Cập nhật về những giống dưa gang tây, mơ lông vỏ láng, mơ lông rỗ căn ta lúp cúng kỵ và
xuất khẩu, đặc biệt ở vùng cao trồng xen kẻ dưới tán các loài rụng lá mùa
đông(?):
Dưa hoàng kim, mơ lông, mơ lông rỗ thay dưa gang xưa cũ
G S Tôn Thất Trình
Melon Hoàng Kim |
Tháng tư năm 1998, chúng tôi đã đề cập đến một vài loài này ở số 777, tuần báo Khoa Học phổ thông Sài Gòn. Nay có lẽ cũng nên cập nhật hiểu biết sinh thái về các loài mới , giống mới , giống lai nên phổ biến nhiều thêm ở nước nhà , đặc biệt trồng xen kẻ trên cây ăn trái lâu năm vùng cao, để xuất khẩu đến những xứ mùa đông dài và lạnh lẽo ( Trung Quốc , Hàn Quốc , Nhật Bổn , Nga , Đông Âu , Trung Đông v.v… hay cúng kỵ lễ lạc thành một trong 5 trái đẹp đẽ mâm “ngũ quả” truyền thống .
Các loại mơ lông
|
Đôi
chút thực vật học
Việt Nam hay
quanh Việt Nam
theo giáo sư Phạm hoàng Hộ chỉ có trồng một giống tên Âu Mỹ là mơ lông - melon , gọi
là dưa gang Cucumis sativus var conomon
(Thumb .) Mak , một loại dây bò ra trái
vỏ màu xám vàng vàng dài 20-30 cm , thịt
( nạc ) - ruột màu trắng và hột cũng trắng. Dưa hấu tên khoa học là Citrullus lanatus ( Thunb. ) Mak
& Nak. Âu Mỹ cũng gọi là mơ lông nước - water melon,
tuy Trung Quốc và Việt Nam đều cho là nguồn gốc
quốc gia mình ( sự tích dưa hấu An Tiêm ), các nhà thực vật học lại cho là du nhập từ Phi Châu. Giống dưa hấu ngọt trái nhỏ Sugar Baby, vỏ
trái tròn xanh đen du nhập từ Hoa Kỳ trong các thập niên 1960-70 có lúc thịnh
hành cúng kỵ, một thành phần ngũ quả ở miền Nam. Dưa hấu không hột lai tam nhiễm - triploid từ
giữa các hàng nhị nhiểm
-diploid và tứ
nhiễm -tetraploid, nay đã bị
thay thế bằng các giống
lai- hybrids không hột cao
năng , ngọt hơn , trái có khi rất to trên cả 100 kg. Mới đây còn xuất hiện dưa
hấu vuông vức nữa, thay vì tròn hay bầu dục … Ở bài này, chúng tôi giới hạn vào
các loài giống mơ lông - dưa gang tây, nên thay thế hẳn loài dưa gang ta, đôi
khi trồng khắp nước, nhưng không cải thiện tuyễn chọn gì cả.
Dưa hấu vuông |
Dưa hấu tam giác |
trái gấc |
mơ lông xạ hương |
Ở Hoa Kỳ hay Anh Quốc mơ lông
xạ hương thu hoạch điển hình vào cuối mùa
hè hay vào đầu mùa thu. Dưa gang tây hay mơ lông trên thế giới chia ra rất nhiều loại khác
biệt : mật
sương- honeydew , căng ta lúp - cantaloupe, charentais , galia , piel de
sapo … và dưa hấu - watermelon.
Còn căn ta lúp thì chia ra 2 loại : căn ta lúp thực sự - true
cantaloupe Cucumis
melo var
cantalupensis và căng ta lúp Mỹ châu - American cantaloupe
Cucumis melo var reticulatus. Khác biệt thực vật này đang còn trong
vòng tranh cải.
căn ta lúp |
Khi nào biết là trái căng ta lúp đã
chín ?
-Khi trái đã nặng cân so với
kích thước và rất thơm. Cuối thân bò (
cuối cuốn ) phải hơi mềm. Nếu không, phải để ở phòng nhiệt độ bình thường vài
ngày cho trái chín đầy đủ. Còn mơ lông sẽ chín thêm khi hái trái khỏi dây bò, miễn là chúng đã
trưởng thành đủ khi hái, và có thể cho chín , trong một tô - bát lớn đựng trái
cây với chuối. Mơ lông mật sương phải
tồn trữ hoặc ở phòng có nhiệt độ bình thường, hoặc ở tủ lạnh. Nhưng trước khi
ăn, phải đem ra phòng nhiêt độ bình thường cho mùi vị thơm ngon nhất. Nếu bạn
cắt ( bổ ) đôi trái, nửa trái kia sẽ tồn trữ tốt ở tủ lạnh 3 ngày. Nhưng bọc nửa trái này cẩn thận , vì
mơ lông thơm phức và hương thơm này sẽ xông qua các thực phẩm khác.
Đôi chút lịch sử
Nguồn gốc mơ lông thật khó xác
định , vì có người cho chúng xuất phát từ Phi Châu , có người lại bảo là Trung
Âu. Cũng thật là khó khăn xác định nơi nào chúng được trồng đầu tiên làm thực
phẩm, vì chưng hột mơ lông rất giống hột dưa chuột ( dưa leo ) và cũng
khó lòng phân chia hột ở các đất đào
khảo cỗ . Xác định chúng trước nhất là ở Ấn Độ khoảng 2000 trước công nguyên ( BC
) và ở Ai Cập khoảng 2400 BC. Tuy nhiên , không thể nào phân biệt nổi
là loại mơ lông nào hiện diện lúc
đó . Hầu như chắc chắn là lúc
đó mơ lông trồng không giống tí nào với
mơ lông thơm ngọt chúng ta ăn ngày nay. Có lẽ chúng giống những trái dưa chuột
hơn vì chúng cùng loài thưc vật Cucumis sativa. Chúng cũng không ngon ngọt gì,
vì thật sự các trái mơ lông thời cỗ được
biết là ăn khi chưa chín, gây ra ói mữa
.
Tuy nhiên điều này đã thay đổi hẳn nhờ trồng trọt và lai giống tuyễn chọn - cross
breeding. Vào thế kỷ thứ 3
sau công nguyên ( AD ) mơ lông đã đủ ngọt
để ăn với gia vị cay -
spice . Và đến thế kỷ thứ 6 và thế kỷ thứ 7, chúng được công nhận là khác dưa chuột .
Nhưng mãi đến các thế kỷ thứ 15 và 16, mơ lông thơm- aromatic , ngọt - sweet mới
xuất hiện lần đầu tiên , thành quả
của lai tuyễn nhiều giống khác nhau.
Mơ lông England |
Mơ lông căng ta lúp nhận tên từ xã Cantalupo ở quận Sabina , trên đồi Sabine Hills gần thị trấn Tivoli , nơi có lâu đài Hồng Y , con riêng của nữ Chúa Lucrece Borgia ( Lữ Cách Bạo Gia ) một thắng cảnh cách thủ đô Roma, Ý vài chục cây số và nơi bán nho tươi Tivoli to, ngon ngọt nhất Ý ( ? ). Đồi Sabina Hills là nơi đức Giáo Hoàng thường nghĩ mát mùa hè . Căng ta lúp trồng đầu tiên đầu thế kỷ thứ 18 từ hột mua ở xứ
Đôi chút thông tin tổng quát sơ lược
trồng trọt
Mơ lông rất dễ trồng nếu lựa chọn đúng điều kiện. Điển hình trồng chúng ở nhà kiếng là tốt nhất
ở xứ ôn đới như Anh Quốc, nhưng có thể trồng ở ngoài vườn ở những nơi ấm áp
hơn. Chúng cần nhiệt độ cao hơn cà chua
( khoảng 30oC/85oF )
và ẩm độ cao ( sẽ giúp xua đẩy nhện đỏ - spider mite , một sâu bọ phá hại mơ
lông ) và sẽ cũng mọc tốt nơi nào trồng được dưa chuột, vì đòi hỏi cùng
điều kiện sinh thái như nhau. Trái với quan niệm phổ thông, bạn có thể trồng mơ lông chung với dưa
chuột vì chúng không thụ phấn chéo - cross
pollinate lẫn nhau.
Một điều kiện khác trồng tốt
mơ lông là ánh sáng phải lan
tỏa - diffuse thay vì ánh sáng chói lọi, chan hòa. Đất phải giàu và
ráo nước và chúng thích không khí quanh
chúng luôn luôn ẩm ướt. Dây mơ lông có thể
để trên mặt đất làm giàn cho chúng leo . Mơ lông có nhiều dây tơ dài -long tendrils
có thể bò xa tìm dàn leo lên . Khi trái phát triễn đến kích thước một trái banh quần vợt chúng
phải được chống đở độc lập thân dây hầu chịu sức nặng trái. Có thể dùng bao dây, cột vào giàn . Khi hái mơ
lông , điều tốt nhất là nhìn màu sắc trái. Căng ta lúp phải có vỏ màu xám xanh. Phải xem kích
thước của mơ lông đã đủ chưa và nếu bạn
may mắn, trái mơ lông sẽ tách khỏi dây
thân dễ dàng, một dấu hiệu khác là trái đã chín và sẳn sàng để ăn.
Các loài, giống mơ lông
trồng trọt
( bổ sung bài đăng tháng 4 năm
1998 ở KHPT )
Các giống mơ lông trồng trọt rất lờ mờ . Đa số
dân gian nghĩ đến các giống loài mơ lông như mật sương honeydew, galia, căng ta
lúp - mơ lông rỗ v.v… Và nếu đó là một giống trồng trọt - cultivar
, thì trong mỗi giống đều có nhiều thứ giống – varieties khác nhau .
Mơ lông Ambrosia |
* Mơ lông Căng ta lúp Mỹ Châu . Trên phương diện kỷ thuật, các mơ lông này không đúng hẳn là căng ta lúp, mà chúng thật
ra gần loài phụ vỏ rỗ mơ lông xạ hương.
Trong khi đó căng ta lúp đúng tên gọi, nguyên quán ở
Ý và chỉ thấy ở Âu Châu như đã nói
trên. Vỏ trái căng ta lúp Mỹ màu be - len mộc - beige , rỗ màu xám , bao phủ một thịt
màu cam lợt ngọt ngào.
Căn ta lúp Mỹ Châu |
* Mơ lông nâu vàng - butterscotch melon. Rất phổ thông ở các chợ trời -farmer’s markets và các tiệm đặc biệt , nhưng trải mơ lông
này nhỏ và mềm như bơ ; vỏ trái màu xanh
lợt thịt pha hai màu sắc xanh và cam. Khi
chín, hương thơm ngọt ngào như đường.
mơ lông butterscotch |
* Mơ lông mật sương honeydew melon. Đây có lẽ là giống mơ lông
thông dụng nhất. Mơ lông mật sương ngon
nhất ở Âu Mỹ là hái khi cuối hè, nhưng chúng lại có thể hái quanh năm. Trái rất
to, tròn hay bầu dục, vỏ màu từ xanh đến vàng lợt, bao quanh một thịt từ vàng
đến xanh
mơ lông honeydew |
mơ lông Galia |
mơ lông Charentais |
* Mơ lông Casaba: có trái to lớn , vỏ vàng ,
khía rỗ nổi cao, bao phủ một thịt màu cam, nhiều nước mùi hương vanilla .
* Mơ lông Sprite , trái
nhỏ, nhưng dân gian mỗi ngày mỗi thích
hơn. Chưa có mặt bán ở Anh. Trái chỉ bằng trái banh cricket , thường nhẹ
hơn nữa kí ( kgr ).
Thịt rắn chắc như thịt trái pom -
táo tây . Mùi vị rất ngọt ngào . lẫn
lộn mùi vị của lê, pom và mật sương. Vỏ
trái Sprite chưa chín màu kem lợt ,
trở thành vàng lốm đốm khi chín hẳn
mơ lông casaba |
Vài loài giống thứ giống mơ lông mới đang xuất
hiện ở bang Ca Li là các giống Trung Đông,
Tây Bắc Trung Quốc là mơ lông Tajik - A Phú
Hãn, mơ lông uzbek, mơ lông Hami
tỉnh Tân Cương- Xin Kiang miền Tây Bắc Trung Quốc .v.v…
mơ lông Sprite |
- thịt màu cam : Ambrosia 86 ngày , Burpee
Hybrid 82 ngày, Earlisweet 68 ngày ,
Gold star một giống lai 86 ngày ,
Harper hybrid 86 ngày , Harvest Queen
một giống lai 89- 95 ngày , Iroquois 87
ngày , Pulsar một giống lai 80 ngày ,
Saticoy Hybrid 80- 90 ngày , Superstar cũng là một giống lai 86 ngày…
- Thịt màu xanh : Galia, một giống lai 65 ngày, Jenny Link 75 ngày, Passport một
giống lai 73 ngày, Rocky Sweet cũng là
một giống lai 85 ngày …
- Thịt
kiểu mật sương - honeydew : Honeydew
một giống lai : 95- 115 ngày , Early Dew một giống lai 80 ngày, Honey Brew 90 ngày, Morning Dew một
giống lai 96 ngày, Tam Dew 95- 100 ngày,
Venus cũng là một giống lai 88 ngày…
Và các loài giống mơ lông khác : Casaba Golden Beauty 110 ngày , Crenshaw 90-115 ngày, Honey Shaw một giống Crenshaw
lai 85 ngày, Marygold một loại casaba nhỏ 88- 92 ngày và là giống lai …
(
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét