Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011


      Cố tâm biết rõ hơn về: 
      Cây  gỗ trầm hương – kỳ nam
                                                    G S Tôn Thất Trình


           Gỗ kỳ nam tên  Anh là CalambacGỗ trầm huơng  tương tự gỗ kỳ nam, nhưng có phần cứng hơn và tìm thấy nhiều hơn ở nước nhà . Gỗ trầm hương tên Nhật là jinkò, tên Tàu là Chénxiàng.  Mọi từ này đều có nghĩa là “nhan làm chìm - sinking incense”, ngụ ý  là  hương thơm – nhan đốt cúng tỉ trọng lớn, làm chìm- trầm . Ở Nhật có nhiều hạng jinkò, hạng nhất tên là kyara . Ở Ấn Độ  tên là agar ( không phải thạch agar lấy từ tảo biển), nguồn gốc tiếng Phạn – Sanskrit  gọi là aguru . Cả hai  lọai gỗ agar-  - agarwood  và  lọai nhựa – resin chiết trích  hay chưng cất gỗ trầm hương , ở các xứ Ả Rập có tên là oud ( oud thông thường dùng để gọi mọi lọai gỗ ).  Thái Lan gọi gỗ trầm hương là “ Mai Kritsna” . Lào gọi là “Mai Ketsana”.  Âu Châu gọi là gỗ đại bàng – eaglewood  - Agilawood,  tên la tinh là Lignum Aquila; đôi khi còn gọi “ lầm” là Aloeswood.
Chenxiang
Trầm Hương
           Thật ra, gỗ trầm hương hay dầu trầm hương đã được  dùng từ lâu ở các nền văn minh xưa cỗ, nổi tiếng  cho các lễ lạc văn hóa tôn giáo xưa. Vào thế kỷ thứ 3, Wa Zhen – Hoa ( ? ) Dương, thời Đông Vũ – Eastern Wu Dynasty đã nói tới trầm hương, một lòai hương lạ  Nam Châu  nghị vũ dị - Nan zhou yi wu zhi ( Strange Things from the South )  sản xuất  ở quận Nhật Nam – RiNan nay là miền Trung Bộ Việt Nam và cách nào dân dịa phương khai thác gỗ trầm hương.  Kể từ năm 1850, khi chúa Tiên Nguyễn  Hòang được bổ nhiệm cai quản Thuận Hóa và Quảng Nam,  vị chúa Nguyễn  đầu tiên đã khích lệ buôn bán với các nước ngòai, đặc biệt là với Trung Hoa và Nhật Bổn; trong số hàng xuất khẩu có gỗ trầm hương.  Xứ Đàng Trong phân lọai trầm hương ra làm ba hạng: Kỳ Nam , tên gọi thế giới là Calambac , trầm hương ( tương tự Kỳ Nam nhưng gỗ cứng hơn ), và agarwood. Một cân Anh thương gia mua ở Hội An giá 15 lạng  – tael bạc,  có thể bán lại ở Nagasaki 600 lạng. Sau đó các chúa Nguyễn dành độc quyền mua bán  Kỳ Nam - Calambac . Độc quyền này đã giúp  làm vững mạnh tài chánh thuở ban đầu thiết lập xứ Đàng Trong- Nam Hà.

          Đôi chút thực vật học về cây cho gỗ Trầm Hương
         
         Trên thế giới ngày nay có 15 lòai – species cây  ở tông chi- genus Aquilaria ; trong số này 8 lòai  sản xuất gỗ trầm hương agarwood. Theo lý thuyết, mọi lòai đều sản xuất được Agarwood , nhưng mãi gần đây  phần lớn thuộc lòai A. malaccensis. Hai lòai A. agalloccha và A. secundaria đồng nghĩa A.malaccensis .  Hai  lòai A. crassnaA. sinensis  của tông A. kể trên  cũng sản xuất  thu họach khá nhiều  gỗ trầm hương. Theo  Ng,L. T. và Al. ( 1997 ), sau đây là tên khoa học của các loài sản xuất được agarwood:
            A.. khasiana ở Ấn Độ ; A. apiculina ở  Phi Luật Tân;  A. baillonil  ở Thái Lan và Cambốt ;  A . baneonsis ( banaense ? ) ở Việt Nam , A . brachyanta  ở Mã Lai Á ; A. beccarain ở  In đônêxia : A.crassna ở Cam bốt, Mã Lai Á, Thái Lan và Việt Nam; A. cumingiana ở Inđônêxia và Mã Lai Á ; A. filaria ở Trung Quốc , A. grandiflora ở Trung Quốc :  A . hilata ở  Inđônêxia và Mã Lai Á; A. malaccensis ở Mã lai Á , Thái Lan  và Ấn Độ ; A . microcarpa  ở  Inđônêxia và Ấn Độ ; A. rostrata ở Mã Lai Á ; A. sinensis ở Trung Quốc,  A. subintegra ở Thái Lan. Theo Robert Blanchette, la bô khảo cứu bệnh cây rừng  và vi  trùng học gỗ, viện đại học Minnesota, Hoa Kỳ ( 2006 ),tông chi thực vật Gyrinops rất gần gũi tông Aquilaria  và trong quá khứ mọi loài tông Gyrinops đều thuộc Aquilaria .

       Theo GS Phạm Hòang Hộ (  Cây cỏ Việt Nam, I , II, III – 2003) , họ thực vật Trầm hương- Thymaelaeceae gồm  các tông có tên Aqualaria có 3 lòai, Wikstroema có 7 lòai ; Daphne có  2 loài, các tông Gyrinops , Rhamnoneuron, Edgeworthia, Linostoma, Enkleia  chỉ có một lòai đinh danh ở nước nhà .  Trong số lòai này , chỉ có một loài GS Hộ cho là gỗ  có thể  nhiễm nấm để  cho gỗ trầm hương .  Đó là lòai Aquilaria crassna, tên Việt Nam là dó bầu hay trầm, một đại mộc cao  4- 10 m  mọc ở rừng Phú Khánh, Bảo Lộc, Phú Quốc, ghi thêm là trầm tốt nhất là ở Ninh Hòa  và trầm mắc nhất là kỳ nam ; làm chất bổ dưỡng, phấn dương, trị đau bụng, đau bao tử … , kháng sinh  chống vi khuẩn lao, trị nọc rắn . Lòai Trầm Xà Nghét lòai Linostoma  decandrum  ở Kontum, Phú Quốc  cho trầm không tốt .
       Thân hay rễ những lòai Aqualaria kể trên phải  được một lòai nấm nang vách đậm – dark wall ascomycete Phaeocremonium parasitica ( tên cũ là Phialophora parasitica ) lây nhiễm. Cây phản ứng  sản xuất ra một nhựa – resin,  chứa nhiều hợp chất  hửu cơ bốc hơi, giúp ngăn cản hay làm chậm mức  nấm tăng trưởng. Trong khi gỗ không bị nấm lây nhiễm tương đối nhạt màu hơn, nhựa  làm tăng mạnh mẽ khối lượng và tỉ trọng gỗ bị nấm xâm nhập, biến gỗ  từ màu đà lợt qua màu nâu đen hay màu đen ( chiếu theo Crous và al – 1996 ) . Ở rừng thiên nhiên , chỉ khỏang 7 %  cây trầm hương già là  bị nấm  lây nhiễm mà thôi.  Nay  Cơ Quan “Dự án Rừng mưa – Rainforest  Project Foundation”, một cơ quan bất vụ lợi mục đích bảo tồn rừng thế giới, sau 12 năm khảo cứu  đã tìm ra một phương pháp  sản xuất  nhựa trầm hương ở các  rừng nhân tạo trồng cây gây  lại rừng trên những cây Aqualaria còn non trẻ.  Kỷ thuật là làm các cây trầm hương bị thưong một cách đặc thù( ? ) và áp dụng  nhiều cách chửa trị để cho cây gia tốc sản xuất vững bền  nhựa trầm hương  trên cây tương đối còn trẻ.  Sản xuất vững bền agarwood   trên cây  trồng gây lại rừng,  như vậy  khỏi cần yêu cầu phải chặt đốn các rừng cây già  để kiếm nhựa gỗ trầm hương,  giúp bảo tồn những rừng già đang bị nguy cơ  tuyệt tích. Theo GS Blanchette  (tháng 2 , 2011)  rừng  trồng tái lập cây trầm hương sản xuất gỗ  nhựa trầm hương đầu tiên trên thế giới  là ở Việt Nam  ( có sự tham gia của  tiến sĩ giảng sư thực vật học, đại học tổng hợp Sài Gòn và giảng sư đại học Nông Lâm Thủ Đức?, nhưng không rỏ  rừng trồng  ở đâu, diện tích bao lớn và năng xuất gỗ có trầm hương  và kỳ nam là bao nhiêu ?). Ngòai Việt Nam, cũng có nhiều quốc gia khác  trồng lại Aquilaria để sản xuất  nhựa trầm hương. Thành công hay thất bại tùy thuộc cách kích thích cây  sản xuất agarwood. Có nhiều kỷ thuật làm cây lây nhiễm nấm đã phát triễn, nhưng mức thành công thay đổi tùy nơi . Chưng cất gỗ trầm hương để trích tinh dầu  trầm hương dễ dàng dụng cụ thô sơ . Tồn trữ nhựa và chuyên chơ đi xa cũng dễ dàng.     
     
       Vài công dụng  thế giới ngày nay của nhựa, tinh dầu trầm hương          

       Thời xưa, muốn có nhựa trầm hương để trích tinh dầu, cần đốn những cây già Aquilaria hay Gyrinops một cách hổn lọan  ( Ngậm ngãi tìm trầm  ?)  tìm nhựa , thường bị che dấu , chỉ có ở trung tâm gỗ vài cây già mà thôi.  Ngày nay, tại nhiều nước Đông Nam Á, nơi sinh sống  các lọai cây trầm hương, tìm cây cho gỗ trầm hương  càng ngày càng hiếm có, vì thu họach quá lạm thác.  Nhựa hay dầu trích  bên trong gỗ trầm hương rất cao gíá.  
Oud Oil
Mùi thơm Oud- aoud –oudh-  agar- trầm hương,  dụ dỗ không phải chỉ là  một tinh dầu qúa ngọt ngào thoang thỏang khêu gợi đất lành và dục tình, mà còn là hương thơm  Scheherazade lừa dối quyến rũ,  tạo dựng ra 1001 câu chuyện hương thơm  cho da dẽ đầm ấm  và lạc thú hờ hửng  thú dữ. Như chúng ta đã biết thuở xa xưa, oud được sử dụng  làm thơm chùa chiềng và gia thất.  Cũng như được đề cao  có nhiều tính chất  kích thích tình dục  và chửa bệnh . Một chú thích đơn phái tính  oud  thường cặp đôi với nghệ tây - saffron , hoa hồng, gỗ và gia vị   có cơ đóng vai trò phụ  ở những dịch bản  của Ngõ – Gateway  tỉ như  Vanille Aoud  của Michallef hay môt ngôi sao cay đắng lõi cứng của Killan’ s Pure Oud. Một pha trộn thuốc men, gần như cao su , dịch bản Band –Aid, ould có thể là một  mùi vị thu nhận, thôi miên lạ lùng, đất đai, đen thẩm, dai như da thuộc  phẩm gía súc vật, tương tự  rựợu scotcht, nấm cục hương – truffles hay những  bản hòa nhạc giao hưởng  Arvo Part.  Sau khi thu họach trong rừng sâu  Đông Nam Á, gỗ oud , trầm hương được  chưng cất  và đưa tới thị trường Bombay ( Mumbai ) và Vọng Các – Bangkok , một cách hết sức bí mật, lừa bịp đê tiện  và pha lẫn giả mạo  không khác chi mấy  buôn thuốc phiện cả .
Aoud  của Michallef
Ngày nay,  yêu cầu bừng dậy  làm nguy ngập nguồn cung cấp tòan  cầu. Cố gắng     thay thế bằng lây nhiễm nhân tạo  các cây Aquilaria với nấm cho nhựa trầm hương, cho thành qủa còn bấp bênh,  khi được khi không. Tương tự gỗ đàn hương – sandalwood  tuyệt  diệu  các nhà chế tạo dầu thơm đánh gía cao, oud rất có thể trở thành nạn nhân của  mức phổ thông  chính mình, trừ phi tài  nguyên được xử lý  vững bền.
Killan’ s Pure Oud
          Cần 150 cân Anh gỗ Aquilaria để sản xuất  20 millilít   ( gần 4 muổng trà ) để chưng cất ra oud, theo lời  Trygve Harris, chủ tiệm Enfluerage  ở phố Manhattan - New York chuyên môn sản xuất tinh dầu.  Đồn đải là một Sheik Ả Rập Trung Đông  đã mua một ki lô oud  trị gía 62 000 đô la Mỹ.  Harris bán đến giá 120 đô la, 2 millilit oud. Theo Anthony de la Cruz quản trị tiệm  nước hoa  Barney ở  Beverly Hills,  giá các hương thơm oud đã tăng thêm 25 % năm ngoái, 2010…                                

             ( Irvine , Nam Ca li ngày 3 tháng 10 năm 2011)                   
         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét