A- Đảng,
Đại Trung Quốc, và Thế giới Rộng lớn hơn : 1993- 2003
G S Tôn Thất Trình
Sau đây phần lớn là quan điểm của hai tác giả , các giáo sử học Scott Morton và Charlton Lewis , môn sử Trung Quốc các đại
học miền Đông Hoa Kỳ ( Lịch sử và Văn
hóa Trung Quốc, McGraw Hill xuất bản- 2005 ):
Vượt qua khủng hoảng
Quảng trường Thiên An Môn năm 1989,
Đảng Cọng sản Trung Quốc tái xác nhận quyết định xua đuổi mọi câu hỏi về độc quyền của đảng và như vậy tránh mọi thay đổi sâu xa
quyền hạn đã xảy ra vào thời Liên Xô Gorbachov. Thành quả là
chế độ sau đó phồn thịnh hẳn lên.
Trung Quốc tham gia Tổ chức
Thương mãi Thế giới - World Trade Organisation ( WTO) và năm 2008 tổ
chức Thế vận Hội và tăng trưởng không
ngừng của một cường quốc kinh tế đã giúp Trung Quốc tiến vào sâu hơn cộng đồng toàn cầu hơn bao giờ hết. Cũng như trong thập niên
1980 và đầu thập niên 1990, vấn đề trọng tâm tiếp diễn là Đảng
cần khai thác các lực lượng của kinh tế thị trường trong lúc kiềm chế các căng thẳng xã hội phát sinh, và bảo trì
quyền hạn chánh trị của Đảng. Thế nhưng có một cảm giác là Trung Quốc đang phải
đi ngang qua một cây cầu mới lịch sử và đối diện một loạt
thách thức chưa hề xảy ra .
Đảng và Quốc Gia
Liên tục chánh trị đã là
tiêu chuẩn ở Trung Quốc kể từ tai họa Thiên An Môn năm 1989. Ngay cả khi
họ vượt qua khủng hoảng bằng cách
tuyên bố thiết quân luật và đuổi Triệu Tử Dương ra khỏi chức vị tổng thư ký,
các bô lảo Đảng bỏ phiếu bầu một Ủy Ban Thường Vụ mới và
thay Triệu bằng Giang Trạch Dân -
Jiang Zemin , một thị trưởng không màu sắc
chánh trị và là thư ký Đảng của Thượng
Hải. Các bô lảo đoán chừng , đúng như thế, là Giang sẽ tiếp
tục những chánh sách cải cách kinh tế
của Đặng Tiểu Bình , dù cho 8 năm kế tiếp Đặng
vẫn là quyền uy tối hậu về những
quyết định chánh trị. Kể từ khi Đặng chết, tháng hai năm 1997, có hai chuyễn
tiếp lảnh đạo quan trọng: ở Đại hội Đảng Thứ 15 vào năm đó,
khi Giang Trạch Dân được xác định là tổng thư ký và chủ tịch nước; và ở Đại hội Đảng năm 2002, nâng Hồ
Cẩm Đào- Hu Jin Tao, một thư lại
không màu sắc chánh trị thay Giang ở
chức vị Đảng và chủ tịch nước. Cũng như Đặng trước đó, Giang tiếp tục chủ tọa Ủy ban Quân sự Trung ương uy vũ , và như thế bảo đảm là ông cũng kiểm
soát được quân đội .
4 thế hệ lãnh đạo TQ: Mao-Đặng-Giang và Hồ |
Đại hội Đảng thứ 15 năm 1997, lần đầu tiên không có Đặng, xác
định cái gọi là thế hệ đời ba lảnh đạo.
Thế hệ thứ nhất gồm Mao, Chu Ân Lai và Chu
Đức; thế hệ thứ hai là Đặng Tiểu Bình.
Nay đến Giang Trạch Dân, Lý Bằng
và những người khác, có học vấn tốt đẹp, đạt địa vị từ dịch vụ thư lại chứ không phải từ chiến
đấu vỏ trang. Họ tìm thấy tính chất hợp pháp
xuyên qua các kiểm soát qui tắc
cơ chế và thủ tục hơn là qua uy quyền quân sự hay đúng đắn
lý tưởng. Cho đến lúc Giang nghỉ
hưu năm 2002, ông đã chủ tọa những biến đổi
quốc gia đáng kinh ngạc. Đạt tỉ xuất tăng trưởng kinh tế gần 10% một năm, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế uy vũ, một thành viên của WTO và một
lực lượng chánh ngoại giao thế giới.
Đại hội Đảng thứ 16 tháng 11 năm
2002, và Đại hội thứ 17 tháng 3 năm 2003 đẩy mạnh thế hệ thứ tư lên lảnh đạo ,
một thay đổi to lớn nhất kể từ khi Mao chết năm 1976. 6 trong số 7 ủy viên ban Thường vụ bộ chánh trị
Đảng nghỉ hưu kể cả Chu Khổng Cát
( ? )- Zhu Rongji, thủ tướng
tuổi 74 và Lý Bằng , chủ tịch đại
hội nhân dân quốc gia cũng 74 tuổi.
( Lý Bằng ra đi chấm dứt phe bảo thủ trong chánh phủ ) . Người thay thế
Lý Bằng là Vũ ( Vô ) Ban Quốc - Wu Bangguo , 60 tuổi, được xem là có tư tưởng cởi mở cho cải cách hơn. Mọi tướng lảnh tuổi trên 70 đều phải rời Ủy
ban Quân sự Trung Ương dù Giang vẫn còn giữ chức chủ tịch. Hồ Cẩm Đào, sinh năm
1942, trở thành tổng thư ký Đảng và
chủ tịch nước. Hồ là kỷ sư công nghệ thủy động lực, viện đại học Thanh Hoa -
Qinghua ( được xem là MIT của Trung Quốc
) . Nơi đây Hồ đi vào chánh trị và
trở thành đảng viên và “giảng dạy chánh trị - political instructor”
cho những sinh viên khác. Tiến lên Ủy Ban Trung Ương khi mới 39 tuổi, Hồ trải
qua 20 năm ở các chức vụ địa phương, kể
cả ở Tây Tạng - Tibet , nơi Hồ thiết quân luật tháng 3 năm 1989, để dập
tắt nổi loạn. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử PRC, luật thiết quân luật được thi hành và thành tiền lệ cho tuyên bố thiết quân luật chống các cuộc biểu tình ở Bắc Kinh, hai
tháng sau. Năm 1992, tuổi 49, Hồ trở
thành ủy viên trẻ tuổi nhất của Ủy ban Thường vụ bộ Chính trị -
Politburo’s Standing Committee. Ông chỉ huy Trường Ủy ban Trung Ương Đảng cho
đến năm 2002; ở trường này, ông khuyến khích bàn cải về lý tưởng và lý thuyết đảng .
Trung Nam Hải - Cửa Nam |
Tương tự việc tuyễn chọn công chức
cho bộ máy thư lại - civil service thời đế quốc Tàu xa xưa, đảng viên được một cọc tiêu về trật tự chánh
trị và được đặc biệt khích lệ để hoạt
động trong khuôn khổ đảng. Đảng viên giữ
những chức vụ lảnh đạo ở mọi cấp
bậc xã hội, dù đó là các nhà lảnh đạo xã ấp ( thôn xóm , làng ), ban giám đốc
quản trị trường học ,các quản trị cơ xưởng, ban biên tập báo chí,
chức quyền cảnh sát-công an, hay mọi thư lại - bureaucrats trong mọi lảnh vực chánh phủ. Đảng viên
cũng kiểm soát cảnh sát công an, và quân sự ở làng xã và các thị trấn nhỏ. Ai muốn đạt chức vị quản trị ( xử lý ) xí nghiệp quốc doanh phải được Đảng chấp thuận. Tuyễn chọn tích cực gia nhập đảng đã được thanh niên trẻ có học vấn sẳn sàng hưởng ứng, vì họ muốn tiến bước trên đường sự nghiệp. Tại Viện Đại
học Thanh Hoa, trường Hồ Cẩm Đào tốt nghiệp,
các chức quyền viện cho biết là
năm 2002, hơn 1/3 sinh viên đã tỏ ý muốn
gia nhập đảng. Ban cử nhân đã có 12 % là
đảng viên và và ban cao học đã có đến 30% là đảng viên rồi. Tổng quan, tay
đảng nắm chặc tuồng như cũng cố thêm lên và tổ chức của đảng có vẽ trở nên trung ương hơn. Huấn luyện nửa đời sự nghiệp đã được cơ chế
hóa tại các trường. Cán bộ đảng nay gồm
35 % nữ giới và 7% là các tộc dân thiểu
số ( sắc tộc ), và 47% đảng viên có
giáo dục đại học . Trong số cán bộ lảnh đạo, xương sống của hệ thống cai
trị - hành chánh , 95% là đảng viên và
81 % có đại học. Vài người có cấp bằng tiến sĩ ( PhD, docteur d’ Etat). Kỷ
trị - technocrats, không phải là công nhân hay nông dân, nay lảnh đạo phát
triễn Trung Quốc .
Thay đổi theo cải cách Đặng đề
xướng, khiến Đảng phải tìm kiếm một cái
nhìn lý tưởng rỏ ràng, minh bạch.Từ triều đại nhà Hán, một cái nhìn
cố hợp pháp của quốc gia thống
nhất, đã phục vụ quyền lợi cho giới cai trị thượng lưu. Ở PRC, lý tưởng đựợc xác định gần gủi với người
lảnh đạo Đảng . Dịch bản Mao về một dạng
Tàu của chủ nghĩa Marsism - Leninism được hệ thống hóa thành Tư tưởng Mao Trạch Đông. Ý kiến của Đặng
về cải cách và mở rộng cửa xứ sở được
dán nhãn hiệu là Lý thuyết Đặng Tiểu Bình. Giang Trạch Dân, tuy căn bản là một nhà kỷ trị, cũng cố tâm cũng cố địa vị lảnh đạo
bằng một lý thuyết gọi là “ Ba Đại
diện - Three Represents” trong một bài diễn văn năm 2000. Ý niệm là Đảng
đại diện “ những lực lượng sản xuất cận
đại (có nghĩa là các doanh nhân và nhà tư bản) “ những lực lượng văn hóa tiên
tiến” ( có nghĩa là những nhà trí thức )
và những quyền lợi dân gian đại chúng” (
có nghĩa là công nhân và nông dân ).
Thật thế, nay Đảng CCP “đại diện”
mọi người cho nên mọi người gồm
luôn cả những doanh nhân cường thịnh nay
có thể thành đảng viên . Một sự phân tiết toàn diện như thế, làm nhớ lại những
mơ hồ trong lý thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa
của Tôn Dật Tiên , đầu thế kỷ. Ý niệm Ba
Đại diện, được tán thửởng là một đột
khởi - breakthrough lý tưởng, nay là
một đề tài cần thiết cho bàn cải ở những đơn vị hoạt động ( học tập
) - work unit khắp nước. Công bố Ba Đại diện tiết lộ xa cách rộng lớn của
những lực lượng đối chọi nhau ở Trung
Quốc ngày nay và vấn đề của Đảng
CCP để kiềm
chế các lực lượng này .
Khi lý tưởng Đảng ít được tụ điểm hơn, Đảng phải dựa nhiều hơn vào những dạng chủ nghĩa quốc gia -
nationalism và giá trị Khổng giáo để
hổ trợ vai trò Đảng lảnh đạo. Đảng tự
họa mình là con cháu di sản “truyền
thống đại văn hóa Trung Quốc” , vì truyền thống này đã cứu Trung Quốc ra khỏi nhiều nổi nhục lịch sử do ngoại quốc gây nên. Những anh hùng
thời quá khứ như Lâm Tắc Từ - Lin Zexu
thời chiến tranh Nha Phiến ( Thuốc Phiện ) hay chính ngay Mao, được thần thánh hóa. Anh hùng hiện tại được tạo dựng để phô bày lòng trung thành với nền trật tự hiện hửu. Hát
bội, xi nê, chương trình ti vi, nhật báo, tập san hàng tuần hàng tháng liên tục kể chuyện các nông dân, công nhân , cán bộ kiểu
mẩu đã tự hy sinh phục vụ tổ quốc. Tỉ
như Lễ Phong ( ? ) - Lei Feng, “ công nhân kiểu mẩu”của Cách Mạng Văn
Hóa luôn luôn được ca ngợi . Thị trấn sinh quán anh ta ở tỉnh Hồ Nam , khoe khoang một tượng khổng lồ và một viện bảo tàng, trong khi
chiến dịch Lễ Phong trưng bày một sách
viết về những điểm đáng ghi nhớ anh ta làm ra, kể cả một đôi vớ ( tất ) anh
mạng vá nhiều lần.
Đàn Áp Pháp Lua6n Công tại Thiên An Môn |
Đảng kiểm soát khoa học có phần phức tạp hơn. Hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 , chừng
380 000 sinh viên Tàu đã được gửi ra
ngoại quốc huấn luyện về khoa học; độ 1/3
trở về nước. Con số Việt Nam ra đi đến năm
2009( ? ) là chừng 80 000 sinh viên và không biết con số trở về lại Việt Nam
. Rất nhiều người ở lại ngoại quốc vẫn
duy trì liên hệ với các cơ chế quê nhà ở Tàu. Các viện khảo cứu mới đã được thiết lập và con
số nhà khoa học viết bằng Anh ngữ tăng
thêm ở các tạp chí khoa học quốc tế. Sau khi Cách mạng Văn hóa phá tan giới trí thức
thượng lưu, một hình thể mới nhà
khoa học đang trổi dậy ở Trung Quốc và
đang tiến về hướng tham gia hoàn
toàn khảo cứu khoa học quốc tế .
Đảng CCP duy trì kiểm soát chặc chẻ 2.5 triệu quân
lính Quân đội Giải phóng nhân dân PLA.
PLA chia ra 7 quân khu, phải báo cáo trực tiếp với Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng, không phải
Hội Đồng Quốc gia - State Council,
giám sát các bộ dân sự và là cơ
chế lớn nhất của chánh phủ. ( Bộ Quốc Phòng,
dưới quyền của Hội đồng Quốc gia, có rất
ít kiểm soát trực tiếp trên PLA ). Tình trạng dễ bị đánh tan của PLA
ở thời đại cao kỷ, đã rỏ ràng
trong cuộc chiến Vùng Vịnh -Gulf War năm 1991 , khi quân đội Iraq
được trang bị ở một mức độ kỷ thuật
tương đương với Trung Quốc và với võ khí Trung Quốc chế tạo, bị các lực lượng Hoa Kỳ đánh bại nảo nề. Hệ luận và
cũng là phương cách tăng cường PLA, chánh phủ Tàu cho phép thiết lập các liên doanh sản xuất và bán vỏ
khí cho ngoại quốc. Những năm trước 2005,
ngân sách PLA được tăng thêm mỗi
năm. Nhưng cho đến năm 2005, hải quân và
không quân Tàu, cả hai tùy thuộc kỷ thuật, vẫn còn hoàn toàn chưa thích nghi, để
tung ra một xâm chiếm xuyên qua eo biển Đài Loan.
Hầu bù trừ cho lực lượng khiêm tốn
qui ước, Trung Quốc cận đại hóa kho vũ khí hạt nhân. Trung Quốc thử bom hạt nhân đầu tiên năm 1964 và võ khí hydrogen ( khinh khí) năm 1966. Sau đó còn thử thêm 45 thử nghiệm hạt nhân ( 23 trên khí quyễn và 22
ngầm dưới đất ), mãi cho đến năm
1996 khi Trung Quốc ký Hiệp Ước
Cấm Thử Toàn diện -
Comprehensive Test Ban Treaty . Trung Quốc bắt đầu sản xuất đều đặn võ khí
hạt nhân năm 1968 và vỏ khí hạt nhân nhiệt - thermonuclear weapons năm 1974. Cho đến năm 2003, theo một nghiên cứu của Hội đồng
Quốc Phòng ( Hoa Kỳ) Tài Nguyên Thiên Nhiên - Natural Resource Defense Council,
Trung Quốc năm đó đã có 400 đầu đạn hạt nhân - nuclear warheads , cả
trên cương vị “chiến lược” ( đa số trên căn cứ đất liền ) lẫn chiến thuật ( để thả bom oanh tạc chiến thuật ), dù Trung
Quốc chối bỏ điểm cuối này. Điều Trung Quốc cố tâm thực hiện, theo gợi ý chuyên
viên ngoại quốc là tạo ra một kho vỏ khí đủ rộng lớn để nâng cao địa vị
mình và cung cấp ngăn chặn
làm nhụt chí đối phương, nhưng
không quá to lớn làm quốc gia phá sản.
Một quyết định Hoa Kỳ dàn trải phòng vệ chống hỏa tiễn quanh Hoa Kỳ, Nhật, Đài Loan, và Hàn Quốc (
Nam Hàn ), theo nhiều chuyên viên, có
thể khiêu khích Trung Quốc phát triễn
kho vỏ khí hạt nhân mau lẹ hơn nữa. Hiện năm
2005, dù chưa đến các mức độ Hoa Kỳ hay Nga, sức lực
hạt nhân trung Quốc đã dủ mạnh để
đe dọa Đài Loan và làm các quan sát viên Hoa Kỳ lo ngại.
Để đạt tình trạng đại cường quốc,
Trung Quốc đã phát triễn một chương trình không gian chánh yếu. Trong các năm
1999 - 2003, sửa soạn đưa người lên quỹ đạo, Trung Quốc phóng lên những sứ
mệnh không người từ Trung tâm
Không Gian Giũ Quan( ? ) - Jiuquan tỉnh
Cam Túc, mỗi sứ mệnh sử dụng phi thuyền
loại Thẩm Châu - Shen- zhou. Phi
thuyền Thẩm Châu-5 phóng lên ngày 14 tháng 10 năm 2003 mang theo
một phi hành gia duy nhất trở về Trái
Đất an toàn ngày hôm sau. Chuyến
sứ mệnh có người lái đem lại uy tín quốc tế lớn lao cho Trung Quốc và rất
có thể giúp Trung Quốc bán ra ngoại
quốc những kỷ thuật không gian Tàu.
Nhiều sứ mệnh tham vọng hơn đang được
qui hoạch .
Nhân Quyền ở Tây Tạng
Dat Lai Dat Ma và TT Obama |
Năm 1955, quên đi tiền lệ và thể dạng chính trị thần quyền Phật giáo - Buddhist
form of theocracy của Tây Tạng . PRC
thiết lập khu tự trị Tây Tạng - Xizang zizhiqu
và đệ nghị Đạt Lai Lạt Ma chủ tọa một Ủy ban Sửa soạn mục đích này. Năm 1959 , phản đối quân đội Trung Quốc tiếp
tục chiếm đóng dân Tây Tạng nổi
loạn vỏ trang. Trung Quốc dẹp tan nổi
loạn và Đạt Lai Lạt Ma trốn sang Ấn Độ. PRC đưa Panchen Lat Ma , đứng hàng nhì giáo hội Tây Tạng, lên làm chủ tịch Ủy ban
Sửa soạn. Hoa Kỳ và các chánh phủ khác
phản đối Trung Quốc vi phạm nhân quyền
Tây Tạng không đi đến đâu cả thảy. Trung Quốc PRC thời Cải cách Đặng Tiểu Bình
vào thập niên 1980, cởi mở đôi chút kiểm
soát trung ương, cấp thêm ngân sách cho Tây Tạng và đưa nhiều chức vụ cai trị
cho dân Tây Tạng địa phương trung thành với Trung Quốc . Nhưng năm 1987, việc Trung
Quốc tiếp diễn hiện diện ở Tây Tạng đưa đến
nhiều biểu tình ở Lhasa, biểu tình lớn
nhất gồm hơn 2000 nhà sư và nhiều người khác.
Dân Tây Tạng xung đột với lực
lượng an ninh Tàu Cộng và một lần nữa vào tháng 3 năm 1989, dân gian Tây Tạng cướp bóc nhà cửa, tiệm của dân Tàu, một rối
loạn tệ hại nhất kể từ năm 1959. Hồ Cẩm Đào
hiện đang làm tổng thư ký Đảng CCP ở Lhasa , tuyên bố thiết quân luật, và luật này vẫn
còn tiếp tục ở những mức độ khác nhau kể
từ năm 1989.
Giữa những buộc tội của các cơ
quan bảo vệ nhân quyền thế giới là Trung
Quốc tiếp tục độc đoán bắt bớ, bỏ tù và
tra tấn những dân Tây Tạng đòi độc lập, PRC đã duy trì kiểm soát chắc chắn Tây Tạng.
Năm 1995, chánh phủ Bắc Kinh lựa chọn
một Panchen Lạt Ma mới. Được biết là rất nhiều dân Tây Tạng bị bắt giữ
những năm gần đây, nhưng con số chính xác rất hiếm hoi. Trung tâm Tây Tạng cho Nhân Quyền và Dân Chủ báo cáo là thêm 40 người mới bị bắt giam năm 2002, có lẽ vì hình tội
vi phạm an ninh xứ Tây Tạng, tỉ
như các hoạt động ly khai. Đa số dinh thự đặc thù Lhasa bị
triệt bỏ, thay thế bằng nhũng
phòng sở buồn tẻ và cơ cấu cư xá. Trung Quốc khuyến khích tộc dân Hán di
cư vào Tây Tạng,
cho nên nay mọi doanh vụ đô thị
đều là của người Hán , người Tàu. Hơn
phân nữa dân số Lhasa nay là tộc dân Hán, Tàu. Bộ mặt xã
hội thành phố Lhasa nay đã biến đổi và cá tính văn hóa Tây Tạng bị đàn áp nặng nề.
Đài Loan
Đài Loan, căn cứ của Cọng Hòa Trung Quốc
- Republic of China, cách xa bờ biển lục địa Trung Quốc chừng
100 dặm Anh( 160km ) , đối diện tỉnh Phúc Kiến. Bồ Đào Nha gọi là “ Formosa - Đảo Đẹp đẻ” là một đảo hình bầu dục dài 250 dặm Anh( 402
km ) và rộng 80 dặm Anh ( 129km ) có một
dãy núi cao về phía đông Đảo. Đồng bằng
phía tây có nhiều mưa và khí hậu bán
nhiệt đới, trồng lúa gạo, rau đậu và trái cây phong phú. Vào cuối triều đại nhà
Minh, dân Tàu lục địa di cư từ Phúc Kiến thay thế
các tộc dân sơ khai nguồn gốc Mã
Lai và làm thành “tộc dân Đài Loan , dân Đài Loan sở tại- Taiwanese” của tổng số 20 triệu dân cư nói các thổ ngữ
- dialects tỉnh Phúc Kiến và thiểu số Hẹ -Hakka ( một tộc dân Hải Nam ). Phần còn lại, khoảng 20% là dân lục địa nói tiếng Quan Thoại -
Mandarin và con cháu của họ đến tị
nạn ở Đài Loan năm 1949 cùng với Chánh phủ Quốc Dân Đảng rút lui khỏi lục địa.
Khi dân Mãn Châu
cuối cùng chiếm Đài Loan. năm
1683, nhà Thanh làm ra một quận huyện - district của tỉnh Phúc Kiến (
năm 1885
họ lại làm thành một tỉnh riêng
biệt ). Năm 1895, nhà Thanh bị buộc phải
nhường Đài Loan cho Nhật và Nhật biến Đài Loan thành thuộc địa Nhật, mãi cho
đến năm 1945. Chánh phủ Quốc Gia -
Nationalists tiếp nối việc Tàu kiểm soát Đài Loan. Thoạt tiên dân Đài Loan đón chào dân Quốc dân
Đảng Tàu như thể là dân giải phóng họ,
nhưng các chức quyền do Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm khởi sự khai thác nhẫn tâm dân bản xứ Đài Loan, mau lẹ đưa tới uất hận
to lớn. Ngày 28 tháng 2 năm 19 47, xô
xát ở đường phố gây ra một nổi lọan lan
rộng khắp đảo và bị Quốc dân Đảng đàn áp thô bạo và có hệ thống. Lực lượng Tưởng gửi tới từ lục địa đàn áp phong trào và bắn giết cố ý ít nhất là 8000 người, phần lớn lại là dân
trí thức có học vấn bản xứ. Ký ức không quên được về cuộc tàn sát dã man này,
châm ngòi cho
dân sở tại Đài Loan ly khai, sau nhiều thập niên , trong khi chức quyền
Quốc Dân Đảng dựng lên một bức thành
lặng thinh chánh thức. “Sự cố 2/28” không được nêu lên trong sách vở
dạy ở trường và các phim Nhật bị cấm đoán, nếu
phim nói ra nổi luyến tiếc những
năm Nhật cai trị. Chỉ vài năm gần đây, vụ tàn sát mới được công khai bàn cải và
dần dần được công nhận.
Chánh trị ở Đài Loan
Trong 3 thập niên Quốc Dân Đảng chiếm giữ, Đài Loan bản chất
là một quốc gia cảnh sát do Quốc Dân Đảng kiểm soát , hầu như không mấy
dân chủ hơn là đối nghịch bên kia eo
biển Đài Loan. Các ly khai Đài
Loan bị bắt giam và gửi đến trại tù nổi tiếng là Đảo Xanh
Lục - Green Island ngoài khơi bờ biển Đài Loan. Trong lúc
đó một nhóm nhỏ dân tha hương, đa số ở Nhật khuấy động Đài Loan độc lập khỏi Tàu. Những mức độ căng thẳng
được lộ ra năm 1976 bằng một xung
đột ở thành phố miền Nam Đài Loan Cao Hùng - Kaohsiung giữa các nhà tích
cực gốc Đài Loan sở tại và cảnh sát. Rất
nhiều người vị bắt giam và ở một phiên
tòa công cộng vài người bị kết án tù
chung thân vì nổi loạn. Sau sự cố Cao
Hùng, sự
tàn bạo của chế độ Đài Loan trở thành rắc rối, lúng túng ngay cả
cho Hoa Thịnh Đốn, nơi các ly khai hải ngoại Đài Loan tăng thêm ảnh hưởng.
Trần thủy Biển - Đài Loan |
Vấn đề quan hệ Đài Loan với PRC vẫn còn
nóng bỏng chánh trị ở cả hai bên eo
biển. Kể từ bình thường hóa quan hệ năm
1978, làm Đài Loan mất công nhận ngoại giao gần như khắp thế giới, Đài Loan
đã khẩn trương làm một chiến dịch
sáng kiến ngoại giao , đặc biệt ở châu Mỹ La tinh , Phi Châu và gần đây ở Đông Âu. DPP nắm chánh quyền càng làm cho Bắc Kinh lo ngại là Đài Loan sẽ tuyên bố độc lập. Nhưng liên hệ
kinh tế tăng gia mau lẹ giữa : “hai
nước Tàu- two China ” đã làm cho
một đương đầu quân sự khó lòng
xảy ra.
Phát triễn kinh tế Đài Loan
Tự do hóa chánh trị ở Đài Loan có một nền tảng kinh tế. Dù rằng
chánh phủ Quốc gia ( Dân ) ở Đài
Loan đàn áp chánh trị, chánh phủ cũng khởi sự một cố gắng
nghiêm chỉnh giảm bớt các
lạm dụng chiếm hửu ruộng đất.
Không còn móc nối gì cả đối với
các điền chủ địa phương, chánh phủ đã
có thể thực thi giảm tô - rent reduction, bán các công điền công thổ - public land
và chương trình người cày có ruộng - land to the tiller . Thống đốc
mới Đài Loan là Trần Thành - Chen Cheng đưa ra một chương trình
cải cách điền địa - ruộng đất , trước hết
giảm tô xuống mức 37.5 % năng xuất mùa chánh, rồi bán công điền công
thổ cho nông dân đang phải mướn ruộng đất.
Đất này nguyên của địa chủ Nhật, chiếm
1/5 đất đai trồng trọt được ở Đài Loan
và bán giá rẽ phải chăng cho nông dân. Thành quả những cải cách này, từ năm 1949 đến
năm 1952, là những nông dân thuê mướn ruộng đất giảm xuống chỉ còn 11 % từ 39%
; lợi tức nông dân tăng lên 81% và năng
xuất lúa gạo đã vượt các mức trước chiến
tranh. Cuối cùng chánh phủ cũng đã thành công
chuyễn các đầu tư của địa chủ từ ruộng đất qua công ( kỷ ) nghệ, và như
thế đặt nền tảng cho thịnh vượng và ổn định dân sự tương lai Đài Loan. Nông dân
phải thuê mướn ruộng đất đặc biệt
gia giảm; cho nên đến năm 1960, 90% ruộng đất trồng trọt là do các sở hửu chủ ruộng đất khai thác. Dù
uất hận sự cố 2/28 vẫn còn, nay đã có khích lệ cho dân sở tại Đài
Loan tập trung vào nổ lực tăng gia lợi lộc kinh tế .
Tàu do tổ hợp đóng tàu Đài Loan đóng |
Phát triễn dễ dàng thêm nhờ thiết lập các khu ( vùng ) chế xuất- export processing zones , thuế quan đơn giản và các luật lệ điều hòa xuất khẩu khuyến khích ngoại quốc đầu tư. 3 khu chế xuất được thiết lập trong thập niên
1960 và năm 1974 đã có gần 300 khu chế xuất. ( các
khu chế xuất ở lục địa Trung Quốc PRC
sau năm 1978, được thiết lập theo
kiểu mẩu Đài Loan) . Các năm 1974-
1984, Đài Loan có mức tăng trửởng kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới, chỉ sau
có Sinpapore và lợi tức mỗi đầu người
GNP per capita tăng đến 2 199 đô la Mỹ năm 1980,
4 046 đô la năm 19 84, 6053 đô la năm
năm 1988 ( nhắc lại là năm 2010, Việt Nam có lẽ mới đạt được 1010 đô la cho mỗi đầu người,
trong khi đầu thập niên 1960 GNP mỗi đầu người
Đài Loan và miền Nam Việt Nam xấp xĩ nhau ! ). Quan trọng hơn cả cho ổn
định xã hội là Đài Loan có sự phân phối
công bằng phải chăng của mức giàu
có mới . Nếu chúng ta lấy 20 %
lương bổng cao nhất và 20% lương
bổng thấp nhất , lợi tức của họ năm
1952 có sác xuất 15 /1. Thế nhưng năm 1987, hố cách biệt đã hạ thấp xuống chỉ còn các sác xuất 4.69/1 , ít hơn hố cách biệt giàu nghèo ở Hoa Kỳ.
Tiến
triễn từ nông nghiệp qua chế tạo computer,
lẽ dĩ nhiên, khoông thể nào có
được, nếu lực lượng lao động không được huấn
nghệ , trau dồi học vấn. Xây đắp
trên hệ thống căn bản Nhật thiết lập , Quốc Dân Đảng sau năm 1949, cố tâm tăng
dần số trường học và sinh viên. Năm 1968, giáo dục cưỡng bách ( bắt buộc ) kéo dài thêm
từ 6 năm đến 9 năm; và từ năm 1977- 78 , hầu hết con em đều vào học
thời gian đầu của hệ thống 9 năm học, khỏi trả học phí. 51 %
thiếu niên từ 15 tuổi đến 17 tuổi
vào học các lớp cao trung và 25 % thanh niên lứa tuổi 18 đến 21 tuổi vào trường hay viện đại học. Hệ thống giáo dục cung cấp chuyên môn, kiến
thức để tranh đua công ăn việc làm ở thị trường.
Đàn ông và đàn bà
có thêm nhiều lựa chọn công việc, đưa tới thay đổi liên hệ giữa các phái tính, tương tự như đã xảy ra ở
Tây phương. Một khi kinh tế triễn khai , liên hệ giáo dục và xã hội tiến triễn mau lẹ. Ở Tân Đài Loan, hệ thống gia trưởng hầu như đã bị xói mòn mất hết đi, không còn
dấu tích nữa .
Cuối năm 2002, xuất khẩu Đài Loan trội hơn nhập khẩu 18 tỉ
đô la Mỹ, thặng dư lớn nhất kể từ năm 1987, phần lớn do tăng gia xuất khẩu sang
Trung Quốc. Năm 2003, Trung Quốc là nước nhập khẩu hàng hóa Đài Loan lớn nhất, thu nhận ¼ xuất khẩu Đài Loan, gấp đôi trị số lượng nhập khẩu 10 năm trước. Trước năm
2001, hàng hóa phải đi ngang qua Hồng Kông, nay có thể chuyên chở qua lại trực
tiếp từ các hải cảng và phi trường Trung Quốc và Đài Loan. Năm 2002
cả Đài Loan lẫn Trung Quốc gia nhập WTO . Hàng tỉ đô la Mỹ tư bản đầu tư
nay chảy mạnh xuyên qua eo biển.
Đài Loan nay là nhà đầu tư “ngoại quốc” lớn nhất ở
Trung Quốc và với lảnh đạo mới ở Bắc Kinh đang nổi lên. Các doanh nhân lảnh
đạo Đài Loan đã kêu gọi mở những chuyến bay và chuyên chở tàu thủy trực tiếp giữa hai bên luc địa và Đảo. Hơn 300 000 doanh nhân Đài Loan nay sinh sống ở Thượng Hải và rất nhiều người ở những
nơi khác tại Trung Quốc.
( sẽ tiếp theo )
B- Kết luận (cho đến năm 2005) : Một xã hội đổi thay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét