Cố tâm biết rõ hơn về:
Cây gỗ trầm hương – kỳ nam
G S Tôn Thất Trình
Gỗ kỳ nam tên
Anh là Calambac. Gỗ trầm
huơng tương tự gỗ kỳ nam, nhưng có
phần cứng hơn và tìm thấy nhiều hơn ở nước nhà . Gỗ trầm hương tên Nhật là jinkò, tên Tàu là Chénxiàng. Mọi từ này đều có
nghĩa là “nhan làm chìm - sinking incense”, ngụ ý là
hương thơm – nhan đốt cúng tỉ trọng lớn, làm chìm- trầm . Ở Nhật có
nhiều hạng jinkò, hạng nhất tên là kyara
. Ở Ấn Độ tên là agar ( không phải thạch agar lấy từ tảo biển), nguồn gốc tiếng Phạn
– Sanskrit gọi là aguru . Cả hai lọai gỗ agar- - agarwood và lọai
nhựa – resin chiết trích hay chưng cất
gỗ trầm hương , ở các xứ Ả Rập có tên là oud
( oud thông thường dùng để gọi mọi lọai gỗ ). Thái Lan gọi gỗ trầm hương là “ Mai Kritsna” . Lào gọi là “Mai Ketsana”. Âu Châu gọi là gỗ đại bàng – eaglewood - Agilawood, tên la tinh là Lignum Aquila; đôi khi còn gọi “ lầm” là Aloeswood.
Chenxiang |
Trầm Hương |
Đôi chút thực vật học về cây cho
gỗ Trầm Hương
Trên thế giới ngày nay có 15 lòai – species cây ở tông
chi- genus Aquilaria ; trong số
này 8 lòai sản xuất gỗ trầm hương
agarwood. Theo lý thuyết, mọi lòai đều sản xuất được Agarwood , nhưng mãi gần
đây phần lớn thuộc lòai A. malaccensis. Hai lòai A. agalloccha và A. secundaria đồng nghĩa A.malaccensis
. Hai
lòai A. crassna và A. sinensis của tông A. kể trên cũng sản xuất
thu họach khá nhiều gỗ trầm
hương. Theo Ng,L. T. và Al. ( 1997 ),
sau đây là tên khoa học của các loài sản xuất được agarwood:
A..
khasiana ở Ấn Độ ; A. apiculina
ở Phi Luật Tân; A. baillonil ở Thái Lan và Cambốt ; A .
baneonsis ( banaense ? ) ở Việt Nam , A . brachyanta ở Mã Lai Á
; A. beccarain ở In đônêxia : A.crassna ở Cam bốt, Mã Lai Á, Thái Lan và Việt Nam; A. cumingiana ở Inđônêxia và Mã Lai Á ; A. filaria ở Trung Quốc , A. grandiflora ở Trung Quốc : A .
hilata ở Inđônêxia và Mã Lai Á; A. malaccensis ở Mã lai Á , Thái
Lan và Ấn Độ ; A . microcarpa ở
Inđônêxia và Ấn Độ ; A. rostrata
ở Mã Lai Á ; A. sinensis ở Trung
Quốc, A. subintegra ở Thái Lan. Theo Robert Blanchette, la bô khảo cứu bệnh cây rừng
và vi trùng học gỗ, viện đại học
Minnesota, Hoa Kỳ ( 2006 ),tông chi thực vật Gyrinops rất gần gũi tông Aquilaria
và trong quá khứ mọi loài tông Gyrinops đều thuộc Aquilaria .
Theo GS Phạm Hòang Hộ ( Cây cỏ Việt Nam, I ,
II, III – 2003) , họ thực vật Trầm
hương- Thymaelaeceae gồm các tông có
tên dó là Aqualaria có 3 lòai, Wikstroema
có 7 lòai ; Daphne có 2 loài, các tông Gyrinops , Rhamnoneuron, Edgeworthia, Linostoma, Enkleia chỉ có một lòai đinh danh ở nước nhà . Trong số lòai này , chỉ có một loài GS Hộ cho
là gỗ có thể nhiễm nấm để
cho gỗ trầm hương . Đó là lòai Aquilaria crassna, tên Việt Nam là dó bầu hay trầm,
một đại mộc cao 4- 10 m mọc ở rừng Phú Khánh, Bảo Lộc, Phú Quốc, ghi
thêm là trầm tốt nhất là ở Ninh Hòa và
trầm mắc nhất là kỳ nam ; làm chất bổ dưỡng, phấn dương, trị đau bụng, đau bao
tử … , kháng sinh chống vi khuẩn lao,
trị nọc rắn . Lòai Trầm Xà Nghét lòai
Linostoma
decandrum ở Kontum, Phú Quốc cho trầm không tốt .
Thân hay rễ những lòai Aqualaria kể trên
phải được một lòai nấm nang vách đậm
– dark wall ascomycete Phaeocremonium
parasitica ( tên cũ là Phialophora
parasitica ) lây nhiễm. Cây phản ứng
sản xuất ra một nhựa – resin,
chứa nhiều hợp chất hửu cơ bốc
hơi, giúp ngăn cản hay làm chậm mức nấm
tăng trưởng. Trong khi gỗ không bị nấm lây nhiễm tương đối nhạt màu hơn,
nhựa làm tăng mạnh mẽ khối lượng và tỉ
trọng gỗ bị nấm xâm nhập, biến gỗ từ màu
đà lợt qua màu nâu đen hay màu đen ( chiếu theo Crous và al – 1996 ) . Ở rừng thiên nhiên , chỉ khỏang 7 % cây trầm hương già là bị nấm
lây nhiễm mà thôi. Nay Cơ Quan “Dự án Rừng mưa – Rainforest Project Foundation”, một cơ quan bất vụ
lợi mục đích bảo tồn rừng thế giới, sau 12 năm khảo cứu đã tìm ra một phương pháp sản
xuất nhựa trầm hương ở các rừng nhân tạo trồng cây gây lại rừng trên những cây Aqualaria còn non trẻ. Kỷ thuật là làm các cây trầm hương bị thưong
một cách đặc thù( ? ) và áp dụng nhiều
cách chửa trị để cho cây gia tốc sản xuất vững bền nhựa trầm hương trên cây tương đối còn trẻ. Sản xuất vững bền agarwood trên cây
trồng gây lại rừng, như vậy khỏi cần yêu cầu phải chặt đốn các rừng cây
già để kiếm nhựa gỗ trầm hương, giúp bảo tồn những rừng già đang bị nguy
cơ tuyệt tích. Theo GS Blanchette (tháng 2 ,
2011) rừng trồng tái lập cây trầm hương sản xuất gỗ nhựa trầm hương đầu tiên trên thế giới là ở Việt Nam
( có sự tham gia của tiến sĩ
giảng sư thực vật học, đại học tổng hợp Sài Gòn và giảng sư đại học Nông Lâm Thủ Đức?, nhưng không rỏ rừng trồng
ở đâu, diện tích bao lớn và năng xuất gỗ có trầm hương và kỳ nam là bao nhiêu ?). Ngòai Việt Nam ,
cũng có nhiều quốc gia khác trồng lại
Aquilaria để sản xuất nhựa trầm hương. Thành
công hay thất bại tùy thuộc cách kích thích cây
sản xuất agarwood. Có nhiều kỷ thuật làm cây lây nhiễm nấm đã phát triễn,
nhưng mức thành công thay đổi tùy nơi . Chưng cất gỗ trầm hương để trích tinh
dầu trầm hương dễ dàng dụng cụ thô sơ .
Tồn trữ nhựa và chuyên chơ đi xa cũng dễ dàng.
Vài công dụng thế giới ngày nay của nhựa, tinh dầu trầm
hương
Thời xưa, muốn có nhựa trầm hương để trích tinh dầu, cần đốn những
cây già Aquilaria hay Gyrinops một cách hổn lọan ( Ngậm ngãi tìm trầm ?) tìm
nhựa , thường bị che dấu , chỉ có ở trung tâm gỗ
vài cây già mà thôi. Ngày nay, tại nhiều
nước Đông Nam Á, nơi sinh sống các lọai
cây trầm hương, tìm cây cho gỗ trầm hương càng ngày càng hiếm có, vì thu họach quá lạm thác.
Nhựa hay dầu trích bên trong gỗ
trầm hương rất cao gíá.
Mùi thơm Oud- aoud –oudh- agar- trầm hương, dụ dỗ không phải chỉ là một tinh dầu qúa ngọt ngào thoang thỏang khêu gợi đất lành và dục tình, mà còn là
hương thơm Scheherazade lừa dối quyến
rũ, tạo dựng ra 1001 câu chuyện hương
thơm cho da dẽ đầm ấm và lạc thú hờ hửng thú dữ. Như chúng ta đã biết thuở xa xưa, oud
được sử dụng
làm thơm chùa chiềng và gia thất. Cũng như được đề cao có nhiều tính chất kích thích tình dục và chửa bệnh . Một chú thích đơn phái
tính oud
thường cặp đôi với nghệ tây - saffron , hoa hồng, gỗ và gia vị có cơ đóng vai trò phụ ở những dịch bản của Ngõ – Gateway tỉ như
Vanille Aoud của Michallef hay
môt ngôi sao cay đắng lõi cứng của Killan’
s Pure Oud. Một pha trộn thuốc men, gần như cao su , dịch bản Band –Aid, ould
có thể là một mùi vị thu nhận, thôi miên
lạ lùng, đất đai, đen thẩm, dai như da thuộc
phẩm gía súc vật, tương tự rựợu scotcht,
nấm cục hương – truffles hay những
bản hòa nhạc giao hưởng Arvo
Part. Sau khi thu họach trong rừng
sâu Đông Nam Á, gỗ oud , trầm hương
được chưng cất và đưa tới thị trường Bombay ( Mumbai ) và Vọng
Các – Bangkok , một cách hết sức bí
mật, lừa bịp đê tiện và pha lẫn giả mạo không khác chi mấy buôn thuốc phiện cả .
Ngày nay, yêu cầu bừng dậy làm nguy ngập nguồn cung cấp tòan cầu. Cố gắng thay thế bằng lây nhiễm nhân tạo các cây Aquilaria với nấm cho nhựa trầm
hương, cho thành qủa còn bấp bênh, khi
được khi không. Tương tự gỗ đàn hương – sandalwood tuyệt
diệu các nhà chế tạo dầu thơm
đánh gía cao, oud rất có thể trở thành nạn nhân của mức phổ thông
chính mình, trừ phi tài nguyên
được xử lý vững bền.
Oud Oil |
Aoud của Michallef |
Killan’ s Pure Oud |
Cần 150 cân Anh gỗ Aquilaria để sản
xuất 20 millilít ( gần 4 muổng trà ) để chưng cất ra oud,
theo lời Trygve Harris, chủ tiệm Enfluerage ở phố Manhattan
- New York
chuyên môn sản xuất tinh dầu. Đồn đải là
một Sheik Ả Rập Trung Đông đã mua một ki
lô oud trị gía 62 000 đô la Mỹ. Harris bán đến giá 120 đô la, 2 millilit oud.
Theo Anthony de la Cruz quản trị tiệm
nước hoa Barney ở Beverly
Hills , giá các
hương thơm oud đã tăng thêm 25 % năm ngoái, 2010…
( Irvine
, Nam Ca li ngày 3 tháng 10 năm 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét