Thứ Hai, 4 tháng 10, 2010

Cà Mau

Lạm bàn về  phát triển tỉnh Cà Mâu, tỉnh cực Nam đất nước :
                        Cà Mâu  có tiến mau hơn ,  hình thành  một “ Hải Phòng “  Biển Đông - Biển Tây của Đồng Bằng  Cửu Long Việt Nam ?
                                                                    GS Tôn thất Trình
Đước tại Cà Mau
Tới Cà Mau - Rạch Giá
             Cất chòi , đốt lửa giữa rừng thiêng…   
          Muổi, vắt nhiều hơn cỏ,
               Chướng khí mù như sương…
Phong sương mấy độ qua đường phố,
Hạt bụi nghiêng mình  nhớ đất quê …
                  ( Sơn Nam, tập truyện Hương Rừng Cà Mau , 1962 )

Phần I: Vị trí và địa hình

                                      Vị trí

                    Cà Mau là tỉnh  cực Nam nước nhà có chiều dài bờ biển  307 km . Ba mặt giáp Biển Đông . Đông giáp tỉnh Bạc Liêu. Tây giáp biển Tây. Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, Rạch Giá . Thị xã Cà Mau , theo đường bộ  cách thị trấn Bạc Liêu  114 km, cách Rạch Giá 180 km , cách thành phố Cần Thơ  180 km và cách thành  phố Sài Gòn- TP Hồ Chí Minh  380 km .  Diện tích  rộng  5331.7 km2 ( 2058.3 dặm Anh vuông ) , thuộc đồng bằng sông Cửu Long ( Mê kông  ), chiếm 15.3 % lảnh địa Việt Nam .  Dân số  năm 1995 là 1 041 800, tăng lên  1 139 300 năm 2000 ,  vào tháng tư năm 2009  là 1205 200 người. Tộc dân Kinh ( Việt ) đa số ; sau đó là các tộc dân Khmer , Hoa và Tày. Tỉnh nhà nay gồm một thị xã tỉnh lỵ do tỉnh quản trị, và 8 huyện là Cái Nước , Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiền , Phú Tân , Thới Bình, Trần văn Thời, U Minh . 

         Chút ít lịch sử:

Tượng Mạc Cửu
          Thực tế, theo Lê Tùng Minh ( tạp chí Đi Tới, số tháng 5 và 6 / 2003 )  thi  tiến trình định cư và khai khẩn vùng đất thuộc  Hà Tiên , Rạch Giá và Cà Mau thuộc đợt thứ hai sau khi ở các khu vực Trà Vinh , Sóc Trăng , Ba Thắc ( Bassac )..  đã được lưu dân  khai phá.  Đặc biệt có hai toán lưu dân  người Hoa ( nguyên là nghĩa quân «  Phản Thanh Phục Minh »   được triều đình  nhà Nguyễn Phước cho phép và đó chính là toán quân của Mạc Cửu đến Hà Tiên vào năm 1680. Trong nữa thế kỷ thứ 18, ngay cả vùng đất Mủi - Ca Mâu là vùng đất thấp và đang trong quá trình bồi tụ ở các giồng nằm theo ven bờ  các con sông Cái Lớn, Cái Bé, Trèm Trẹm, Ông Đốc , Gành Hào …  vẫn có lưu dân người Việt  tìm đến định cư và khai phá.  Việc  định cư và khai phá của  cùng đất Nam Bộ nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng ,  cũng theo sử gia Lê Tùng Minh, họ không phải là những kẻ đi chiếm đất, theo nghĩa xâm lược, mà là những người đi phá đất hoang, mà chủ nhân gốc là cư dân Phù Nam đã bị tiêu diệt từ thế kỷ thứ 7, rồi người Chân Lạp đến chiếm… và bỏ hoang từ thế kỷ thứ 13 … Đến khi lưu dân người Việt  đến vào thế   kỷ thứ 17  thì những người Khơ Me ( Khmer ) ( Chân Lạp xưa ) còn sinh sống trên vùng đất này , còn quá ít ( đến năm 2006 , tộc dân Kinh chiếm trên 90%  tổng dân số tỉnh Bạc Liêu là  820 000 người,  
Người Khơ Me
tộc dân Khơ Me  chiếm 4,7 % , tộc dân Hoa 3.3 % ) và dân Khơ Me cũng là kẻ lưu vong trên vùng « đất vô chính phủ »  ở phần cuối  phương Nam này. Do đó, sự hợp chủng giữa các tộc dân Kinh ( Việt ) Khơ Me , Hoa … ở đồng bằng sông Cửu Long  trong các thế kỷ thứ 17, thứ 18, và 19 là sự tự nguyện  cùng tạo dựng một quê hương mới giàu đẹp , cùng chung hưởng ấm no và hạnh phúc. Quốc hội Pháp đã hợp lý, hợp tình  vào nữa đêm ngày 21 tháng 5 năm 1949, trước sự hiện diện của phái đoàn Cam Bốt,  bỏ  phiếu giao trả  Nam Kỳ - French Cochinchina  ( Cam Bốt gọi là  Kampuchea Krom ) cho Việt Nam. Thời Pháp thuộc, ngày 20 tháng 12 năm1898 , lấy một phần đất của  2 tiểu khu Sóc Trăng và Rạch Giá  lập ra tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau  thuộc tỉnh này .Thời Cộng Hòa , Cà Mau là tỉnh An Xuyên , gồm luôn cả tỉnh Bạc Liệu. Sau 1975, cũng  nhập  Bạc Liêu - Cà Mau thành tỉnh Minh Hải. Sau năm 1999, Minh Hải lại tách ra làm hai : tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu.
          
            Địa hình 
Rừng U Minh
            Quá trình trầm tích trong các môi trường khác nhau như nước mặn , nước lợ  và nước ngọt , theo Thái Công Tụng ( Việt Nam : môi trường và con người, Vietnamologica số 6 , 2005 ) tạo nên 3 cấu trúc hình thể là vùng duyên hải, vùng trũng phèn chua và vùng đồng lụt phù sa, chi tiết hóa thêm thành 5 vùng sinh hệ. : vùng đất phù sa nước ngọt 1200 000 ha, chiếm gần 30 % diện tích  đồng bằng Cửu Long ; vùng thềm phù sa cỗ dọc biên giới Việt - Cam Bốt chiếm 3 % ; vùng đồng bằng ven biển,  chia  ra làm vùng ven biển cao 700 000ha chiếm 18% diện tích , vùng ven biển thấp còn gọi là vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau, 648 000 ha ,chiếm 17% , vùng trũng biển  tức là vùng rừng U Minh có gần 200 000 ha chiếm 5 % , 
vùng ven biển ngập triều  có 216 000 ha  chiếm 5.4 % ; vùng trũng cỏ chia ra hai là  vùng trũng  Đồng Tháp Mười  414 000 ha chiếm 10.4 % diện tích và vùng trũng Hà Tiên  217 500 ha chiếm 3.5 % diện tích ; vùng núi và đồi thấp Thất Sơn  417 000 ha . Như vậy địa hình tỉnh Cà Mau là vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau, một phần  vùng trũng biển rừng U Minh và một phần vùng ven biển  ngập triều  của địa thế châu thổ Sông Cửu Long
Nhắc lại là vào kỷ Đệ Tứ, hiện tượng biển tiến - biển lùi  đã xảy ra nhiều lần  với nhiều thời kỳ băng hà xen kẻ  với các thời kỳ tan băng, làm mực nước biển  có thời kỳ bao trùm lên  nhiều phần đại lục  ( biển tiến ), có lúc lại rút xuống sâu  ( biển lùi  ).Vào thời kỳ băng hà  lần cuối xảy ra  chỉ cách nay  20 000 năm, Việt Nam, Inđônêxia, và vài hòn đảo phía Nam Phi Luật Tân  còn dính chùm với nhau ; thể tích nước co rút lại, nên nước biển hạ thấp  đến 130 m so với  mực nước biển ngày nay. Bờ biển lúc đó chạy dài từ đảo Hải Nam đến gần Sumatra  và cả hai châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông đều  ra đến tận bờ biển này . Đất Mũi  ngày nay ở quận Ngọc Hiền, cách tỉnh lỵ Cà Mau  100 km về phía Nam, vì ở hai hệ thống thủy triều : nhật triều  không đều của Biển Tây và bán nhật triều không đều  của Biển Đông , làm ra  hai dòng hải lưu Bắc Nam và Tây Nam, tạo thành một vùng rộng đến 10 000 ha và mỗi năm tiến ra biển  chừng 80 - 100m . Biển Lùi 
Hòn Khoai
còn để sót lại  các đảo Hòn Khoai, diện tích 5 km2   cao hơn mực nước lúc cao nhất 318m , cách bờ biển 14 km,  thật sự  gồm 5 đảo là  Hòn Khoai đảo lớn nhất, Hòn Đồi Mồi, Hòn Sao, Hòn Đá Lẽ và Hòn Tượng ; các đảo  Hòn Đá Bạc thuộc xã Khánh Bình Tây , huyện  Trần văn Thời, cách thị xã Cà Mau  50km, gồm 3  hòn đảo ,  hòn đảo cao nhất trên mực nước biển 50m và tuổi thọ có lẽ đã 180 triệu năm rồi (  thời kỳ Jurassic giữa Đại Trung Sinh - Mesozoic ) ; Hòn Chuối, Hòn Buông .  
Côn Sơn
         Tưởng cũng không nên quên lảnh hải và vùng biển đặc quyền kinh tế Cà Mau.   Lảnh hải Việt Nam, theo công ước quốc tế 1982, là vùng biển sát bờ lảnh thổ thuộc  chủ quyền kiểm soát quốc gia  và chiều rộng lảnh hải là khoảng cách trong phạm vi  12 hải lý ( 1.852 km ) ,  kể từ đường cơ sở - baseline.  Việt Nam đã lựa chọn ,trong hai  cách  quốc tế  xác định đường cơ sở là  đường  nối các điểm cơ sở là những đảo nhỏ  nằm ven bờ biển một cách liên tục  và có hệ thống.  Các đảo nhỏ ngoài khơi bờ biển Trung bộ  và Nam bộ  dùng định đường cơ sở Việt Nam  từ năm 2000, đã được đánh số   từ A1 đến  là Hòn Nhạn ở  Biển Tây  đến A11 là  đảo Cồn Cỏ - Quảng Trị  ở Biển Đông .  Đường cơ sở thuộc tỉnh Cà Mau được qui định  nối liền A1  đến A2 là  hòn Đá Lẽ , A3  hòn Tài Lớn , A4  hòn Bông Lang,  A5 hòn Bảy Cạnh. Tài Lớn, Bông Lang, Bảy Cạnh là các hòn đảo nhỏ  quần đảo Côn  Sơn  huyện Côn Đảo , thuộc tỉnh Vũng Tàu -  Bà Rịa về phần lịch sử , nhưng về địa lý lại thuộc vĩ tuyến Cà Mau hơn . Vùng đặc quyền kinh tế là vùng nằm  ở phía ngoài lảnh hải , không mở rộng quá   200 hải lý  kể từ đường cơ sở . 
Diện tích lảnh hải và vùng đặc quyền kinh tế  Việt Nam là 772 358 km2 so với diện  tích đất lục địa chỉ là  331 041 km2 . Thềm lục địa  bao gồm đáy biển  và lòng đất dưới đáy biển, ngập nước không quá 200m ( ? ),   bên ngoài lảnh hải của quốc gia , trên toàn bộ phần kéo dài  tự nhiên của lảnh thổ đất liền  của quốc gia đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở 200 hải lý,  nếu bờ ngoài của rìa lục địa  có khoảng cách gần hơn . 
           
                           Khí hậu
         Khí hậu Cà Mau thuộc hệ thống gió mùa nhiệt đới, ổn định và  chia ra  hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10  và nùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm tới. Nhiệt độ trung bình  là 26.50 C .  Tháng giêng là tháng lạnh nhất , nhiệt độ trung bình là 25 0 C . Nhật chiếu trung bình hàng năm là 2500 giờ . Lượng mưa hàng năm cao : trung bình 2400mm , 90 % lượng này  phân phối 6 tháng mùa mưa . Ẩm độ khoảng 80% mùa khô và 85% mùa mưa.  Cà Mau rất ít khi bị bảo lụt .Thay đổi khí hậu ( toàn cầu ) có thể  rất quan trọng đối với tỉnh  Cà Mau.  Tháng chín năm 2009 , một nghiên cứu sơ khởi ở  hai phía Đông và Tây tỉnh nhà , cho 
Rừng U Minh hạ


thấy là đất Cà Mau bị xói mòn ở cả hai vùng, theo tốc độ 20 - 40 m mỗi năm.  Nông dân  nuôi tôm ở huyện Ngọc Hiền than phiền là mỗi năm đều thấy mức nước biển dâng cao thêm , làm giảm năng xuất «  ruộng nuôi tôm » , nhất là từ 3 năm nay.  Theo Lê Xuân Thuyên (  Khoa học Thiên Nhiên , viện đại học TP HCM)  tính theo thống kê từ  năm 1998 đến năm 2008 , trung bình  mức nước biển ở huyện Năm Căn  dâng lên cao thêm  gần  10 cm  cho trên 21 năm, trung bình 16.8 mm mỗi năm .Nếu mức nước biển cao thêm 0.7 m ( 70cm ), thì  28% đất lục địa hiện nay  của tỉnh  sẽ chìm trong nước biển . Nếu mức nước biển tăng 1m ( 100cm ), 52 % đất đai tỉnh Cà Mau ,gồm các huyện  Trần Văn Thời , Cái Nước , U Minh và thị xã tỉnh lỵ , cũng sẽ ngập nước biển.

                       Thủy Văn
Sông Cái Lớn

Đâu xa bằng xứ Cạnh Đền (*)
Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lền như bánh canh
(Ca Dao Miền Nam)
(*)  nơi chôn công chúa Ngọc Hạnh chết bệnh thương hàn, khi Chúa Nguyễn Phúc Ánh  chạy quân Tây Sơn về trú ngụ  vùng U Minh , tỉnh Cà Mau
          
            Sông , rạch ( sông nhỏ miền Nam ) kinh ( đường nước nhân tạo nối liền sông rạch )  chằng chịt hệ thống thủy vận  Cà Mâu. 7 sông lớn nhất là Ông Đốc , Bảy Hạp , Cái Lớn , Gành Hào, Đầm Dơi, Trèm Trẹm  và Bạch Ngưu. Không thuộc hệ thống Sông Cửu Long , chảy ra biển Đông  là  các sông Gành Hào, Đầm Dơi , Bồ Đề ;  chảy ra Biển Tây ( Vịnh Thái Lan ) là các sông Bảy Hạp , Cái Lớn, Trèm Trẹm , Ông Đốc. Ở địa phận Cà Mau, Bạc Liêu  theo Huỳnh Minh  ( Bạc Liêu xưa và nay , năm 1998 ?  )  có những con kinh sau đây: kinh Bạc Liêu - Cà Mau đào năm 1915, dài 66 km ; kinh quan lộ Phụng Hiệp  nối liền  An 
Bông Lúa
Xuyên, Ba Xuyên và Cần Thơ  cũng đào năm 1915, dài  140 km; kinh quan lộ Giá Rai  nối liền Giá Rai, Chương Thiện, đào năm 1920  dài 17km ; kinh Hộ Phòng đào năm 1931, dài 14km , kinh Bạc Liêu - Ngăn Dừa đào năm 1925, dài 28km ; kinh Lộ  Bẽ - Gành Hào, đào năm 1925 , dài 18km và một số kinh nhỏ hơn  như kinh Giồng Me , kinh Bạc Liêu - Bải Xàu, kinh Trà Nho , kinh Vĩnh Châu, kinh Vàm Sắt , kinh Thị Ngạm . Vùng U Minh  có hai con kinh  Chắc Băng  và Cạnh Đền . Tính đến 1933 toàn cõi Nam Kỳ - Lục Tỉnh đào được  180 triệu  thước khối, lớn hơn số đất đào kinh Suez , mở 650 km kinh xáng, loại kinh lớn  đào bằng tàu máy xáng , ( rộng hơn 40m , sâu 2,5 m ) và 2500 kinh phụ , nối liền các kinh lớn hoặc nối liền  sông rạch ở địa phương. Con số chiều dài kinh đào thêm ngày nay khó mà kiểm kê cho đích xác.
Sau các thập niên 1960  ( lúa Thần Nông đầu tiên trồng đại trà, phát động năm 1967 ), 1970, 1980 , 1990  phát triển  các giống lúa Thần Nông ngắn ngày  hơn thời chúa Nguyễn hay thời Pháp thuộc, cần nhiều con kinh dẫn nước hay tháo phèn và đặc biệt các tỉnh Vùng ven biển Đông xẽ kinh «  dẫn mặn »  nuôi tôm, nuôi cá,  sau năm 1983 đến nay .

Lễ cúng Thần Nông
            Vì là tỉnh ven hai biển Đông và Tây, bờ biển Cà Mau chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều chi phối bởi địa hình  bờ biển và đáy biển gần bờ, dạng bờ biển , chiều sâu đại dương. Có hai chế độ thủy triều ở tỉnh nhà. Nhật triều, một ngày chỉ có một lần thủy triều lên , một lần thủy triều xuống  và bán nhật triều, một ngày  có hai lần  thủy triều lên xuống. Biển Tây có chế độ nhật triều . Biển Đông  châu thổ sông Cửu Long  có chế độ bán nhật triều .  Ở tỉnh  Cà Mau  cả hai chế độ thủy triều đều  không đều. Biên độ  chế độ bán thủy triều ở Cà Mau  của hai lần không đều nhau: trong một ngày  có 2 thủy triều lên ,  và 2 thủy triều xuống :  như vậy có nước lớn cao , nước lớn thấp, nước ròng cao , nước ròng thấp. 


Vì hệ thống sông , rạch kinh đào ngổn ngang chằng chịt , nước thủy triều  hình thành những dòng chảy phức tạp trên 92 % diện tích  thiên nhiên tỉnh Cà Mau,   liên hệ nhiều đến phát triển nông nghiệp . Đáng lưu  tâm là là khi triều cường quá cao và  gió thổi mạnh như vào tháng 8 năm nay , có thể làm vỡ đê điều chống gió to, sóng lớn , triều cao . Tuy năm nay,   mùa sóng lớn chỉ mới bắt đầu,  đê Biển Tây bảo vệ Phú Tân, Trần Văn Thời  và U Minh đã bị thiệt hại  nhiều nơi vì sóng to và nước lớn.  1500m đê Biển Tây ỏ xã Khánh Tiên bị xói mòn mạnh  và hơn 10 nơi bị đe dọa vỡ đê. Nhưng sóng lớn và mưa kéo dài  đã phá vỡ 500m  rừng bảo vệ  làm độn giữa đê Biển Tây  và biển ở Rạch Dinh xã Khánh Tiên. Sau khi phá vỡ vùng rừng làm độn,  sóng lớn gần như làm vỡ  đê dày 6m  làm bằng đất bùn đóng cọc gỗ .  Đê dọc theo biển Tây ở Cà Mau dài 93 km, khởi công năm 1997 và hoàn thành năm  2000  từ huyện Phú Tân- Cà Mau đến  huyện An Minh -  Kiên Giang  có một rừng làm độn.  Tuy nhiên nhiều khúc đoạn rừng đã bị  sóng lớn phá tan.  

                          Đất đai
            Nhóm đất  quan trọng ở Cà Mau là đất mặn  có phù sa bồi đắp , nhưng tiếp giáp  với nước mặn qua biển và qua sông , rạch , kinh nên nước biển có khả năng  xâm nhập rất sâu  vào đất liền. Đất mặn được  rừng nhập mặn bao  phủ , bị nhập nước triều quanh . Rừng ngập mặn  vừa chắn sóng , vừa làm tường ngăn giữ nguồn phù sa bồi đắp hàng năm.  Cũng có một ít đất phèn tiềm tàng bị nhiễm mặn, thường cao độ 0.5- 0.8 m , không bị ngập triều  mà chỉ  bị mặn trong mùa khô .  Đất than bùn hình thành trên trầm tích  đầm nội địa hoặc các lòng sông cỗ, do quá trình  tích lũy chất liệu hửu cơ từ lâu , gặp ở  U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau và U Minh Thượng, tỉnh  Kiên Giang. Vì nằm ở các  địa hình thấp trũng, nên  phần lớn  là đất than bùn  có phèn tiềm tàng .    Hạn chế là lớp hửu cơ đất than bùn  có khả năng sụp lún. Đa số  nằm lộ thiên nên dễ cháy vào mùa khô . Hiện nay  nhiều rừng tràm trên đất than bùn bị đốt cháy nên lớp hửu cơ  cũng bị mất đi  và diện tích  đất hửu cơ càng hẹp dần. Đất phù sa địa hình thấp xa sông Hậu , phát triễn trên trầm tích phù sa sông biển hổn hợp , trong đó phù sa chiếm ưu thế. Các đất này cao độ từ 0.5m đến  1,2 m  nên thủy cấp cũng khá dao động. Vùng đất này  còn chịu ảnh hửởng thủy triều  và lũ  nên nhiều nơi  nước tự chảy vào ruộng hầu như quanh năm, do đó có giá trị  lớn về mặt nông nghiệp  trồng cây ăn trái , rau đậu , hoa màu, lúa .   

Tài nguyên thiên nhiên
             Tài nguyên thiên nhiên Cà Mau đáng kể nhất là  rừng ngập mặn - mangroves thường gọi tên là rừng  sác hay rừng đước và rừng tràm - cajeput rear- arrière mangroves. Hiện nay rừng Cà Mau chỉ còn chiếm 122 200 ha, 23.5  % tổng diện tích toàn tỉnh, trong khi đó  diện tích đất nông nghiệp  là 336 300 ha gồm luôn cả 190 000 ha nuôi tôm quảng canh, năng xuất thấp kém.  
Rừng Tràm
              Đáng kể ra trước tiên rừng U Minh, diện tích trên 200 000  ha , trải dài từ sông Ông Đốc đến Rạch Giá , tựa lưng vào miền Tây Nam Bộ, mặt hướng ra Biển Tây ( Vịnh Thái Lan ). Sông Trèm Trẹm và sông Cái Tàu chia U Minh ra thành hai phần :  U Minh Thượng phía Bắc và  U Minh Hạ phía Nam. U Minh là xứ sở của rừng tràm , tuy cũng có một số rừng  ngập mặn - rừng sác - rừng đước .  Rừng sác thật ra  được bao phủ bằng nhiều loài thực vật khác nhau : như Đước tông Rhizophora hiện diện ở Việt Nam là 6 loài mà loài  gặp khắp nơi là loài đước đôi Rhizophora apiculata  Bl. , rễ chân nôm, đại mộc cao đến 30m , trái có trục hạ diệp thòng dài 20-38cm ; Vẹt thuộc hai tông Brugueria và Kandelia, Việt Nam định danh 5 loài ,  ở Cà Mau thường gặp là loài  Vẹt tách Bruguiera parviflora W&Arn., một đại mộc cao 20m, gỗ làm than tốt ; đôi khi có thể gặp loài Vẹt đen ở những nơi nước gần như ngọt  tên khoa học là Bruguiera sexangula  Poi.  , một đại mộc cao đến 33 m , củi tốt gốc già  chụm thơm như trầm ; các loài Mấm  họ  Verbenaceae như  đại mộc Avicennia officinalis L . ở rừng sác cữa sông ; Chà là biển sau rừng sác Phoenix paludosa Roxb. họ Arecaceae …Nhưng đước là cây thân thiết với dân Cà Mau , vì gổ đước làm nhà , dựng cột , bắc cầu qua kinh, rạch, sàn nhà lát bằng thân đước, đường đi lát bằng gỗ đước chằng chịt, than đước là một loại nhiên liệu tốt , nhiệt lượng cao, vỏ được  giàu chất chát có thể dùng thuộc da, đước còn là một nguồn dược liệu chế thuốc chửa bệnh thiếu máu …  

Cây Đước
               Rừng đước  vui nhộn nhất là những ngày đi bắt ba khía ,  một loại cua bé  thân tím xám,  mu có ba vạch. Rừng tràm khác rừng đước về mặt cấu tạo . Dưới nền đước thường là một bải sình lầy trống trải , không có cỏ cây nào  chen vào được . Trái lại rừng tràm  mọc um tùm chằng chịt cây mốp , dây choại, một loại dây leo ngâm nước  có độ bền và dẻo  chẳng kém song mây. Thân tràm  to tới 30 cm , vươn cao đến 20m .Gỗ tràm  mịn , dẻo và bền . Vỏ tràm xốp  là nguồn nguyên liệu  sản xuất giấy rất tốt .  Lá tràm thơm , chứa hơn 2 % tinh dầu , chưng cất thành tinh dầu tràm .  Lá cây tràm  màu xanh đậm . Vào mùa hạ  tràm nở hoa trắng xóa .  Hương tràm quyến rũ ong các nơi về hút mật hoa . Như vậy rừng tràm có thể khai thác cả ba tầng,trên, giữa và dưới.  U Minh còn là một « biển cá » và một «  vườn chim » lớn  vùng đất tận cùng nước nhà.  Chim U Minh bay lượn  hót ca suốt ngày làm náo động  rừng tràm. Mùa đông chim chóc từ phương xa đến , đổ la liệt  trên các gò đất và bải lầy,  quang cảnh cũng hết sức náo nhiệt.  U Minh còn có vô số  các loài rắn độc cho nọc quí hơn vàng, có trăn mắt vỏng , kỳ đà, rùa , ba ba, lợn rừng,  khỉ,  chồn …  Than bùn U Minh  có nhiệt luợng khá cao chừng 5000 calori /kg . Tuy nhiên vì phát triễn nuôi tôm , thuốc khai quang , mở  mang ruộng lúa v.v… , từ năm 1983 đến năm  1992 , Cà Mau đã mất đi  hơn 60 000 ha rừng ngập mặn và rừng tràm. Ngày  31 tháng 5 năm 2007 , chánh phủ  đã chấp thuận  Dự Án Hành Động Quốc gia  cho  Đa Dạng Sinh học - Biodiversity  đến  năm 2010 và thực thi Công Ước Đa Dạng Sinh học  đến năm 2020 . Riêng tỉnh Cà Mau là đề nghị lập khu Bảo tồn  Sinh Cầu Đất Mũi - Cà Mau Biosphere Reserve , diện tích  là 369 675 ha , có 170 321 cư dân, gồm ba vùng lõi phải được bảo vệ triệt để :  Công viên Quốc Gia Đất Mũi - Cape Cà Mau National ParkCông viên quốc gia  U Minh Hạ và  rừng bảo vệ Bờ biển  Tây Cà Mau - coastal protected forests in Cà Mau Western  . Đó là ba vùng điển hình  thõa mãn tiêu chuẩn UNESCO  về sinh hệ rừng sác ,  sinh hệ  đất ẩm thấp than bùn, sinh hệ biển.  


Phần II : 
Lạm bàn về  phát triển du lịch, nuôi tôm, cá biển,  phát triễn Vùng trọng điểm kinh tế công nghệ , xây cất cực Nam  và hành lang kinh tế  Biển Tây .

            Trung bình GDP mỗi đầu người tỉnh Cà Mau  năm 2009  đã là 1030 đô la Mỹ , là mức trung  bình toàn quốc , tăng nhiều so với năm 2006 ( 675 đô la , năm 2007 ( 786 ) và  2009 ( 820 ) , và cuối năm 2010  hy vọng đạt  1100 vì tỉ lệ tăng trưởng GDP vẫn duy trì ở mức cao là 11, 52 % năm 2009 và  là 13 % năm 2008,  dù có khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tuy có phần thấp hơn năm 2006,  tỉ lệ là 19.8 %. Công nghệ và xây cất năm 2006 còn thua xa nông nghiệp ( 28.97% so với 48.28 %  GDP) năm 2009 đã tiến triễn đến gần hơn (  34,37% so với 41.5 % , năm 2010 ước lượng sẽ là 35.54% so với 49.25 % ). Nhưng ngành dịch vụ Cà mau  thì không tiến nhiều từ  22.75 %  năm 2006 đến 24.13%  năm 2009 ( ước lượng cho  năm 2010 là 25.21 % ).  Trong số 3 dịch vụ chủ yếu là vận tải , bưu chính viễn thông ; thương mãi ( nội, ngọai thương… )  đầu tư và du lịch, thì du lịch Cà Mau có nhiều ưu thế chưa khai thác đủ như du lịch sinh hệ đặc thù, đa dạng và  du lịch bờ biển - hải đảo …


               A-     Danh lam thắng cảnh Cà Mau, căn bản phát triển mạnh du lịch
             
              *  Đã kể trên là rừng  U Minh, được xem   là một trong những rừng có sinh khối cao nhất trong các loại rừng , chứa  250 loài  cây cỏ thực vật, lẽ dĩ nhiên là đước ,vẹt , sú . mấm … và tràm ; hơn  180 loài chim ; hơn 20 loài rắn -bò sát… , ngoài  ra là vị trí thành quả của  cuộc biển dâu - biến đổi hoạt động địa chất học và  kiến tạo học- tectonics .

               * Công viên Quốc Gia Đất Mũi Cà Mau - National Park in Cà Mau Cape . 
Cột mốc tọa độ quốc gia ở Cà Mau 
Đây là  hệ sinh rừng sác , nhiều giá trị  đa dạng sinh học , môi trường, cảnh quan thiên nhiên , văn hóa , lịch sử, một thành phần của Vùng Bảo tồn Sinh cầu  Đa Dạng Đất Mũi  đã được UNESCO - Cơ Quan Văn Hóa Giáo Dục Quốc Tế công nhận năm 2009 . Đất Mũi Cà Mau thuộc Xóm Mũi, Xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiền, cách thị xã Cà Mau  chừng 100   km .       

               *  Thị xã  Cà Mau có «  hai «  vườn chim - bird garden»  nổi tiếng.  Vườn Chim Công viên Rừng  19/5 -forest park 19/5  nằm trong Công Viên Văn Hóa, còn có tên là Công Viên Rừng 19/5 hay Lâm Viên  19/5, thuộc thị xã Cà Mau,  cách trung tâm thị xã 2km về phía tây.  Đây là một  nơi  nhiều loài chim tụ họp. 
Chim trong vườn Quốc Gia 
Công viên Văn Hóa rộng 12.8 ha, ngoài các trò chơi tiêu khiển còn trang trí nhiều tượng, hoa  cảnh,  cúc gai, nhiều nhóm  nhà  sàn trên cột , ao hồ cá và Lâm Viên 19/5  chứa nhiều  động vật đặc thù của rừng  sác địa phương hay nơi khác,  tỉ như  cá sấu , khỉ , kỳ đà- varan , trăn , rắn  , rùa  … nuôi ở đây .  vì la đặc biệt hơn cả nên vườn chim được du khách thăm viếng đông nhất. Lúc hoàng hôn,  hàng ngàn chim và cò - stork lại bay về đậu ở khu rừng 2 ha  của công viên , từ nhiều năm nay. Vài loài chim khác như le le, mòng két- teal, vịt trời- mallard  cũng lựa rừng này làm nơi trú ngụ, từ nhiều thế hệ qua. Vườn đã được nới rộng  tới 6 ha và có hàng rào  ngăn cách thành một  vùng sinh thái riêng biệt  cho chim, gồm một ao nước, một rừng nhiều tầng- tàn lá, cây mọc um tùm quanh ao nơi chim tìm đến đậu, mỗi ngày một nhiều thêm.      
              * Vườn Chim Cà Mau điển hình Đầm Dơi ở huyện Đầm Dơi, cách thị xã Cà Mau 45 km về phía Đông Nam. Đây là nơi cư ngụ của nhiều loài chim , đặc biệt là cò - storks .  Chim thường làm tổ trên cây cao  và suốt buổi sớm mai lo lục tìm thực phẩm , cho nên  du khách có thể chụp hình,  làm phim chim bay lượn .  
          
               * Vườn Chim  Cà Mau điển hình Ngọc Hiền là ở huyện Ngọc Hiền. Đây là nơi các nhà khoa học sinh thái đến khảo cứu các loài chim sở tại ở những hệ sinh thiên nhiên  và được bảo vệ tốt đẹp tỉnh nhà.  Vùng thiên nhiên này rộng đến 130 ha là một trong những vườn chim lớn nhất nước nhà.  Sông  Bảy Hợp   có dòng nước chảy suốt năm,  chằng chịt cùng một hệ thống sông kinh, rạch và cây cỏ luôn luôn phủ xanh um tùm  tạo thành một môi trường  sạch và thiên nhiên cho  hàng loạt loài chim đến cư ngụ , tụ họp mỗi năm  mà chưa bị con người tàn phá.
Khu du khách bờ biển Khải Long
                 * Bờ Biển Khải Long là vùng biển  phía Đông Nam  Đất Mũi Cà Mau. Du khách  bị vẽ đẹp hoang dã và lạ lùng của bờ biển thuần khiết và xanh lơ , bốn bề rừng sác  bao quanh, hút dẫn. Khải Long là vị trí thiên phú đặc thù,  rộng 150 ha. Du  khách đứng trên bờ  biển,  có thể thấy mặt trời mọc  tròn hoay như vòng giỏ to lớn  màu  đỏ sáng rực  hiện lên phía Đông và mặt trời  màu vàng sáng lạn, lặn  chầm chậm  trên  Biển Tây về phía Tây.  Khải Long  còn có một bải biển   cát dài 3km , mỗi năm cát lấn dần ra biển như muốn nối liền  Khải Long với đảo Hòn Khoai.  Nay chỉ cần một giờ đồng  hồ  tàu có động cơ   là có thể đến Khải Long từ thị xã Cà Mau. Chợ trên sông  là nơi đón mời du khách trước tiên, để mua mọi thứ cần thiết  cho cuộc thăm viếng: các chai nước  suối ,  nước  ngọt …, thực phẩm khô hay tươi. Chợ sông này bán đầy đủ đồ dùng như mọi  siêu thị lớn khác. Thêm vào đó du khách còn có thể mua đủ loại trái cây nhiệt đới. Trên đường  tàu chạy dọc theo sông, du khách  đã  thấy các bờ rừng sác  như  muốn đón mời  đến  thắng cảnh. Xa xa, khi ẩn khi hiện, là những ao ruộng nuôi tôm, những mái nhà dẹp gỗ  đước lợp bằng phẳng, dấu hiệu một vùng phì nhiêu đất nước cực Nam. Từ  rừng sác kế cận, bạn sẽ nhận diện những  xuồng chèo «  ba lá »  xinh xinh, đánh cá bắt tôm gần các cống - bửng trên sông. Du khách còn có thể dừng tàu  mua  những  món ăn đặc biệt  như : cua hấp, một tô  xúp  canh chua, nhiều xâu đủ kiểu tôm nướng hay những chén rượu đế  sủi bọt trong trắng, cùng những  tiếng vọng gió thổi lao xao dưới các tàn lá rừng nguyên thủy Cà Mau.  Du khách vẫn chưa hết nồng cay men rượu đế, còn có  thêm cảm giác khoan khoái lê chân trên  cát  mềm mại, xa thẳm . Sóng vỗ  bờ sông như những giải lụa cát ẩp ủ du khách. Viếng thăm  hấp dẫn hơn nữa nếu chuyến đi vào đêm sáng trăng , lúc con nước triều thấp  giúp cho  bờ biển dài ra. Những đám mây ngang lưng trời dưới ánh trăng, tăng thêm cho du khách cảm giác nhìn thấy con rồng truyền thuyết mới sinh.  Nếu cắm lữa trại  nhìn ra biển, du khách sẽ nhận được  đèn hải đăng  Hòn Khoai, lập lòe ánh sáng đều đặn như muốn mời khách dừng  bước và hưởng thú đạp trên bải sạn thi vị của hòn đảo kỳ lạ này, nơi du khách có cơ hội leo núi, băng rừng nguyên thủy, ngắm nghía trực tiếp sàn rừng giá trị cao và hiếm hoi  nước nhà, chứa  hơn 1000 loài cây cỏ và hàng trăm  chim chóc động vật nguyên thủy đã được liệt kê. Trung tâm du lịch Lý Thành Long đã xây cất xong  có khu tiêu khiển và  nhiều dịch vụ đa dạng .
·          Hòn Khoai.
Như đã kể Hòn Khoai thật sự gồm 5 hòn đảo là Khoai, Đồi Mồi,  Sao, Đá Lẽ  và Tượng, thuộc huyện Ngọc Hiền cách bờ biển đất liền  14 km.  Và như vừa kể ở Hòn Khoai , bạn có thể lê bước trên sạn đẹp, leo núi đi bộ băng qua rừng, tham quan  các rừng nguyên thủy chứa hàng ngàn loài thực vật  và hàng trăm  loài thú rừng, động vật.  Trên  đỉnh cao nhất  cao 318 m là hải đăng- light house , Pháp thiết lập  từ cuối thế kỷ thứ 19. Gần hải đăng là nhà tù Pháp bắt giam những người chống đối chánh sách thuộc địa.Từ  hải đăng,  khách có thể   quan sát  hòn Đồi Mồi xanh um . Trước đây Hòn Khoai có tên là Giáng Hương ,  hay Độc Lập , rồi tên Poulo Obi thời Pháp thuộc.Dọc theo con đường nhỏ ngòng nguèo, khách còn khám phá được những  cây mít  hay cây xoài cha ông di dân trồng thuở xa xưa, nay đã trên 100 tuổi thọ.   Hòn Khoai cũng chứa nhiều cây cỏ làm thuốc  và nhiều loài hoa  muôn sắc hương chẩng hạn vài loại mộc liên ( sen gỗ ) - 
mộc liên ( sen gỗ ) 
tropical magnolia hương thơm tõa tràn không khí. Khách còn  cơ hội   nghe tiếng sóng vổ  trên đá tảng  và chim  ca hót líu lo trên bụi cây, tìm ăn trái tràm chín đen.  Đúng là một phong cảnh thần tiên  ngay giữa biển  Năm 1994,  bộ Văn Hóa đã công nhận Hòn Khoai là một di tích lịch sử.  Không biết khi nào thi khúc đoạn Xa lộ Kinh Tế Cực Nam - Southern Economic Highway khởi công nối liền Đất Mũi với Năm Căn - Ngọc Hiền hay quốc lộ 1A Cần Thơ - Sóc Trăng - Bạc Liêu nối tỉnh  lị Cà Mau với Năm Căn - Đất Mũi,  sau khi hai cầu treo Mỹ Thuận và Cần Thơ đã làm xong , trong tương lai có dám  nghĩ đến làm cầu treo dài ở nhánh  nối  bải Khải Long trên biển Đông nối Hòn Khoai vào đất liền như ở bải biển Cần Giờ ( ? ) , bải biển Keywest bang Florida, Hioa Kỳ hay mới đây  ở bải biển Hàng Châu ra các đảo  lân cận  không ? Hòn Khoai chưa có cư dân, khác với nhiều tiểu đảo nhỏ Kiên Giang, chỉ  mới có quân lính phòng vệ thường than phiền nhớ nhà .

·         Hòn Đá Bạc
Chiếm một diện tích chừng 43 ha là một nhóm đảo đẹp, gồm ba đảo, hai đảo nhỏ và một đảo lớn  như   Ông Ngo , Đá Lẽ và Đá Bạc -  Silver Rocky Island. Đá Bạc cao  50 m trên mặt nước biển.  Thuộc xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, cách thị xã Cà Mau 50 km. Ngoài phong cảnh hoang vu  của Hòn Đá Bạc  cùng hình thể  lạ lùng ở cả ba đảo, bạn có thể nhìn thấy vô số khối tảng thạch cương - granitic  tạo hóa  chồng chất nhau  đang hình thành  những kiểu  độc đáo  như chốn tiên cảnh, bàn tay-bàn chân tiên nữ. 
Hòn Đá bạc
Trên đỉnh , cây cối đã được dọn sạch, rộng 50 m2 , thành một « cung tiên - fairy court » là nơi tiên đến tụ họp  để đi tắm biển .Đá Bạc có hai khối đá cao, và hai khối đá thấp lồi ra biển, sóng luôn luôn vỗ táp trên đá. Đây cũng là nơi cư ngụ của thần biển  cho ngư dân thờ phụng,  tỉ như tấm mồ  của thần Biển Đông , nơi bộ xương một « Ông Cá Voi - Whale »  được trưng bày khi « Ông Cá » cứu vớt dân đi biển mắc nạn.  Ngoài câu chuyện truyền tụng thần Cá Ông Biển Đông, hòn Đá Bạc  trước đây còn được  một sinh thái rừng đa dạng  và phong phú phủ tràn hòn , trong đó có nhiều khu rừng nguyên thủy , đặc thù riêng  cho tỉnh Cà Mau.  Đá Bạc  chứa nhiều di tích lịch sử . Thời Cộng Hòa , quân đội Mỹ chọn Hòn Đá Bạc đặt  trung đội đại bác 105 mm,  nhắm kiểm soát các căn cứ đối phương ở  Khánh Bình Tây và  đường bộ dọc bờ biển  phía Tây tỉnh Cà Mau. Đây cũng là nơi  toán điều tra CM12  khám phá ra  nhóm chống đối  xã hội chủ nghĩa do  Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh  dẫn đạo .

·           Hồ Thị Tường
Đầm thị Tường 
                  Là một hồ nguyên thủy, thiên nhiên , nằm giữa hai huyện  Trần văn Thời và Phú Tân , cần được bảo vệ và phát triễn.  Đây là một môi trường sinh thái  vẽ đẹp hoang dã , nhiều đặc điểm văn hóa liên quan đến  lịch sử và huyền thoại  chiến tích . Cũng như rừng U Minh , vùng hồ Thị Tường là nơi căn cứ Kháng chiến thời Pháp và căn cứ «  Giải Phóng »  thời Cộng Hòa,  tỉ như căn cứ Xẻo Đước … cùng nhiều vết tích lịch sử khác. Hồ nằm giữa một châu thổ bao la  bốn bề dừa nước - nipa bao phủ . Hình thành 3  hồ: Đầm Trong, Đầm Giữa và Đầm Ngoài. Đầm Giữa là  hồ lớn nhất, trông giống như trái banh lồi , phồng lên . Hồ rộng  2km và  dài 10km , diện tích có nước chừng 700 ha. Trên hồ này, có nhiều dãy nhà  nhỏ, lớn xây cất rải rác sàn nhà trên cột, cách nhau 100m  và đó là khoảng cách giữa  các  ngư trang địa phương. Mỗi nhóm nhà  trông giống như một thôn ấp  nhỏ trên mặt nước hồ  rộng lớn,   nơi có đăng đáy tôm cá, lưới chăng  và chum vại  chứa cá .. . Buổi sáng mai,  nước hồ trong vắt, các đám mây hồng soi bóng ; mặt trời đỏ  sáng rực  dần dần trên mặt nước, tạo ra những điểm  chói lọi ánh sáng. Hồ tựa  hình ảnh mặt nước biển, mỗi lúc thêm sống động  theo tiếng chim gọi đàn  đón chào mặt trời mọc.  Khác những  vị trí du lịch khác, Thị Tường không có khách sạn, không có khu tiêu khiển : khách đến sẽ cư ngụ  trên nhà ngư dân   sàn dựng trên cột, ngay trên mực nước hồ, để hiểu rỏ phong tục địa phương hơn . Một thú vui khác là chèo thuyền, xuồng nhỏ trên các rừng dừa nước quanh co, hòa mình cùng thiên nhiên.
                                      
             Mong rằng  rất gần đây,  theo gương tân trang du lịch đảo Phú Quốc và các vùng bờ biển Nam Thái Lan, ngành du lịch tỉnh Cà Mau nhất là trên phương diện đa dạng sinh hệ sẽ thu hút du khách  nhiều hơn nữa, không thua kém  du lịch sinh thái rừng nhiệt đới xứ Costa Rica, hay sinh thái  đầm lầy bán ôn đới Đông Nam Hoa Kỳ ; sinh thái  rừng cao dãy núi Andes  rừng phủ mây ( như ở Tam Đảo ) vùng Mindo  xứ Ecuador, cách thủ đô Quito  90 phút lái xe , nơi chứa 4000 giống loài lan đặc biệt là tông lan  Ellenthus , nhiều loài hoa kiểng họ thơm dứa- bromeliads màu sắc sặc sở, nhiều loài động vật hiếm  như ếch sống trên cây -  tree frog , chim ruồi hút mật - humming bird lông cánh lạ lùng …

                B- Thực hiện mau lẹ hơn hệ thống Giao thông vận tải : đường Hành lang kinh tế Cực Nam , đê  chống biển lấn khi nước biển dâng cao hơn , đường sông ,  thương cảng ….  
             
              Muốn phát triễn du lịch phải cải thiện giao thông đường bộ lẫn đường sông. Nhưng trước tiên cần bảo vệ đê điều  sóng to,  gió lớn,  triều cường làm sụp đổ.  Bộ Nông Nghiệp trong tháng 8 năm 2010 cho biết tỉnh Cà Mau  cần  nâng cấp đê phía Biển Tây,  chánh phủ đã hoàn tất năm 2000,  bảo vệ  bờ biển tây các huyện  Phú Tân , Trần văn Thời  và U Minh, dài 93 km  từ   huyện Phú Tân - Cà Mau đến đến huyện An Minh - Kiên Giang,  dày 6m ,  cọc cừ tràm đắp bùn , phía ngoài đê  trồng rừng  sác  làm trái độn chống sóng lớn , triều cường . Một đê bảo vệ bờ biển Đông  dài 135 km cũng cần xây cất ngay, vì   bờ biển Đông tỉnh nhà cũng bị xói mòn  mỗi năm mất đi ước lượng 100 ha . Tổng phí lên đến  3000 tỉ đồng VN ( 135 triệu đô la Mỹ ), kể cả chi phí phải di dời 100 căn hộ  nâng cấp đê biển Tây.  Trong tương lai cũng phải tìm  cho được đầu tư  làm đường  tiêu chuẩn mới  ( hạng III ? ) thay thế  đê « Ngự hàn - bao bờ » Biển Tây , Biển Đông.
                Tháng 3 năm 2010 , chánh phủ cũng đã chấp thuận sửa chửa 9 cầu  đường quốc lộ 1A , khúc đoạn  từ  Cần Thơ đến Cà Mau. Tháng 12 năm 2006 trong khuôn khổ Tiểu Ủy Ban Mở Rộng Mê Kông - Greater Mekong Subcommittee ( GMS ),   Hàn Quốc ( Nam Hàn ) sẽ xây cất   khúc đoạn  Kinh Lộ Xẽ ( Bẽ , Tẻ ) , Cà Mau - Rạch Sỏi- Kiên Giang, song song với quốc lộ 80( ? ) dọc theo kinh Cái Sắn qua ba tỉnh An Giang , Cần Thơ, Kiên Giang . Tổng phí cho dự án mở rộng nâng cấp quốc lộ 80 và 63   cũng thành đường xa lộ hạng III,  lên đến  328 triệu đô la Mỹ , trong đó phần đóng góp của ADB- Ngân Hàng Phát triễn Á Châu và Hàn Quốc  mỗi xứ là 75 triệu , Úc Châu 175 triệu và Việt Nam 78 triệu .  Khởi công cuối năm 2008 và hy vọng hoàn tất năm 1012 . Dự Án GMS cũng xây cất một đường bộ mới cho  tỉnh Cà Mau  từ kinh Ngã Bắc đến  khu công nghệ An Khánh phía Tây thị xã Cà Mau, dài 41 km , nâng cấp một đường làng cũ thành đường tiêu chuẩn hạng III,  nghĩa là xa lộ trải nhựa hai lằn  xe chạy,  rộng 3.5m  có vệ đường  2x2m , 3m khoảng trống  ven đường, và 17 cây cầu ngang kinh Lộ Xẽ và sông Trèm Trẹm,  Và đường lộ mới ở huyện Thới Bình từ các xã Biển Bạch, Tân Bằng, Biển Bạch Đông , ngang  qua thị trấn Thới Bình ở một vùng đang mở mang phía Bắc ngang qua kinh Chắc Băng, và xã Hồ thị Ký.   Nâng cấp xa lộ 1A , khúc đoạn Cần thơ Năm Căn,   tổng kinh phí  210 triệu đô la Mỹ do Ngân Hàng Quốc Tế - World Bank( WB ) tài trợ, khởi công năm 2005 . Đã hoàn thành hai khúc đoạn  Cần Thơ - Cà Mau và  Cà Mau - Năm Căn.  Nhưng được gia hạn thực hiện đến  31- 12 - 2010 ,  vì khó khăn, trở ngại làm cầu qua sông Gành Hào,  và làm thêm 58 km đường mới thay thế một đường nông thôn nhỏ hẹp.

             Đồng bằng sông Cửu Long sẽ cần chuyễn vận 14.7 triệu tấn hàng hóa vào năm  2010 và 28- 32 triệu tấn vào năm 2020.   Mở rộng cảng sông Cần Thơ  có thể cho tàu 10 000 -20 000 DWT cập bến, công xuất 7.8 triệu tấn một năm , có thể chưa thỏa mãn nhu cầu .  Nên việc tân trang thêm 20 cảng sông ,cảng biển ,  cũng như  cải thiện giao thông đường sông, kinh xáng… đồng bằng sông Cửu Long cũng cấp thiết.  Không rỏ hành lang chuyên chở sông, dài 192km,  từ Cần Thơ đến Cà Mau dự trù năm 2001,  nay đã thực hiện được phần nào ? Lẽ dĩ nhiên là vài thương cảng  Cà Mau dự trù chỉ có tiện nghi cho tàu 3000- 5000 DWT cập bến  là còn quá nhỏ, nhất là khi dự trù mở rộng, thiết lập các khu  cụm công nghệ  dầu khí hóa học, chế biến ngư sản đông lạnh hay không, nhà máy protêin,  kho khí lỏng  của đường ống dẫn khí thứ hai …

            C- Định hướng tương lai cho ngành thủy sản

                                          * Nuôi tôm .

Tôm sú cà mau
                Đáng kể trước tiên ở Cà Mau  là  phát triễn nuôi tôm nước lợ và nước mặn . Đầu thập niên  1970,   Cộng HòaViệt Nam phát triễn bắt tôm biển và nuôi tôm  nước mặn ở Bạc Liêu, vì Cà Mau thuộc vùng chiến tranh tương tàn khốc liệt . Đầu thập niên 1990 các nước Đông Nam Á đề xướng nuôi tôm để thu nhập ngoại tệ . Các công ty  doanh  vụ nông nghiệp - agribusiness tư nhân tỉ như công ty Thái Lan  Charoen Pokphand  ở Thái Lan được Chánh Phủ Thái , WB, ADB tài trợ, trợ cấp ,triễn hạn trả thuế , nhập khẩu trang bị miễn quan thuế , cấp tín dụng xuất cảng v.v…  Trong thập niên 1990 , Charoen Pokphand  mở rộng doanh nhiệp qua  Việt Nam . Năm 1993 , Charoen Pokphand xuất khẩu  tôm Việt Nam trị giá 96 triệu đô la Mỹ , 40 % tổng trị giá tôm Việt Nam xuất khẩu năm đó là  240 triệu đô la.  Từ năm 1983 đến năm 1992 , ước lượng Cà Mau đã mất đi  60 000 ha rừng sác , phần lớn  do  di dân đổ xô về Cà Mau phát triễn nuôi tôm , tuy cũng có một phần mất đi vì thuốc khai quang thời chiến tranh, và mở mang ruộng lúa . Sau 1990 , mất rừng sác duy nhất là vì mở mang nuôi tôm. Năm 1995, diện tích nuôi tôm ở Cà Mau là 160 000 ha, vựợt xa diện tích nuôi thủy sản Bạc Liêu ( 44 446 ha ), Bến Tre ( 24 730 ha ), Trà Vinh ( 22634 ha ), trong tổng số tiềm năng mặt nước toàn thể Nam Bộ là 447 517 ha .Diện tích nuôi tôm Cà Mau,  năm  1999, có phần gia giảm đôi chút, chỉ còn  141 461 ha,  vì dịch tôm lan tràn, tôm chết hàng loạt các năm 1994-95 làm một số ngư trang muôi tôm bỏ hoang . Nhưng năm 2005 đã tăng lên lại   210 448 ha trong tổng số diện tích nuôi trồng thủy sản toàn quốc năm 2005 là  640 005 ha. Năm 2010 ước lượng diện tích nuôi tôm Cà Mau  là  264 500 ha trong số diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh nhà, ước lượng là 279 710 ha . Năm 2005 , sản lượng nuôi tôm ở Cà Mau đã cao nhất nước nhờ diện tích nuôi tăng nhiều , 120 263 tấn, vượt Bạc Liêu  110 000 tấn , trong tổng số  sản lượng tôm nuôi  toàn quốc  là 546 717 tấn.               
                                       
                Thế nhưng năng xuất tôm nuôi  ở Cà Mau  thấp nhất nước nhà , chỉ chừng 300 kg tôm /ha trong khi năng xuất ở  các tỉnh Bạc Liêu , Sóc Trăng,  Bến Tre v.v… trung bình là 500 kg/ha.  Tôm nuôi ở Cà Mau  theo ba phương cách: nuôi quảng canh - extensive ,  ao đầm bé nhỏ , thể thức nông hộ bé  nghèo nàn ,  không đầu tư gì nhiều, không áp dụng kỷ thuật mới mẽ chẳng hạn  thả tôm con không đúng thời vụ,  để mặc tôm tăng trưởng  lôi thôi   vì môi trường xáo động thường xuyên, năng xuất  chưa đến 300 kg/ha; nuôi tôm bán thâm canh - semi extensive diện tích 0.5- 1.5 ha với qui mô trang trại nhỏ  hoặc qui mô nông hộ ( gia đình ) năng xuất 600 kg/ha ;  nuôi tôm thâm canh - intensive, năng xuất 1- 2 tấn/ha qui mô trang trại nhỏ hay qui mô nông hộ -gia đình .  Cần xóa bỏ càng mau càng hay tùy theo từng bước, từng vùng một, cách nuôi quảng canh.  Thay bằng cách nuôi quảng canh cải tiến- improved extensive ở các đầm nước lợ, vùng ngập mặn và có diện tích lớn hơn 1. 5ha. Trong loại quảng canh cải tiến có thể dùng mô hình  tôm rừng sác  hay tôm « sinh thái »  bán cao giá hơn , các mô hình tôm - lúa ,  tôm- cá hay chuyên tôm , nhắm trọng tâm vào rừng ngập mặn  bán đảo Cà Mau. Tôm nuôi thâm canh công nghệ - industrial intensive ở Việt Nam đang tiến  chậm   so với Trung Quốc , Thái Lan , Đài Loan . Nuôi thâm canh ,tuy năng xuất cao 4-5 tấn /ha,  nhưng nuôi với mật đô cao ( 30- 50 con Pl  -post larvae/m2,  làm nhiều biện pháp xử lý  môi trường bằng hóa chất  cùng với sự kết hợp của kháng sinh ngăn ngừa và trị bệnh … , sau  vài vụ thành  công , đã thất bại  ê chề  vì  một số lý do kỷ thuật : các hóa chất độc hại  xử lý nước ao tôm   hủy diệt môi trường  sinh thái  nuôi tôm làm chai sạn và  tê liệt đất trong ao  sau vài vụ thâm canh, lạm dụng  các loại thuốc kháng sinh  nên tôm tiêu hóa yếu , chậm lớn đồng thời  tôm mang trong thân thể  hàm lượng kháng sinh cao bị cấm ở nhiều nước nhập khẩu tôm, thời gian nuôi tôm kéo  dài trên 4 tháng , khi thời tiết thay đổi  bất thường  các thông  số môi trường ao nuôi dao động mạnh, chưa nắm vững   cách quản lý thức ăn  cơ bản  làm dư thừa protêin , chất béo … tồn đọng dưới ao  phát sinh ra các loại khí độc  nguy hiểm cho sự sống của tôm . « Vết xe đổ »  nuôi tôm công nghiệp Đài Loan , Thái Lan này  chưa được sửa chửa hoàn toàn . Vì đòi hỏi qui hoạch , tính toán kỷ lưởng không nên phát triễn  đại trà ngay ở Cà Mau   mô hình công nghệ tha6m canh . Chỉ nên thử nghiệm nuôi tôm thâm canh  qui mô trang trại nhỏ  và qui mô nông hộ - gia đình, nếu thành công sẽ áp dụng rộng rải sau đó ( TS  Sinh học Nguyễn văn Hảo, Viện Nghiên  cứu Nuôi trồng  Thủy Sản II - 2000) , khi chưa có  một công thức thức ăn thích hợp không dư thừa protêin , chất béo. ( 70 % phí tổn nuôi tôm công nghệ là thức ăn cho tôm ), chưa có thuốc vi sinh hiệu quả hoàn toàn trị bệnh tôm ( đặc biệt là các bệnh  còi MBV, bệnh đốm trắng  do một nhóm họ virus  baculovirus gây ra , bệnh cầu vàng cấu trúc di truyền RNA gây ra,  bệnh nhiễm vi khuẩn Vibrio … ) , chưa có hệ thống kinh mương rạch  thoát thủy,  tưới tiêu làm sạch môi trường dễ dàng khi ô nhiễm nuôi tôm …
           Từ năm 2005 , Cà Mau ra chỉ tiêu   nuôi 10 000 ha tôm công nghệ năm 2010 ,  nhưng mô hình này từ nhiều năm qua, ngưng phát triễn ở mức 1500 ha,   vì phí  tổn  nhập sản nuôi tôm tăng vọt và giá tôm có phần  hạ xuống. Do dó cần tăng thêm khảo cứu ,  khuyến nông ( ngư ) chuyễn đổi kỷ thuật , tăng đầu tư , lập trại tôm giống tốt và giá cả phải chăng , bảo đảm  giá tôm bán cho các doanh nghiệp chế biến,  tổ chức  một hệ thống tưới tiêu  toàn diện tốt đẹp  cho ngành nuôi trồng thủy sản  ở lảnh vực quảng canh cải tiến hay bán thâm canh, hơn là thâm canh công nghệ . Có lẽ hãy đa dạng  qua  các loài tôm ( loai tôm giá cao là tôm sú Panaeus monodon ơ Cà Mau còn nuôi rất ít so với tôm thẻ maruma )  hay  các loại cá nuôi có giá trị thương phẩm cao hoặc khi mất thêm rừng ngập mặn thì chuyễn hóa rừng đước ở mô hình  tôm- rừng  dự  liệu qua các vưòn rau hoa , cây trái…  tăng dần «  miệt vườn » Cà Mau - Hậu Giang như   cha ông đã  khai thác Tiền Giang .

                       *Nuôi cá biển
              
Cá rô phi
           Cà Mau đã biết nuôi tôm- cá ( cá Rô Phi, Điêu hồng , cá Mú, cá Măng… )  tôm - cua bùn - mud crab, nhưng chưa phát triễn  nhiều ở vùng nước lợ nuôi cá chẻm , nuôi  cua  xanh - cua biển  Scylla serrata  , cá nước ngọt như cá  basa , cá tra, cá lóc hay các nghêu - sò vùng đất bùn .  Sản lượng  thủy sản,   ngoài tôm nuôi,  năm 2010 ước lượng là  71  700 tấn . Tưởng không nên quên là Cà Mau  có trên 250 km bờ biển ,  hải phận đánh bắt cá  là 80 000 km2 và  3640 tàu đánh cá. Sản lượng đánh  bắt hải sản ước lượng năm 2010 là  134 00 tấn. Cà Mau hiện  cũng có  32 nhà máy chế biến thủy sản , dung tích tổng cọng là  147 589 tấn. Nếu không có nuôi tôm , ngành nuôi  hải sản Cà Mau chưa  đạt mức trung bình nuôi hải sản trên thế giới hiện nay , sản lượng nuôi  tương đương với đánh bắt cá biển . Trước tiên nên lưu ý đến cá chình ( lươn) - eels  loại  hợp khẩu dân Nhật tên Nhật là unagi . Trước đây, Nhật  tiêu thụ 35000 tấn một năm , nhưng nay đánh bắt chỉ được 1% số lượng này và  sản lượng lươn nuôi ở 300 trang trại  Nhật chỉ  cung cấp 11000 tấn . Phần còn lại phải nhập  khẩu từ  Trung Quốc hay Đài Loan . Hâm nóng toàn cầu gia tăng nhiệt độ nước biển,  sẽ giảm số lươn đánh bắt hay  nuôi ở hai quốc gia « bán ôn đới » này .  Có lẽ Việt Nam nên chú trọng hơn  đến  tăng gia ngành nuôi lươn thay thế unagi . Ở Nhật, nuôi lươn đẻ trứng đã thành công , nhưng còn thêm một thời gian để phổ biến kỷ thuật nuôi lươn từ trứng . Không rỏ cá  chình- lươn nuôi ở Việt Nam hiện nay có từ trứng không ?  Thị trường nội địa các loại cá khác ở Nhật cũng gia giảm,  vì ngư phủ Nhật mỗi năm mỗi già đi, sỉ số bớt  mỗi năm 5%, đe dọa ngành cung cấp  cá nội địa ở Nhật.  Cục Ngư nghiệp Nhật - Fisheries  Agency  cho biết  năm 2008 chỉ còn trị giá là  11.7 đô la Mỹ , giảm 1/3  từ 18.8 tỉ đô la, một chục năm trước. Cục cũng còn cảnh báo là   biển quanh Nhật  cũng đã giảm nhiều nguồn cung cấp hải sản cho Nhật  hai thập niên qua . Chẳng hạn  đánh bắt cá thu ( cá mòi) - mackerel , một loại cá  dân Nhật ăn nhiều vì tương đối rẽ tiền , chỉ còn  được 20 000 tấn, so với con số 70 000 tấn  đánh bắt năm 1991. Một loài cá khác Việt Nam có thể thay thế xuất khẩu sang Nhật bằng các loại cá ngừ khác đánh bắt hay nuôi lồng  ở biển Đông , biển Tây nước nhà, là cá ngừ vi xanh - bluefin tuna, dân Nhất rất thích ăn.  CITES đã muốn cấm đánh bắt cá ngừ vi xanh ở Thái Bình Dương, vì  trử lượng  nay đã giảm xuống 80 000 tấn so với đỉnh  300 000, tấn năm 1974.

                      D. Phát triễn công nghệ, xây cất thị trấn, hoàn thành mau lẹ trọng điểm phát triễn kinh tế vùng cực Nam
            
Thị xã Cà Mau
                     Dự án qui hoạch phát triễn công nghiệp , phát triễn 3 vùng kinh tế trọng điểm nước nhà cho đến năm 2000 và sau đó là : Bắc Bộ , Trung Bộ. và Phía Nam. Trọng điểm Phía Nam  tập trung vào địa phận TP Hồ Chí Minh chiếm gần 50 % tổng giá trị  công nghiệp  cả nước, chiếm 30 % GDP Việt Nam , tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng  mau lẹ nhất trong cả nước, tỉ trọng  dân cư đô thị  cũng cao nhất nước ( trên 60% ) . Qui hoạch cũng dự trù  đến năm 2010 vùng trọng điểm Phía Nam này  sẽ  có  49 khu công nghiệp , 14 ở khu công nghiệp   TP HCM ,  tỉnh Đồng Nai 14 khu ,  Vũng Tàu- Bà Rịa 6 khu , và Bình Dương  15 khu . Hệ thống giao thông vận tải sẽ được nâng cấp  và xây dựng mới ( cảng Thị Vải,  sân bay Tân Sơn Nhất, Long Thành, mở thêm các đường cao tốc  và đường xe lữa  từ Sài Gòn đi Vũng Tàu, Tây Ninh , Mỹ Tho ). Hệ thống cở hạ tầng  cung cấp điện nước  cũng được mở mang thêm với dự án các nhà máy điện mới ở Phú Mỹ ( tổng công xuất 2400 000 KW ), ở Biên Hòa , Vũng Tàu … Cần Thơ chỉ dự trù phát triễn  vài cụm xí nghiệp và một khu công nghiệp nhỏ .  Không nói gì đến Cà Mau cả .
Công Nghiệp Năm Căn
                    Thế nhưng năm 2010, tỉnh Cà Mau đã có  4 công viên công nghệ là Khánh An , Hòa Trung , Năm Căn , Sông Đốc, diện tích tổng cọng  là 1477 ha , dự trù hoàn tất,  từ năm 2011 đến năm 2020 .  Cần khắc phục mau lẹ  các thách thức  thiết lập công viên công nghệ Cà Mau, chẳnh hạn như  các công viên này khá xa các trung tâm   then chốt thương mãi và kinh tế, gặp nhiều khó khăn giao thông chuyễn vận, hạ tầng cơ sở phát triễn yếu kém, đền bù  đất đai truất hửu chậm trễ .  Công viên Khánh An hiện chỉ mới có được 36 ha  trong số 150 ha cần giải tỏa. Công viên  công nghệ quan trọng nhất  cho tỉnh Cà Mau  là Năm Căn  dự trù 200 ha ,  cuối tháng 9 / 2010 cũng chỉ mới giải tỏa được 60 ha . Huyện Năm Căn  diện tích đến 51 211 ha  và dân số chỉ mới  có 68 769 người. Khu công nghệ Năm Căn dự  trù  hai công nghệ chủ yếu là  chế biến  hải sản và  đóng tàu ( 20 ha ở khu Năm Căn ) .   Nhưng Công ty xây lắp  Cà Mau và Công ty Vận tải Biển Tây Nam  lại là một  chi nhánh (?) của Tổ hợp VINASHIN ( ? ), hiện đang gặp  vô số khó khăn :  nợ nần tài chánh , quản trị lờ mờ, đầu tư bấp bênh  … chưa giải quyết xong .                                                 
  Công nghệ chủ yếu  của khu Khánh An , huyện U Minh là Phức Tạp ( Cụm ) dầu khí- điện lực- hóa chất phân bón tổng trị giá 1, 2 tỉ đô la Mỹ   Ngày 12 / 11/2005, tổng công ty Điện Lực Việt Nam - EVN ký kết với tổng Công Ty Dầu Khí Petro VN thiết lập nhà máy điện   công xuất 750 000 KW gồm 2 tua bin  khí chạy chu kỳ hổn hợp với Công Ty Lilama - Siemens Đức Quốc , hoàn tất tháng 12/ 2007 .  Ngày 27/3 /2006 , PetroVN  ký kết một khế ước thiết lập đường ống dẫn khí PM3 - Cà Mau gas pipeline, trị giá 300 triệu đô la  đưa khí dầu Bunga Kekwa ( Nam Côn Sơn ) về Cà Mau chạy các tua bin nhà máy điện. Đây là loại ống chịu đựng căng thẳng, đường kính  457 mm , chiều dài 325 km ( 298 km  ngoài khơi và 26.7km trên đất liền ) có khả năng  chuyên chở 2 tỉ m3 khí một năm .  Ống dẫn khi PM3 đã hoàn tất trước dự liệu và PetroVN đã  chuyên chở khí qua ống dẫn PM3 ngày 27 /12/2008. Dự án phân đạm hóa học Cà Mau trị giá tổng cọng  là 900.2 triệu đô la, 30 % do Petro VN đầu tư và 70% là tiền vay mượn đã được chánh phủ và quốc hội chấp thuận . Dự án  dự trù sản xuất  800 000 tấn  phân đạm urê - urea một năm , sử dụng khí dầu và điện đã có đủ tại An Khánh. Nhân sự kinh nghiệm thì sẽ có liên hệ, giúp đở của các  dự án phân urê,  dự án khí dầu và điện lực Phú Mỹ . Ngày 17/06/ 2010 , Petro Việt Nam đã  ký kết vay Ngân Hàng Phát triễn Việt Nam 180  triệu đô la, tài trợ dự án phân đạm  Cà Mau, kích động mạnh xây dựng nhà máy này  với tổ hợp  Công ty Họa Kiểu Vũ Hán - Trung Quốc China’s Wuhan Designing Company (W EC ) và Tổ  Hợp Xuất nhập khẩu Máy Móc  Trung Quốc - China Machine Import Export  Corporation ( CMC) .  Kỷ thuật nhà máy  là kỷ thuật Phú Mỹ áp dụng , tân tiến , do những nhà  thầu  có môn bài kỷ thuật tân tiến ( ? ) này  cung cấp. Đến nay Tổ hợp nhà thầu WEC- CMC đã thực hiện được 53.73 % công trình,  dự liệu khánh thành vào mùa thu năm 2012 . Phân đạm urê Cà Mau hy vọng sẽ thỏa mãn nhu cầu  phân đạm cho các tỉnh miền Tây Nam , là một  vùng  sản xuất gạo  và tiêu  thụ phân bón lớn nhất nước.  Thập niên tới có lẽ ngành hóa chất Cà Mau nên mở rộng thêm  các ngành hóa chất khác , có khi nghĩ đến một nhà máy lọc dầu  thứ ba , thứ tư sau Dung Quất ( Quãng Ngãi ) Nghi Sơn ( Thanh Hóa ), nhà máy nguyên liệu chất dẽo PP- PE v.v… ?  khi PetroVN đang thử nghiệm địa chấn 3D  phát hiện, khai thác thêm nhiều giếng dầu lữa, khí dầu ở vùng thềm lục địa gần Cà Mau hơn  là Phú-Mỹ - Bà Rịa .
Sau khi khánh thành cầu Cần Thơ , xa lộ 1A nâng cấp hoàn thiện và  xa lộ  GMS Hành lang kinh tế   Nam Á, nối liền các cảng  ba nước Việt Nam    Cam Bốt và Thái Lan thực hiện xong,  Cà Mau - Kiên Giang - Bạc Liêu , Sóc Trăng sẽ  là những trung tâm trọng điểm kinh tế  miền Hậu Giang  đã bị bỏ quên phát họa, qui hoạch kinh tế, công nghệ trước năm 2000 .  Kinh nghiệm cho thấy là nơi các trục giao thông xa  lộ, đường sông lớn,  quanh hay trong các khu công nghệ,  các cảng sông , biển…,  các thị trấn đông đúc phồn thịnh sẽ  mọc lên mau lẹ .  Có lẽ đã đến lúc  phải qui họach đầy đủ hơn thiết kế đô thị hóa thị xã Cà Mau và các thị trấn vệ tinh ,Nam Căn , Thới Bình, Đất Mũi, Ông Đốc và các huyện lỵ, vài xã khác chăng ?    Các cảng  Cà Mau ngày mai sẽ là cổng vào  giao thương  lớn  với các nước Á Châu  biển Đông và biển Tây.  Trong việc tranh đua phát triễn giữa các tỉnh và thành phố , năm 2009, Cà Mau  đã đứng hạng 21 của 63 tỉnh, thị  nước nhà và là tỉnh  dẫn đầu trong 10 tỉnh có mức phát triễn cao nhất rồi đó !

( Irvine , Ca Li Hoa Kỳ ngày 15 tháng 10 năm 2010 )         

                 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét