Tiến bộ khoa học: kỹ thuật điều
trị AIDS, vaccines chống ung thư, nghiện ngập, tiểu đường, mập phì - sửa chửa ổ gà, xoi mòn ống dẫn khí, bụi
phóng xạ ?
G S Tôn Thất Trình
Virus AIDS |
1- Điều trị bệnh muỗi cắn
Muỗi căn bản là kim chích biết bay, lây nhiễm 700
triệu người mỗi năm. Riêng sốt rét đã
giết chết 800 000. Kể từ thập
niên 1940, phòng ngừa dẫn đạo chống muỗi là thuốc xua đuổi- repellent
DEET, nhưng nếu bạn quên xịt thuốc trên người bạn vài giờ một lần, bạn có thể
bị muỗi cắn nhóp nhép. Nhà côn trùng học Anandasankar Ray và đồng nghiệp , tại viện đại học UC Riverside-
Nam Ca Li, nhắm làm tốt hơn với cách xịt giết muỗi thay vì xịt xua đuổi muổi đến cắn trên người. Họ đang phát triễn ra một
lọat hóa chất làm đứt quảng cảm giác của muỗi đánh
hơi mùi hơi, có hiệu quả làm muỗi mù mắt đi, không nhận ra người nữa.
Ray khởi sự bằng 50 hợp chất được xem
là có khả năng làm rối lọan máy dò - sensors
khứu giác- olfactory muỗi ,để dò tìm carbon dixoxide – CO2 -
thán khí, dấu báo hiệu một bửa
ăn hút máu của một sinh vật đang thở, đang sống. Rồi ông lật bàn, đấm
mạnh muổi, nhét những điện cực-
electrodes bé tí xíu vào các máy dò của muỗi. Một hóa chất 2-butanone
, hành động như một thể bắt chước carbon dioxide, có cơ khai thác lừa các kẻ
hút máu này . Một chất khác, butanal
, ngăn cản các máy dò carbon
dioxide họat động , trong khi chất 2.3 – butanedione hành động như thể một kẻ làm mù ( mắt ), tràn ngập các máy dò của muỗi bằng tín hiệu, khiến
chúng thành vô dụng .
Từ đó, Ray góp sức với một nhóm đầu tư
thiết lập La bô Khứu giác – Olfactor Labs , tọa lạc tại Nam Ca Li-
Hoa Kỳ, phát triễn ra các chất xua đuổi muổi kiểu thương mãi. Ông
tiên đóan sẽ làm ra các bẩy
mùi hơi – odor traps có thể
đặt quanh các sân gôn ( golf ) hay khách
sạn, hầu bắt chước carbon dioxide và đẩy muổi xa ra khỏi các vùng đông dân cư.
. Ray cũng đang thám hiểm một tác nhân
che đậy vùng. Thay vì phun xịt DEET trên
da người, một đám mây mùi hơi với các
hóa chất dính kết có thể ngăn không cho
muổi tới gần bằng một “ áo khóat tàng hình – invisible cloak” làm cho
không còn dò ra carbon dioxide được nữa. Những áo khóat này sẽ có giá trị cao
lớn quanh các gia cư vùng sốt rét trên
thế giới. Vậy chớ khi nào chúng ta đào
huyệt chôn cất DEET đây ? Ray cho biết là phun xịt các áo khoát và các bẩy mùi
hơi sẽ bán ra 5 năm tới.
2- Điều trị bụi phóng xạ.
Có lẽ chúng ta nên lưu tâm đến
điều trị bụi phóng xạ -radioactive fall out, vì chúng ta sắp làm các nhà máy điện nguyên
tử. Chở mang vất đi một số lượng lớn phế thải từ vùng tai họa như ở nhà máy điện hạt nhân
Fukushima Daiichi là đã đủ khó nhọc
rồi. Nhưng lấy đi những bụi phóng xạ bám chặt vào tường, thấm vào các kẽ nứt và bao phủ
xe cộ cứu vớt , thảy đều là một vấn đề bực mình hơn.
Bạn có thể rữa sạch ô nhiễm với xà bông
và nước ( lề lối truyền thống ) ,
nhưng như vậy sẽ tào ra những bồn chứa kích thước đáng kể của nước chảy tràn phóng xạ. Lọai nước này phải
được hứng bẩy,chửa trị rồi đem tồn trử đi hàng thế kỷ.
CBI Polymers, một hảng chế
tạo sản phẩm khử nhiễm, tại bang Hạ uy
Di, Hoa Kỳ, đã phát triễn ra một lựa
chọn khác tên gọi là DeconGel , có thể dùng phun xịt, trát
bay hay sơn phết trên mọi mặt phẳng .
Chất lỏng xanh dương ( chứa 95% nước và
5% một hóa chất hảng giữ kín ) này
chảy rĩ ra những khí khổng
-pores nhỏ chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi và nối kết với những vật liệu lỏng lẻo . Khi cứng lại,
nó co rúm nhỏ mất 20 % , hút các hạt
tử phóng xạ nhỏ xíu và và bao vỏ chúng vào trong các nếp xếp của nó.
Theo Shaun McCabe, chủ tịch các Hệ thống Á Châu – Thái Bình Dương cho
CBI Polymers, các gel của hảng co cơ chiếm lại kiểm sóat vật liệu phóng xạ và sản xuất 90% ít phế thải hơn nước. Hảng mới tặng
100 xô ( pail, seau ) 20 lít chất làm sạch của hảng cho những cố gắng làm
sạch Fukushima
và hy vọng sẽ bán hàng trăm xô nữa ở tại đây.
Ông nói: bạn có thể ép đặc lại phế thải và thảy vào một nơi đổ rác, đốt cháy và giảm thể tích
thành tro hay hòa tan gel trong nước và chửa trị nước ô nhiễm.
Các nhà khoa học họat động
cho công ty bà con CBI là Skai Ventures, thọat tiên để ý tới một sản phẩm
hòan tòan khác biệt, khi họ khám phá ra chất gel dính này. Trong khi tìm
kiếm cách cấy gíác mạc- corneal implants, một cán sự labô vô ý làm rớt một hợp chất thí nghiệm xuống sàn ; khi chất
khô đi, các nhân viên lột ra và khám phà là sàn sạch hơn bao giờ hết. Ngạc
nhiên về tính chất làm sạch của hợp chất, họ tiếp tục khảo cứu .
Từ đó, CBI đã tăng cường hợp chất với các chất kết kìm –
chelantes, những chất phụ thêm dính chặt vào các bụi chì, các đồng vị phóng
xạ và những vật liệu hiểm nguy khác. Hảng nay đã bán ra sản phẩm dùng cho mọi thứ, từ làm sạch nơi
xảy ra tội ác đến làm sạch các la bô “ngăn nắp- khuôn phép” và các vị trí Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ .
3-
Những tia súng chửa trị ổ gà – potholes.
Vào mùa hè khô hạn, các tóan làm đường bộ có thể sửa chửa vĩnh viễn những
ổ gà với “ pha trộn nóng bỏng – hot mix” , một kỹ thuật mà dân công chánh
Việt Nam mới biết được khi hảng thầu Mỹ
RMK xây dựng mở rộng, cận đại thêm các xa lộ Việt Nam thập niên 1960 và là
pha trộn căn bản dầu hắc ( nhựa đường
)- asphalt làm kết dính tốt cho các ổ gà. Nhưng vào mùa đông ở Hoa Kỳ, khi
đất đai lạnh ngắt và nhiều nhà máy pha trộn dầu hắn nóng bỏng đóng cửa, các
tóan phải dựa vào các “miếng chắp vá
lạnh – cold patches” , thường bị tan
vụn vào mùa xuân tới, khiến cho đường xá thủng đầy lỗ, rất nguy hiểm. Kirk
Kjellberg, bán thiết bị cho hảng Microwave Utilities ở Monticello ,
bang Minnesota
- Hoa Kỳ nói: “ Thật không tưởng tượng
nổi tai hại ổ gà cho xe ô tô.”
Giải pháp về mùa đông
của hảng này là làm tan đông giá ở lỗ bằng một
đơn vị vi ba – microwave công nghệ 100 000 watt, đun sôi mọi ẩm
độ và thêm dầu hắc. Dầu hắc qui ước cũng tốt rồi,
nhưng Kjellberg đã họat động ở
Viện Khảo cứu Tài Nguyên Thiên nhiên tại thành phố Duluth làm ra một pha trộn đặc thù vi ba từ các
ván lợp tái sinh- recycle
shingles và các cặn bả taconit – taconite tailings , đặc biệt
khi kỷ thuật lọc dầu đã làm giảm bớt cung cấp dầu hắc. Bước tiếp là làm đầy trung tâm lỗ một lần nữa, bằng cách đun nóng
pha trộn lên khỏang 300 độ F, làm lưu hóa – vulcanize dầu hắc để tạo
thành một dính kết khít khao. Cách làm
tiến trình này chỉ mất ít hơn 10 phút .
Những thử nghiệm ở ngòai trời đã thành công ở Minnesota , đã chứng minh ý niệm . Kjellberg còn đang do dự không biết là dịch bản thương
mãi hóa sẽ là gì, nhưng ông dự kiến một xe
cộ sẽ
dàn trải vi ba , phun tia dầu hắc
, và cán
dầu hắc phẳng ra. Theo ông ước
tính , kỷ thuật cần vài năm, pha trộng mới đem xài được ở đường xá .
4-
Sửa chửa các ống dẫn khí dầu bị rĩ, thối rữa bằng các rô bốt máy dò
đo lường kiểm sóat trong ống- pigbots.
Chúng ta sẽ nhiều ống
dẫn dầu khí, nếu khai thác hoàn tòan các lưu vực
chứa dầu , khí Biển Đông – Biển Tây ở nước ta , nhất là cả hai lưu vực Hòang Sa
và Trường Sa cũng như những hải phận đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa … bị Trung Quốc cưởng
chiếm hay đe dọa mới – cũ, và biết đâu
nay mai sẽ có ống dẫn dầu khí từ biển Adaman Ấn Độ
Dương qua Biển Đông ( cảng Đà Nẳng, Qui
Nhơn, Văn Phong, Cam Ranh, Cà Ná … ) tránh tàu chở dầu khí qua eo biển Penang hay Singapore ngàn xưa xa
lắc xa lơ . Vấn đề sửa chửa ống dẫn khí dầu – gas pipelines quan trọng
hiện nay cho Hoa Kỳ hơn : vì chưng hơn
phân nữa ống khí dầu thiên nhiên ở Hoa Kỳ - dài
trên 160 000km – đã quá cũ, thiết lập trên 40 năm rồi; vài ống đã trên trăm
tuổi. Các ống thép hay gang bị mòn rĩ là
những bom nổ chậm; một sự kiện đã lên trang nhất báo chí Mỹ năm 2010, khi một
ống dẫn khí ở thị trấn San Bruno nổ tan, giết chết 8 người; khiến cho bà thượng Nghị sĩ Dianne
Feinsrein bang Ca Li phải đề nghị một đạo luật cũng cố
giám sát ống dẫn và tăng tiền phạt cho bất cứ một vi phạm an
tòan nào. Rò rĩ ống dẫn cũng giải tỏa khí methane, một khí nhà kiếng uy vũ
vào khí quyễn.
Giải pháp
rỏ rệt nhất là thay các ống hư hại bằng các
ống plastic bền hơn, nhưng sự nâng cấp này sẽ tốn hàng trăm tỉ đô la, không
phải là một lựa chọn thích nghi cho nền kinh tế tài chánh Hoa Kỳ hiện nay. Giải pháp rỏ rệt thứ hai là đơn giản sửa chửa các ống , nhưng công tác
này cũng gặp nhiều thách thức. Đa số các ống dẫn khí dầu các thanh tra
không đến được, vì các ống chôn sâu dưới đất ít nhất là từ 60cm đến 120 cm dưới
mặt đất.
Đó là lý do
tại sao các công ty tiện nghi -utility companies, lại càng ngày càng xem xét tới PIGs , rút gọn từ pipelines inspection gauges - máy dò đo
lường thanh tra các ống dẫn, những
robot bò trườn xuyên qua ống khám xét
xem có xoi mòn, mối hàn yếu kém, nứt kẻ
hay những dấu hiệu hư hại khác. Vài PIGs sớm, “ thông minh” phát triễn vào thập niên 1960, tiền phong sử
dụng kỷ thuật luồng chảy rò rĩ từ tính – magnetic flux leakage technology hầu
dò ra những khíếm khuyết ở ống. Nói đơn giản hơn, các robot dùng những nam châm
hết sức mạnh mẽ làm ra từ tính quanh các vách ống dẫn. Nơi nào
robot đụng nhằm mâu thuẩn tại mặt bằng,
từ trường lệch đi chút ít và một máy
dò-detector đo lường biến thiên để ước lượng là kim lọai đã bị xoi
mòn mất bao nhiêu.
Ngày nay
PIGs gần giống như Lưởi dao Quân đội Thụy Sĩ- Swiss Army Knives ngầm dưới đất, sử dụng
một lọat rộng rải kỷ thuật thanh tra mới mẽ.
PIGs siêu âm đo là bao lâu những làn sóng siêu âm mới dội lui từ các
vách ống, hầu đo bề dày của vách
Pigs tia - X phân tán lại, ráp
những hình ảnh trong ống dẫn bên trong ống dẫn căn cứ trên phóng xạ phản chiếu,
có thể dò tìm ra những kẻ nứt bé tí xíu
trước khi phát triễn thành những
vết thương lớn hơn. Những PIGs điều khiển từ xa còn có thể
thực hiện những mối hàn bên trong hay trát một lớp epoxy bảo vệ những điểm bị xoi mòn. Nhà rôbôt học Karl Edminster của hảng Electromechanica,
chuyên môn họa kiểu PIGs , đã tạo ra
những kiểu có thể du hành trong những ống
khó khăn nhất. Chẳng hạn, những ống bẻ cong 90 độ hay chôn sâu
duới đường đông giá, nhiệt độ có thể rơi xuống dưới -20 độ Farenheit.
Nhưng tốt
đẹp nhất có lẽ là Explorer II nặng 30 kg,
đồ gá ( đồ lắp phụ ) cuối cùng điều trị
ống dẫn. Do Gagen Schempf, nhà rôbôt học
Carnegie Mellon phát triễn có đặc điểm là một máy chụp hình mắt cá – fish eye điều khiển từ
xa giúp cho các nhà họat động trên mặt
đất nhìn thấy máy đang làm gì, các motor bộ truyền động – drivetrain
giúp các nhà họat động kiểm sóat hướng PIGs đi, chưa hề thấy ( đa số PIGs hiện hửu vẫn còn di chuyễn thụ
động theo dòng khí dầu trôi chảy) và một vòng xoắn ruột gà điện từ nhẹ cân dò ra được những thay
đổi những vách ống từ tính hóa, không làm
rôbôt mất cân đi, giúp nó thanh tra trên 3 cây số ống một ngày.
Explorer II
đã thử nghiệm thành công năm 2009 ở bang Pennsylvania,
có thể giúp duy trì các ống dẫn ít tổn
phí hơn. Nhờ giúp thêm cho các cơ sở tiện nghi những thông tin cơ bản cần
thiết, hầu lựa chọn các sửa chửa kinh tế ( lợi ) nhất, Schempf ước lượng rằng
hệ thống ông làm ra có thể bớt phí tổn thanh tra từ 25 đến 50%, tiết kiệm cho ngành công nghệ khí dầu hàng triệu đô la một
năm. Schempf nói thêm : nếu ngân
sách tiện nghi vẫn như cũ, hệ thống này sẽ giúp thanh tra
nhiều ống hơn.
Hoa Kỳ vẫn còn
trông cậy vào khí dầu thiên nhiên để làm pha trộn- mix năng lượng -
tỉ dụ hảng điện Nam Ca Li – Southern Californian Edison , SCE dùng pha trộn
18 % năng lượng tái sinh được (
khối sinh lượng và phế thải, địa nhiệt , thủy điện nhỏ , mặt trời, gió ),
17% năng lượng than đá, 6% thủy điện lớn, 37 % điện khí dầu, 19% điện hạt nhân, và 13 % năng lượng nguồn
không đặc thù - một đòan rôbốt thanh tra
thông minh mới nhất sẽ cần được đưa ra tiền tuyến.
5-
Chấm dứt
AIDS ?
Vấn đề ở bệnh AIDS là các tế bào T cells , những bạch huyết cầu
– tế bào máu trắng( lymphocytes ), giải
tỏa ra phản ứng miễn nhiễm mạnh mẽ chống lại các mầm bệnh tỉ như virus
HIV. Cho
ai mắc bệnh AIDS, tế bàoT cực trọng là
CD4, thông thường phối hợp thân thể tấn
công chống bệnh. Bằng một cách thức sinh
học kỳ quái, các tế bào CD4 cuối cùng ra cách ly virus và tiêu diệt chúng. Khỏang 1% dân da trắng
Hoa kỳ , nguồn gốc Âu Châu, thiếu hẳn một protein tên là CCR5 ở các tế bào CD4, những tế bào
máu trắng giết các xâm lăng chứa virus
HIV. CCR5 là một cánh cửa phân tử để cho virus nhập vào. Vì lý do HIV cần có
CCR5 để lẽn vào bên trong các tế bào CD4, ai có tiếp nhận – receptors này dễ bị AIDS
phát triễn. Ai không có cánh cửa CCR5, không nhận HIV vào các tế bào CD4 và có
một cách kháng cự thiên nhiên chống AIDS. Phép chửa trị bằng gene
có thể truyền đạt cách chống
kháng này đến người khác.
Một người bình thường phải đếm
được từ 500 đến 1500 tế bào CD4
trong một millimét khối máu; ai chỉ có chừng 250 CD4 là có thể đã mắc
bệnh AIDS. Rồi Jay Lalezari , giám
đốc Quest Cliniacal Research ở San Francisco thử nghiệm một phương pháp mới chửa trị bằng
gen có cơ chửa lành bệnh nhân AIDS. Một bệnh nhân AIDS chịu hút hết máu và những tế bào CD4 của bệnh nhân được lọc sạch, đông giá và chuyễn tới một la bô. Nơi đây, chúng được sửa đổi di truyền để đối kháng HIV
xâm nhiễm. Bằng cách bỏ đi một tiếp nhận ở
mặt bằng tế bào CD4, HIV sử dụng để vào
bên trong tế bào. La bô nhân thêm CD4
và hoàn trả chúng lại cho Lalezari.
Tháng 10 năm 2010, bệnh nhân AIDS
nhận một pha truyền chứa 20 tỉ tế bào
miễn nhiễm đã được sửa đổi di truyền. Sau vài tuần, bệnh nhân đếm được gấp đôi CD4. Bệnh viện thử nghiệm
bệnh nhân mỗi tháng và mức CD4 đếm được không bao giờ xuống dưới con số 400.
Bệnh nhân không còn thỉnh thỏang bị sưng phổi- pneumonia nữa như trước khi pha truyền máu. Cho nên bệnh nhân mong muốn được nhận máu pha
truyền lần thứ hai.
Chửa lành hẳn
bệnh AIDS chăng ? Xóa bỏ một bệnh lưu
hành khắp thế giới có 33 triệu người
lớn và 2.5 triệu trẻ em mắc bệnh và thêm
7000 người mỗi ngày ? Trong 30 năm qua , kể từ khi các nhà khoa học xác định HIV là nguyên
nhân bệnh AIDS , virus đã tỏ ra là chưa ai chống nổi : virus núp trong các tế bào rất miễn nhiễm có thể giết
nó, phản thân- reflexively và đột
biến mau lẹ, tồn tại bí mật trong ruột, gan, thận và óc, lật đổ mọi thuốc chủng
ngừa –vaccine ( vaccine tốt nhất chỉ bảo vệ chừng 30% ), và bừng dậy gần lúc ngưng thuốc trị. Đã nhiều năm, mọi người e ngại dùng từ ngữ chửa
lành – cure bệnh.
Nhưng nay, vài nhà khoa học đã
dám dùng từ này, mỗi lúc mỗi tin tưỏng hơn lên, phấn chấn bởi những hiểu biết
sâu sắc và kỷ thuật mới chống lại một kẻ
thù Jay Levy, đồng tác giả khám phá ra
HIV, gọi so sánh đó là “ một Con ngựa thành Troie –Trojan Horse sinh học”
và Jay Lalezari gọi là “ một
khủng bố sinh học tế bào” trước hết giết chết
người đáp ứng đầu tiên” . Chiết
hết mọi tiên tiến từ phép trị liệu bằng gen đến các tế bào gốc, các nhà khảo cứu phóng ra những đòn đánh trả mạnh mẽ chống lại virus . Các Viện Y tế Hoa Kỳ- NI sẽ
đầu tư 72 triệu đô la Mỹ trong 5 năm tới, hổ trợ 3 cố gắng đa viện mục đích tìm
cho ra phương pháp chửa lành AIDS. Một
hội Quốc tế Độc lập AIDS cũng đang tụ
họp một nhóm chuyên viên họat động, đóng vai mũi nhọn tấn công tìm một chiến lược tòan cầu chửa lành bệnh.
Hy vọng mới mẽ là chúng ta có thể
đánh bại HIV càng thêm đặc biệt vì chúng ta đã biết virus ngược – retrovirus này rất phức tạp và xảo trá : gọi là ngược vì lẽ nó đảo ngược
tiến trình phân tử mà phân lớn các virus
sử dụng. Trong đa số ca – trường hợp
virus bắt đầu với DNA như thể là vật liệu di truyền cơ bản, rồi tự làm
ra các khâu mẩu- templates RNA của mình. .Các virus ngược, trái lại,
khởi đầu bằng RNA rồi làm ra các khâu mẩu DNA, sử dụng một enzyme
tên gọi là transcriptase ngược – reversẹ . Rồi thành quả DNA khai thác
bộ máy tế bào con người, để tạo
ra thêm nhiều sao chép virus . Mục tiêu HIV ưa thích là CD4 tế bào T, điều hòa phối hợp tòan thể
hệ thống đáp ứng miễn nhiễm
của chúng ta chống trả bệnh. Virus lẽn vào CD4 xuyên qua nhiều tiếp nhận
hay cánh cửa phân tử- molecular doorway ở mặt ngòai tế bào, gồm luôn cả một
tế bào khẩn thiết là CCR5. Rồi nó cướp
đọat nguồn cung cấp transcriptase ngược
của tế bào. Nếu tế bào CD4 im
lặng, HIV cũng nằm nghỉ. Nhưng nếu tế
bào CD4 được kích động bất cứ điều gì, từ
căng thẳng đến cảm hàn thông thường, thì HIV bên trong cũng trở nên tích cực, tạo ra các khâu mẩu DNA hội nhập
cùng hệ gen người trong tế bào
CD4.
Thay vì giết chết HIV, như thể nó làm với các
virus khác, tế bào CD4 làm ra thêm nhiều
sao chép của HIV. Các sao chép này sẽ ra đi, xâm nhập các CD4 khác, mãi mãi vô
tận, cho đến khi một thác lũ không trở
lui được, giết chóc đã được giải tỏa.
Riêng mình chu trình CD4 không đủ sức giết chết một người , nhưng HIV
cũng xâm nhập nhiều tế bào khác, cũng hội
nhập vào hệ gen chúng. Virus tiềm tàng
mai phục, tuồng như ngũ kỷ nhưng
thật sự đang chờ đợi ra hiệu : bất cứ điều gì
khuấy động hệ thống miễn nhiễm -căng thẳng khi làm việc, bị ngộ độc thực
phẩm hay phiền muộn- đều có thể làm xóc
đột ngột cho các chiến sĩ HIV hành động. Vài nhà khoa học nghi ngờ rằng hồ tồn trử tiềm tàng này gây ra viêm – inflammation dài hạn, những ai thường sống với HIV biết rỏ,
ngay cả khi họ đang được một cốc ten
thuốc chửa điều trị . Sau nhiều năm, các HIV tiềm tàng có thể trút hết mọi sự
phá hủy thầm lặng, gây ra cần thiết phải
có một phép chữa lành hẳn bệnh ; mức cần
thiết càng khẩn thiết thêm theo thời gian trôi chảy.
Những nghiên cứu mới đây đã làm
minh bạch các giới hạn của lề lối phối
hợp thuốc của bác sĩ David Ho, viện đại học Rockefeller New York năm 1996 , trình bày một cốc ten thuốc chửa trị làm cho không còn dò tìm ra virus
trong máu được nữa. Công trình bác sĩ Ho đã biến, qua đêm, AIDS chắc chắn làm chết người, thành
một lọai bệnh kinh niên, mãn tính. Rồi các bác sĩ tìm ra bệnh AIDS thầnkinh - neuroAIDS . Ngay cả khi chửa trị , chừng 4- 6- % bệnh nhân lây nhiễm HIV phát triễn những hổn lọan
nhẹ ở dây thần kinh . 1- 5 %
phát triễn điên lọan – dementia .Nghiên cứu mới gợi ý
rằng hội chứng là thành quả cách nào HIV làm hư hỏng tế bào dạng sao – astrocytes là lọai tế bào thông
thường nhất ở óc nảo. Ở các bệnh nhân
AIDS , khỏang 5 % tế bào dạng sao bị lây nhiễm. Vài nhà khoa học tư biện là những tế bào này nhổ ra độc tố cuối cùng
giết chết những tế bào dạng sao kế cận không bị
lây nhiễm .
Xa hơn nữa, các phép chửa trị
bằng thuốc nhắm đặc thù những dòng HIV đương thời, nhưng virus có lẽ sẽ đột
biến – mutate, như mọi lọai virus thường làm. Jay Levy, nay là giám đốc La Bô cho Khảo cứu U ung thư và Virus
AIDS ở viện đại học UCSF nói : chúng ta không thể tự mãn, Đây
là một dịch bệnh tích cực chưa chửa trị
được ở các phần khác trên thế giới. Điều
này có thể thay đổi và trở lui lại ám ảnh chúng
ta dưới một thể dạng mới .
Trong công cuộc tìm kiếm gia tốc chửa lành AIDS, các nhà khảo cứu y khoa, đang năng nổ
đuổi theo 3 phương pháp. Thứ nhất là phép chửa trị bằng gen, đã nói trên, trong đó các tế
bào bệnh nhân được sửa đổi di truyền để
trở thành không còn bị HIV làm tổn thương nữa. Tính cách đối kháng thiên nhiên đã
xảy ra ở 1% dân dạng cáp ca – Caucasian trên thế giới. Lề lối thứ hai liên quan đến các chất kích động tiềm tàng – latency activators ,
những phân tử lừa virus ra khỏi nơi ẩn núp ra hẳn ngòai, nơi các tế bào miễn nhiễm của thân thể và các
thuốc có mục tiêu đủ khả năng tìm thấy chúng và giết chết. Cuối cùng, các
nhà khoa học đang miệt mài nghiên cứu những hệ thống miễn nhiễm của một nhóm
người khác thường tên gọi là các kẻ chèn ép thượng lưu - elite suppressors,
vẫn lành mạnh khi bị HIV lây nhiễm, và
sau vài chục năm kiểm sóat được virus .
Các cố gắng đầu tiên lừa HIV ra khỏi nơi ẩn
núp không đem lại kết quả mỹ mãn. Giữa
thập niên 1990, các bác sĩ Hòa Lan sử dụng các kháng thể gây viêm –
inflammatory antibodies, đốt dậy những hệ thống miễn nhiễm bệnh nhân, hy
vọng kích động các tế bào CD4 đang ngũ yên
và lấy ra các HIV. Các kháng thể thật sự đã kích động các tế bào CD4, nhưng lại giết chết mất
chúng, giảm bớt vỏ khí tốt nhất của thân thể chóng lại HIV. Nhà vi trùng học Warner Greene đại học UCSF cho biết
là cuối cùng ra, chúng ta phải
tìm cho được những phân tử kích động
virus , nhưng không kích động các tế bào T hay các virus khá . Đó là một nhiệm vụ không dễ dàng
đâu. Vài phân tử đã tỏ ra đầy hứa hẹn.
Chẳng hạn, một enzyme tên gọi là histone deactylase - HDAC. làm HIV tắt đi và đây là một phần chủ yếu chiến
lược của virus để ẩn núp trong các tế
bào T , tránh các phòng vệ của thân thể . Năm 2000, nhóm bác sĩ Margolis khảo cứu AIDS
tại viện đại học North Carolina, thị trấn
Chapel Hill, khám phá là họ có thể sử dụng các ức chế- inhibitors HDAC - những lọai
thuốc đã được chấp thuận ổn định tính
khí và ngăn ngừa ngập máu lên cơn – seizures- hầu lật ngược ảnh hưởng và đẩy virus ra
ngòai. Ngày nay, Margolis tụ điểm vào
một ức chế HDAC mạnh hơn nữa, một lọai
thuốc chưa thử nghiệm nhiều tên gọi
là vorinosat, hiện đang dùng trị
một lọai ung thư hiếm có. Vướng mắc là
hòan hảo lọai chửa trị này có thể đòi hỏi một cốc ten thuốc phức tạp, có cơ nguy hiểm. HDAC có thể kích động các virus
khác HIV, đem lại nhiều bệnh khác. Ngòai ra,
chúng còn có thể tăng gia hiểm nguy ung thư
bằng cách thay đổi cách thức tế bào chuyễn các chỉ thị di truyền từ DNA đến các protein tế bào .
Trò con rối sẽ khép lại khi chúng ta hiểu biết một nhóm bệnh
nhân đặc biệt gọi là những kẻ chèn ép thượng lưu - một trong số 300 người trưởng thành duơng tính
HIV, hệ thống miễn nhiễm sạc tua bin có khả năng săn lùng và giết HIV. Những kẻ này
thiếu tiếp nhận CCR5 đánh bại
HIV, vì tế bào họ không cho phép
virus HIV lọt vào. Chẳng hạn tháng 6 năm 1992 , bà Loreen Willenberg, một nhà
họa kiểu sân vườn lúc đó 38 tuổi , mơ thấy mình bị lây nhiễm
HIV từ cựu hôn phu, nên bà đi thử nghiệm.
Thử nghiệm mơ hồ, không xác định. Nhưng giấc mơ vẫn ám ảnh bà, bà bèn đi thử
lại hai tuần sau . Kỳ này, thử nghiệm
dương tính. Tháng 9 năm 1992, bà
nhờ một chuyên viên HIV giúp và
số đếm CD4 rất là cao, trên 1800. Bác sĩ bảo bà đây là một chuyện kỳ lạ, khuyên bà nên theo dõi. Sau 3 năm không tìm ra siêu vi HIV và tiếp
tục có con số đếm CD4 cao, bác sĩ nói
cho bà biết là bà thuộc vào một hạng đặc
biệt đang được các viện y tế NIH Hoa Kỳ
nghiên cứu. Họ bị lây nhiễm, và tiếp tục lây nhiễm, nhưng họ không đau bệnh
AIDS.
20 năm sau chẩn đóan bệnh, Willenberg vẫn mạnh khỏe và đã tham dự nhiều
nghiên cứu dài hạn mục đích giải mã lý do tại sao thân thể bà lại thắng được AIDS.
Thọat tiên, các nhà khoa học tư
biện là các bệnh nhân, tỉ như bà Willenberg, bị lây nhiễm bằng một dịch bản yếu
kém của HIV. Nhưng Joel Blankson của trường y khoa, viện Johns Hopkins lại thấy
khác: họ bị lây nhiễm bằng một mầm bệnh virus hoàn tòan. Ông kể ra một nghiên
cứu ông làm với một cặp vợ chồng, một vợ
một chồng, bị lây nhiễm cùng chung một dòng HIV. Ông chồng
trước đó là một tay hút ma túy, đã bị virus lây nhiểm 20 năm trước. 7
năm sau bà vợ được chẩn đóan bệnh. Ông chồng đang phải dùng phép chửa trị, gồm 3
lọai thuốc chống vi trùng ngược và bà vợ là một kẻ chèn ép thượng lưu, chưa bao
giờ mắc bệnh cả .
Chỉ đến na , các nhà khoa học mới bắt đầu
hiểu rỏ hóa học sinh học làm điều kể trên có thể xảy ra. Một thừa tố: khác biệt về protein giám sát
tên gọi là kháng gen bạch cầu con người–
human leucocyte antigens ( HLAs ), gán
khít trong các tế bào chúng ta. Chức
năng các phân tử này là chuyễn thoi đưa các protêin phá vỡ gọi là các peptides từ bên trong tế bào ra ngòai bề mặt, nơi các
tế bào miễn nhiễm khác thanh tra chúng
xem chúng có phải là kẻ xâm lăng hay không.
Có hàng ngàn dạng HLAs , thế nhưng các
kẻ chèn ép thượng lưu có khuynh hướng
chỉ chứa hai lọai đặc thù là HLA – B*27
và HLA-B* 57 . Năm 2010 ,
viện Ragon ( thành lập để làm dễ dãi hợp tác giữa các nhà khảo cứu vaccines tại Bệnh Viện Tổng Quát
Massachusetts General Hospital- Harvard ), đăng tải một nghiên cứu gợi ý rằng
những kháng gen này có thể giúp giáo huấn các tế bào miễn nhiễm CD8 làm chúng thêm uy vũ chống lại HIV, cũng như
chống viêm gan – hepatitis C. Mọi
tế bào miễn nhiễm CD8, cũng như các tế bào CD4 chứa HIV, trưởng thành trong tuyến
ức – thymus ( một bộ phận thân thể chuyên
sản xuất các tế bào C ), trước khi nhận
nhiệm vụ tích cực trong thân thể. Khi ở đó, HLAs phơi bày các tế bào CD8 cho một lọat peptides, của con nguời
cũng như ngọai nhân. Vài HLAs - đặc biệt
HLA-B*57 có khuynh hướng dính
chặc ở tỉ lệ cao hơn với các hạt tử
ngọai lai. Có nhiều HLA-B*57, có nghĩa là các tế bào CD8 sẽ càng bị phơi bày dưới một dãy peptides ngọai lai rộng lớn hơn, cải
thiện khả năng chúng nhận diện và sát thủ các kẻ xâm lăng, kể luôn cả HIV. Tuy
nhiên gần đây, Bruce Walker và đồng nghiệp tìm thấy là trong khi các kẻ chèn ép thượng lưu có một bộ genes làm mã số cho HLA-B, những genes này “ không cần hay đủ” để kiểm
sóat virus. Nói một cách khác, vài kẻ chèn ép thượng lưu thiếu các gen
HLA-B và những kẻ không phải là chèn ép thượng
lưu lại có những gen này. Thế cho nên khảo cứu vẫn còn tiếp diễn. Chẳng hạn mới
đây, họ tìm thấy một nhóm kẻ chèn ép thượng lưu có những mức độ cao p21, một protein chống
lại ung thư bằng cách làm rối lọan những
khía cạnh then chốt chu trình đời
sống HIV
trong la bô.
6-
Những thuốc chủng-
vaccines mới.
a- Có lẽ trước tiên nên nhắc lại vài từ ngữ vững cho thuốc chủng – vaccines .
a- Có lẽ trước tiên nên nhắc lại vài từ ngữ vững cho thuốc chủng – vaccines .
- Kháng thể - antibodies: là một
protein hình Y dính kết cùng một mục
tiêu đặc thù sinh hóa học ở thân
thể và làm dấu nó để cho hệ thống miễn nhiễm phá hủy hay lọai bỏ. Rất nhiều lọai kháng thể
gây nên những phản ứng miễn nhiễm khác nhau, từ làm mô - tissue sưng lên và sản xuất chất
nhầy – mucus của một phản ứng dị ứng – allergy đến viêm sưng rất năng nổ giết chết mô.
-
Kháng gen – antigen : bất cứ một chất nào, thường là một yếu tố ngọai
trong thân thể, dính kết với một kháng thể đặc thù và gây ra một phản ứng miễn nhiễm. Các protein virus hay vi khuẩn là những kháng gen thường thức.
- Hổn lọan tự miễn nhiễm-
autoimmune disorder : một bệnh tỉ như tiểu đưòng lọai 1, trong đó hệ thống miễn nhiễm tấn công các mô thân thể lành mạnh.
- Cytokine : là một phân tử ra dấu của hệ thống miễn
nhiễm, để điều hòa cường độ, thời gian dài ngắn và hướng đi của phản ứng miễn
nhiễm.
- Tế bào T:
một tế bào miễn nhiễm có thể giết
chết vừa một tế bào bị hư hại lẫn các vi trùng – microbes . Vài tế bào T
cũng có thể chỉ dẫn hành động các tế bào
miễn nhiễm khác.
-
Tế bào điều hòa T: là một
tế bào điều hòa miễn nhiễm mà nhiệm vụ là dập tắt các phản ứng
miễn nhiểm phá hại.
Cách đây 200
năm, Edward Jenner dùng thuốc vaccine
phát triễn đầu tiên, tiêm một chất
lỏng từ da bị hư hỏng của một cô công
nhân vắt sửa bò vào một thiếu niên 8
tuổi . Bác sĩ Anh này biết rỏ là cô vắt sửa bò đã nhiễm bệnh đậu mùa – small pox, một
bệnh ngòai da tương đối nhẹ , khi cô miễn nhiễm
bệnh đậu mùa nặng hơn. Đậu mùa
lúc đó giết chết 400 000 người một năm ở Âu Châu. Jenner hy vọng rằng chất lỏng từ các mụt
đậu mùa sẽ giúp thiếu niên chống lại
tai họa đậu mùa . Linh cảm của Jenner
tỏ ra xác đáng. Ngày nay vaccine ( vaccinia la tên la tinh của bệnh đậu
mùa ) đủ thể dạng cứu sống 3 triệu người
một năm trên thế giới, mà không
tốn kém gì nhiều. Phí tổn chích ngừa bệnh sởi- measle chẳng hạn
ít hơn 1 đô la Mỹ một liều.
Vaccine huấn luyện hệ thống miễn
nhiễm nhận diện và đẩy lui những mầm
bệnh nguy hiểm có thể bảo vệ chống lại bệnh hàng chục năm, có khi suốt đời. Các
vaccines ngăn ngừa họat động bằng cách du
nhập những chất làm dấu – markers hóa học vi trùng không tai hại, tên gọi là kháng gen, giống
như những chất làm dấu trên vi trùng còn sống. Các kháng gen huấn luyện hệ
thống miễn nhiễm nhận diện và phá hủy vi trùng, nếu chúng xuất hiện trong thân
thể. Chích các kháng gen đậu mùa vào dòng máu
bệnh nhân, chẳng hạn, Jenner khơi
mào hệ thống miễn nhiễm tấn công virus
đậu mùa tương tự. Ngày nay, các nhà khoa học y khoa
dùng những ý kiến của Jenner vào
những hướng mới mẽ khác. Họ đang khai thác
hiểu biết tăng gia về hệ thống miễn nhiễm để phát triễn những vaccines chửa trị: những lọai
vaccines không phải để ngăn ngừa lây nhiễm
mà để đánh bật gốc rễ những bệnh đã thâm căn hay ngay cả thay đổi cách nào thân thể thực
hiện chức năng. Mùa xuân năm
2010, Cơ Quan FDA đã chấp thuận Provenge, một vaccine đánh thối lui ung
thư tuyến tiền liệt – prostate cancer. Provenge là con đầu thế hệ mới các vaccines chửa trị đã được phổ biến
rộng rải. Đây có lẽ chỉ là một nhỏ giọt
của dòng thác lũ! Một nghiên cứu năm
2010 của hảng phân tích thị trường BCC Research xác định 113 vacines chửa trị đang phát
triễn, nhiều vaccines đã thử nghiệm trên
người.
b- Chích ngừa ung thư
Hiện nay ở Hoa Kỳ có 1.5 triệu người đã chẩn đóan là mắc bệnh ung thư. Các
bệnh nhân ùa vào xin được chích thuốc mới trị ung thư ,vì các nhà
khảo cứu ung thư là nhóm năng nổ
nhất thí nghiệm các vaccines chửa trị. Theo
Lloyd Old, nhà miễn nhiễm học ung thư,
các vaccines ung thư là những ngựa săn – stalking horses cho các vaccines chửa trị. Tại viện Khảo cứu
Ung thư New York,
Old là giám đốc chương trình quốc tế Hợp tác
Làm Vaccine Ung thư , mục đích chống trả ung thư, từ trong đến ngòai. Phần
lớn công trinh này căn cứ trên các
nghiên cứu tiền phong của Old về hệ
thống miễn nhiễm 50 năm vừa qua. Khảo
cứu của ông xây đắp trên nhận xét sâu
sắc của bác sĩ mỗ xẽ William Coley :
là không biết vì lý do gì các bệnh nhân, sau mổ xẽ ung thư, thường hay
thuyên giảm . Năm 1891, Coley tiêm vào các bệnh nhân ung thư xương giai đọan cuối một liều vi khuẩn cầu chuổi – streptococcus, gây
bệnh cầu chuổi ở cỗ họng – strep throat. Thuốc chích này làm nhỏ bớt u ung thư, nhưng lại làm lây nhiễm
giết chết 2 bệnh nhân. Sau đó ông thử nghiệm tiêm một phối hợp của các vi khuẩn đã bị nhiệt giết chết, một pha trộn tên gọi là độc tố
Coley. Tuy việc này vẫn còn tranh cải, vaccine ung thư Coley đã được dùng rộng rải, mãi cho đến khi
các phép chửa trị phóng xạ và hóa học trở thành tiêu chuẩn từ thập niên 1940.
Đến thập niên 1950, khi Old khởi sự khảo cứu ung thư, độc tố Coley đã bị ghi vào
sổ đen Hội Ung Thư Hoa Kỳ. Nhưng Old lại
hứng khởi khi nhìn vào những
thành quả của Coley, nhất là khi thấy báo cáo các u ung thư chuột xẹp bớt, rồi biến
mất sau 2 tuần lễ, khi tiêm zymosan , một chất trích từ mốc meo – yeast. Tiếp tục khảo cứu những phương cách thân thể làm sạch ung
thư, ông xác định được một
cytokines đầu tiên, một phân tử ra dấu hiệu miễn nhiễm.
Cytokines hướng dẫn cuộc nói chuyện sinh
hóa các tế bào miễn nhiễm sử dụng, để
phối hợp các họat động Cái nhìn của Old
gợi ý là độc tố Coley hửu hiệu, vì rằng
nó lừa thân thể phải giải tỏa ra một
lọat cytokines, bằng cách phơi bày hệ
thống miễn nhiễm chống lại một cái gì
tuồng như tương tự một cuộc vi khuẩn tấn công mảnh liệt. Rồi thì các cytokines chỉ thị một
phản ứng miễn nhiễm chống vi
khuẩn, một cuộc tàn sát giết luôn cả các tế bào ung thư .
Rất nhiều vaccines ung thư đang phát triễn ngày nay, sử dụng các hiểu biết hiện hửu cách nào vài
tá các cytokines này giúp phối hợp một phản ứng làm sạch ung thư hửu hiệu. Vaccine
ung thư HPV quảng cáo nhiều, kể cả tranh luận ở vận động
bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm tới 2012, họat động theo lề lối truyền thống hơn: nó làm mồi cho hệ thống miễn nhiễm đẩy lui virus
ung thư nhú – papillomavirus, có thể
gây ra ung thư cỗ tử cung – cervical cancer . Hầu chế tạo Provenge vaccine tuyến tiền liệt, các nhà sinh hóa học
Tổ hợp Dendreon Corporation ở Seattle, trích ra từ các tế bào miễn nhiễm một bệnh nhân và
tắm nó vào trong một xúp hóa học kháng gen ung thư tuyến tiền liệt, liên kết
hóa học với một cytokine la to “ hãy tấn công chúng” . Các tế bào miễn
nhiễm kích động được tiêm chích lại vào thân thể bệnh nhân để làm lan
tràn hồi trống dục mau lên đuờng tiến quân.
c- Thuốc chủng chống tiểu đường
3 triệu dân Hoa Kỳ đau bệnh tiểu đường lọai 1. 400 000 đã được chẩn đóan
là mắc bệnh đa xơ cứng .
Ở ung thư,
hệ thống miễn nhiễm quá hiền lành đối với các tế bào mang bệnh trong thân thể.
Ở bệnh tự miễn nhiễm, vấn đề ngược hẳn: . Vì những lý do chưa biết rỏ , tế bào
hệ thống miễn nhiễm lầm lẫn chống lại các mô lành mạnh, tỉ như các tế bào
bê ta trong lá lách – pancreas làm ra insulin ( tạo ra tiểu đường son
trẻ - juvenile diabetes) hay các vỏ bọc
chất béo che chở dây thần kinh ( bệnh
đa xơ cứng – multiple sclerosis ). Nhiệm vụ của vaccine tự miễn nhiễm là
đóng kín lại những cuộc tự tấn công này. Một phương pháp hứa hẹn là tăng cường các tế
bào điều hòa T, viết tắt là T regs, mới khám phá gần đây ở nhóm phụ các tế bào
máu trắng gọi là tế bào T. Tại Trung tâm
Khảo cứu Tiểu đường viện đại học Calgary, bang Alberta
Canada, nhà miễn nhiễm học Pere Santamaria đang tụ điểm trên những tế bào ông gọi là T reg “yếu
đuối” , tuồng như chỉ có một phản ứng
kháng gen rất là kém cõi. Theo
Santamaria , đa số các nhà miễn nhiễm học cho rằng các tế bào này là rác rưới ở
hệ thống, nhưng không có bất cứ gì trong
thân thể là rác rưới cả thảy. Santamaria nghĩ rằng những T regs yếu đuối được làm ra để cản trở
những phản ứng miễn nhiễm đang nẩy lên, trước khi chúng trở thành kẻ đe dọa. Theo tính chất, các tế bào yếu đuối T regs có thể trưởng thành làm ra các tế bào
T sát thủ để nhổ sạch mọi tế bào miễn
nhiễm khác đang tấn công các mô
lành mạnh. Hầu chế tạo các vaccines trị tiểu đường, Santamaria đã cột
một cốc ten kháng gen từ các
tế bào bê ta của lá lách vào các hạt tử nanô oxid sắt tổng hợp sinh học. Chất lai tổng hợp sinh học này kích thích
phát triễn các T regs yếu
đuối thành các tế bào sát thủ phá hủy
các tế bào miễn nhiễm đang chỉ
huy tấn công tự miễn nhiễm. Sau khi thử
nghiệm trên chuột thấy vaccine đã phục
hồi các mức đường và insulin đã bị
tiểu đường và ngăn ngừa hay làm chậm đi tiểu đường đang xuất hiện trên chuột con chưa
mắc bệnh, nhóm Santamaria đang sẳn sàng thí ngjiệm trên người và đang chế tạo
những vaccines liên hệ để chửa trị các bệnh tự miễn nhiễm khác gồm cả bệnh
đa xơ cứng, viêm thấp khớp- rheumatism arthritis và bệnh sưng khúc ruột – inflammatory bowel.
d- Chủng
vaccine chửa trị mập phì
Gần 75 triệu dân Mỹ trưởng thành được xếp
vào hạng mập phì –obese.
Chủng
vaccine chống lại một hormone của thân
thể mình , có vẽ như là ngược lại trực
giác hay nguy hiểm. Nhưng để bớt dịch
mập phì, một vaccine nhắm vào ghrelin
- một
hormon ruột – bao tử tuồng như
kích thích ăn ngon miệng, có thể đáng
làm. Eric Zorrila, một nhà khoa học dây
thần kinh chuyên về các rối lọan ăn uống tại Viện Khảo cứu Scripps ở La Jolla, Nam Ca Li giải thích:
khi ăn kiêng, thân thể phản
ứng như đói lòng
và sản xuất ra ghrelin, làm chậm đi
chuyễn hóa chất béo – fat metabolism và kích thích ăn thêm . Vaccine Zorrila thí
nghiệm chống mập phì là những phân tử
ghrelin dính kết hóa học với hemocyanin,
một protêin trích từ lỗ then chốt bám
dai dẳng của một con ốc sên biển. Hemocyanin đã được biết là tạo ra một phản ứng miễn nhiễm uy vũ trên người. Trên lý thuyết, phản ứng đối với một vaccine phối hợp ghrelin và hemocyanin sẽ làm sạch ghrelin trong dòng máu. Sau khi thử nhiều cấu hình sinh hóa, Zorrilla và đồng nghiệp Kim Janda, năm 2006, đã thấy các
chuột mất cân. Tuy nhiên có nhiều nguy
hiểm tiềm thế muốn miễn nhiễm chống lại các hóa chất trong thân thể chính
mình. Đặc biệt, các nhà khảo cứu phải bảo đảm
là các vaccines họ chế tạo không
biến thành một phản ứng tự miễn nhiễm cho các tế bào làm ra ghrelin , có cơ kích đọng sưng và
viêm sưng nặng nề . Janda và Zorilla đang
tiếp tục tinh luyện vaccine hầu thử nghiệm trên người.
Hiện ở Hoa Kỳ có đến 50 triệu người
đau khổ vì dị ứng.
Dị ứng là thành quả của một lọai chiến đấu nội tâm nhẹ nhàng hơn khi thân thể trở lại chống chính mình. Chửa trị dị ứng liên hệ đến tiêm chích nhiều lần những liều
lượng bé tí xíu chất gây dị ứng-
allergens tỉ như phấn hoa , ve- bét mites và mốc meo, đã thực
thi gần cả thế kỷ rồi. Mãi gần đây các
nhà khoa học không biết rỏ các tiêm chích họat động ra sao. Nhưng tiêm chích phải làm lại ít nhất một lần mỗi tuần lễ trong nhiều tháng, rồi tiếp tục mỗi
tháng trong vòng 3- 5 năm. Chúng họat
động tốt nhất là khi bị dị ứng nhẹ ở hô hấp , tỉ như sốt cỏ - hay fever , nhưng thường
không dùng được để chủa trị các dị ứng nặng đối với thực phẩm hay thuốc men, vì
nguy hiểm tạo ra tính qúa mẫn cảm – anaphylaxis, một phản ứng miễn nhiễm
có thể nguy đến tính mệnh.
Nhiều nhà miễn nhiễm học nay tin
rằng lọai “ khử nhạy cảm – desensitization” chửa trị dị ứng là tăng cường các mức tế bào T-reg đặc thù cho các chất gây dị ứng
trong các phát tiêm chích. Sau đó, khi các tế bào T reg gặp phải các chất gây dị ứng liên hệ, chúng
phản ứng bằng cách tiết ra cytokines làm dịu bớt viêm sưng. Trang bị với những hiểu biết sâu đậm như thế,
các nhà khảo cứu đã cố gắng chế tạo các
vaccines dị ứng an tòan hơn và hửu hiệu hơn, họa kiểu chúng để vi xử lý
phản ứng miễn nhiễm dị ứng. Nhà miễn nhiễm học Thụy Sĩ Martin Bachmann tìm thấy họa kiểu này khi bắt chước một lây
nhiễm vi khuẩn. Ông lấy DNA từ vi trùng lao Mycobacterium
tuberculosis trượt chúng vào những
cáp sun protein tổng hợp giống những kiểu virus sản xuất. Bachmann nói: hệ thống miễn nhiễm ngay tức khắc nhận diện khuôn mẩu, mô hình như thể một kẻ xâm lăng ngọai lai. Điều này
thúc đẩy hệ thống miễn nhiễm tạo ra thêm những T regs sản xuất cytokines và xóa bỏ phản ứng dị ứng
thân thể.
Khi tiêm vào các động vật vaccine
lai virus – vi khuẩn của Bachmann, cảm ứng
một phản ứng kháng thể mạnh mẽ công ty
Cytos Biotechnology của ông đang khai thác, để họa kiểu vaccines chống
trả hai hổn lọan viêm sưng thường. Năm 2009, Cytos báo cáo các thành quả nghiên cứu trên 299
bệnh nhân dị ứng với các bụi ve, bét. Bachmann cũng thành công với một vaccine
suyễn, cũng sử dụng phối hợp virus – vi khuẩn. Trên các thử nghiệm lâm sàng, với các bệnh nhân bị suyễn vừa vừa, đã nhận
chửa trị steroid kinh niên, vaccine
đã tỏ ra cũng hửu hiệu như steroids ngăn
chặn suyễn.
f-
Chích chủng
chống bệnh tim
Các bệnh
tim mạch giết chết hơn 800 000 dân Hoa
Kỳ mỗi năm .
Vài thuốc chủng chửa trị mới
nay được họa kiểu để tấn công thân thể, dù theo cách chọn lọc. Một vaccine mới thí nghiệm chống bệnh tim,
nhắm vào các chất sinh hóa học không
mong muốn trong thân thể, đặc biệt là protêin
mỡ tỉ trọng thấp - low density lipoprotein viết tắt là LDL, thường được gọi
là cholesterol xấu – bad. Khi
những số lượng lớn LDL cholesterol tuần
hòan qua dòng máu, chúng có thể đọng ở vách
các động mạch, dẫn đến xây đắp các vết
– plaque và khởi động sưng. Các vaccines chống lại cholesterol khuyến khích
hệ thống miễn nhiễm tấn công LDL, đã được thử nghiệm hàng chục năm nay rồi, nhưng những thử nghiệm
trước đây đều có thành quả pha trộn, khi được khi không, trên động vật.
Một phần vấn đề có thể là vì
tấn công miễn nhiễm quá năng nổ trên động mạch bị vết đóng, có thể
làm tình trạng tai hại hơn, theo lời của Prediman Shah, giám đốc bệnh
tim ở Trung tâm Y khoa Cedar- Sinai, thành phố Los Angeles. Vào giai đọan xây đắp sớm
cholesterol, hệ thống miễn nhiễm lấy LDL
ra khỏi các vách động mạch nhờ một phản
ứng kháng thể làm sạch tương đối nhẹ
nhàng. Nhưng nếu các vết tiếp tục xây
đắp, phản ứng miễn nhiễm có thể leo thang, biến thành một viêm sưng làm hư hại thêm các động mạch và
làm nghẹt – clogs chúng với những mảnh vết và xác các tế bào chết .
Shah nói điều cuối cùng chúng ta cần là
hư hại thêm lên vì viêm sưng. Shah đã hợp tác với JanNilsson, nhà sinh học tế bào Thụy Điển, để chế tạo một
vaccine tăng cường các kháng thể có nhiệm vụ lấy đi nhẹ nhàng các vết ,trong
khi đó làm kiệt sức viêm sưng hư hại
động mạch . Họ tìm thấy là họ có thể thao
tác phản ứng miễn nhiễm mong muốn bằng
cách làm biến thiên các mảnh phân tử LDL họ đưa vào trong vaccine . Họ cũng khám phá là vaccine hạ huyết áp trong
chuột nhắt và bảo vệ chống lại sự nứt
vở chứng phình mạch – aneurysms .
Shah và
đồng nghiệp chờ đợi hòan tất các nghiên cứu trên động vật cuối năm 2011, rồi dự
tính sẽ yêu cầu FDA cho phép làm các thử nghiệm trên người. Ông lưu ý là không nên xem nhẹ các thách thức vì các thành
quả tai hại trên một bệnh nhân, khi
thử một vaccine tương tự chống trả bệnh
Alzheimer. Cũng như bệnh tim mạch, Alzheimer liên hệ đến xây đắp vết – plaque , trong ca
này là các protein bê ta – amyloid quấn lọan ở nảo. Năm 1999, các nhà khoa học đăng tải những thành
quả ngọan mục về một nghiên cứu chửa trị chuột nhắt lành một bệnh tương tự
Alhzeimer. Vaccine chứa những mảnh protein beta-amyloid và chỉ dẫn một tấn công miễn nhiễm chống lại
chúng . Nhưng khi nhanh nhẩu làm thử nghiệm lâm sàng, thì 18
người trong số 298 bệnh nhân Alzheimer tham dự, phát triễn viêm sưng óc nảo đe
dọa tính mệnh. 12 người phục hồi, nhưng 6 người
đau khổ vì hư hại nảo vĩnh viễn. Nhiều năm sau , mỗ xẽ khám xác thấy là
vaccines thật sự đã làm sạch các vết trên óc nảo các thiện nguyện, nhưng viêm sưng
liên hệ đã hủy diệt những mô khác trong óc nảo.
g-
Chủng chửa trị nghiện ngập
46 triệu người hút thuốc lá ở Hoa Kỳ. Ước lượng
1.6 triệu dân Mỹ dùng cocaine năm
2009 .
Cố gắng sản xuất vaccine chống
nghiện ngập bắt đầu từ thập niên 1970,
nhưng các thử nghiệm lâm sàng mới, đã biết là khởi sự vào giữa thập niên 1990,
khi Babara Fox , lúc bấy giờ là một nhà miễn nhiễm học của tổ hợp ImmuLogic
Pharmaceutical Corporation, giúp phát triễn một vaccine chửa trị côcaine. Theo bà, rào cản là làm thế nào
cho hệ thống miễn nhiễm đăng ký và tấn công
phân tử côcaine, nhỏ nhoi, tương đối không phức tạp cho lắm hơn là các proteins sinh học phức tạp, điển
hình tìm thấy ở các vi trùng. Fox và đồng nghiệp cột một phân tử cocaine
vào một mảnh của độc tố vi khuẩn dịch
tả - cholera sản xuất. Phân tử này theo Fox, tự nó không độc hại, nhưng
nó là thành phần tạo nên một phản ứng
mạnh mẽ nhất từ hệ thống miễn nhiễm. Ở các la bô động vật , vaccine mau lẹ kích
thích hệ thống miễn nhiễm sản xuất các kháng thể đặt hàng, để cột vào các phân
tử côcaine. Khi đã dính kết, các kháng
thể làm các phân tử côcaine thành quá to lớn để trượt rào cản khít khao máu –
nảo.
Vaccine Fox đã được bác sĩ
tâm thần học- psychiatrist
Thaomac Kosten, trường đại
học Y khoa Baylor, thành phố Houston, bang Texas cải thiện. Năm 2009, Kosten báo cáo thành quả một thử nghiệm lâm sàng có 115 bệnh
nhân nghiện côcaine, phân nữa được
chích vaccine. Vaccine đã sản xuất một phản ứng
kháng thể mạnh mẽ trên 38% số
người nhận vaccine. Khám xét sau từ 2 đế 4 tuần, cho biết là 45 % số này đã sạch hẳn cocaine. Hơn nữa,
những thử nghiệm nước tiểu, hầu xác nhận là
đã thôi dùng côcaine, tiết lộ là nhiều
người đã phá ngang vaccine bằng dùng liều lượng côcaine quá cao. Kosten cho
biết vài mẩu nước tiểu cho thấy những mức côcaine trên 1 triệu nanogram trong 1 millimét và Kosten chưa bao giờ thấy
trên người mức côcaine trên 100 000. Tuy nhiên, không một ai chết vì bệnh
tim hay chảy máu nảo, như chờ đợi khi mức cao côcaine đến tim hay đến
nảo. Vaccine đang được thử nghiệm lâm sàng trên mọi bang nước Mỹ và hy vọng sẽ
hoàn tất trong 1 năm.
Kosten cũng đang khảo cứu các vaccines chửa trị methamphetamines và các thuốc phiện- opiates; là những thuốc chủng Viện Quốc Gia về Lạm dụng Thuốc Hoa Kỳ NIDA
lưu tâm. Giám đốc NIDA Nora Volkow, một
bác sĩ tâm thần đã sử dụng hình ảnh nảo
để khảo cứu những đặc tính của NicVax,
một vaccine chửa trị nghiện hút thuốc lá, vừa nhận 10 triệu đô la trợ cấp của
NIDA do hảng Nabi Biopharmaceuticals làm ra. Vaccine tạo ra những kháng thể cho nicotine, bằng cách liên kết phân tử làm nghiện ngập với độc tố vi khuẩn đã mất
hiệu lực. Cũng như với vaccine
côcaine, những kháng thể thành quả không làm sạch nicotine trong máu, chỉ dính chặc vào đó, tạo nên một
phức tạp hóa học quá to lớn để di chuyễn vào nảo. Thọat tiên Volkow nghi ngờ
vaccine nicotine. Nhưng trên một nghiên
cứu dẫn đường, thử nghiệm trên những kẻ nghiện nặng, 24 % ai đã nhận NicVax thì
sạch hút 2 tháng, trong thử nghiệm 6 tháng này. Trong số người phát triễn kháng
thể hút, số điếu họ hút giảm đi rỏ rệt. Chưa
biết rỏ là hiệu quả vaccines kéo dài bao lâu
và người nghiện có chuyễn qua thuốc khác không ? Nhưng NIDA đã chấp nhận phương pháp và nay đang
khảo cứu một vaccine chống heroin, đã được dùng ở nhiều quốc
gia làm vectơ – vector truyền HIV .
( chiếu theo
số tháng 10, 2011, nguyệt san Khám Phá - Discovery )
( Irvine , Nam Ca li, ngày 30
tháng chín năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét