còn chừng 5 năm để viết lách tùy hứng, nhưng cố gắng hướng dẫn con em phát triển đất nước . Đúng như anh Thiện nói, công trình chúa Mình ( Nguyễn Phước Chu ) là chúa hệ 7 dòng anh Tôn Thất Thiện đó . Chúa Võ ( Nguyễn Phước Khóat) là chúa khai sanh cho hệ 9 là hệ chúng tôi , cùng các đời Gia Long - Minh Mạng đã cố gắng mở mang cho xong vùng Đồng Nai- Cửu Long, nhưng đã bị Pháp xâm lược chận đúng mọi công trình này vào thời vừa Tự Đức .
Xin anh viết thêm về những gì anh nghĩ nên làm để tiếp tục công trình các chúa Nguyễn và thời hai vua đầu nhà Nguyễn Phước . Đoc tài liệu cũ mới thấy là vua Gia Long đã để ý , dừng chân ở thác Gia Long , thuộc tỉnh Đắc Lắc ( Ban Mê Thuột ) ngày nay . Tôi gửi bài tỉnh Long An để thấy việt nam đã thành công phát triển luá gao và nuôi trồng thủy sản ở Đồng Nai - Cửu Long. Từ tháng 4 năm 1975, tôi không về VN, nên không rõ phát triển về đô thị hóa và công nghệ hóa các sông Đồng Nai - Vàm Cỏ , hạ lưu sông Cửu Long như thế nào ? chắc anh Thái Quang Trung biết rõ hơn, xin anh Trung triển khai hay điều chỉnh hộ nếu có . Nhân tiện anh Trần Như Long , cách đây vài chục năm , có hỏi tại sao quân Đỗ Thanh Nhơn lại gọi là quân Đông Sơn vì Đông Sơn phò chúa Nguyễn Ánh , gọi là Đông Sơn để chống với Tây Sơn . Gửi anh Quảng là vì ở buổi họp hội Việt Học Santa Ana, Cali nói về sách môi trường anh Tụng viết , chúng tôi có nêu lên là các phán xét cũ về môi trường có phần bi quan , ở bài Long An nói rõ hơn về phát triển (thành công phần nào) đất phèn các chuyên viên quốc tế Hòa-Lan , Nga, Hoa Kỳ. . . từ cuối thập niên 1950 đều chống đối , nhưng nay VN đã vượt qua phần nào các trở ngại . ... cảm ơn. Trình.