Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

Trung Quốc


(Tiếp theo Lịch Sử Văn Hóa Trung Quốc )
Phần IV .
  A-  Cách Mạng Cộng Sản 1949- 1965


                                 Như đã nói sơ qua ở phần trước,  quân đội Mao Trạch Đông  tụ tập tại Mãn Châu, trước khi quân quốc gia ( quốc dân KMT ) đến , khi Nga rút khỏi Mãn Châu , chỉ để lại một ít quân đội ở Đài Liên và Lữ Thuận . Mãn Châu  là một miền nước Tàu  duy nhất không bị chiến tranh tàn phá , lại giàu có về nguyên liệu hơn cả , nhiều kỷ nghệ và trang bị  kỷ nghệ  đầy đủ hơn cả , nhiều đường giao thông , xe lữa , hải cảng … Chánh phủ Trùng Khánh dời về lại Nam Kinh ngày  1 tháng 5 năm 1946, không  thể khai thác, lợi dụng kinh tế độc nhất hiện có là Mãn Châu,  cho nên phục hưng kinh tế quốc gia của nền Cọng hòa Tàu  chậm chạp hẳn đi.  Mao Trạch Đông tuyên bố Trung Cọng  không nhìn nhận  Quốc hội  nhóm họp ngày 15 tháng 11 năm 1946. Năm 1946 và đầu năm 1947,  quân Tưởng  chiếm được các đô thị  chính Mãn Châu , vào tỉnh Nhiệt Hà , chiếm Trương Gia Khẩu  là cửa vào Mông Cỗ. Tháng 3 năm 1947, họ tiến tới miền Bắc Sơn Tây  và chiếm Diên An- Yenan , thủ đô của  chánh phủ Trung Cọng , từ trước đến nay chưa hề bị xâm phạm. Đầu năm 1947, quân Mao phản công.

                                    Mao Trạch  Đông  ( 1893- 1976 )
                         Dân Tàu xem Mao là một người đáng tin cậy. Mao dáng dấp một dân Tàu thông thường hằng ngày. Xuất thân từ giai cấp nông dân khá giả, tiểu tư sản trung nông vì sau đó cha ông làm giàu thêm  nhờ  buôn bán, Mao  làm việc nặng nhọc ở đồng ruộng, nghiên cứu quá khứ Tàu, viết chữ Hán thành thạo kiểu viết đẹp đẽ, và hay làm thơ ngay cả lúc « Trường Hành » gian nan. Mao đã được  hoàn toàn chấp nhận là một nhà lảnh đạo hệ tư tưởng, nên ông tuồng như  coi thường những tuyên bố chính thống của Đảng Cọng Sản Trung Quốc, dù ông  tuyệt đối  tin tưởng chủ nghĩa Mác xít.  Khi cần thiết, ông rất tàn nhẫn, vựợt xa hơn Tưởng Giới Thạch, có lẽ hơn cả Nã Phá Luân - Napoleon, dù cá tính này không thể nào định lượng nổi. Vì vậy ông thắng lợi và làm mất hết khả năng chống trã của đối phương  bằng cách  thỉnh thoảng - không thường xuyên đâu -  công nhận lỗi lầm.
                    Từ thủơ nhỏ, ông đã  tỏ ra  cương quyết, kiên định, giúp ông thực hiện nhiều điều.  Khi lên 10 tuổi, cha ông một hôm mắng ông trước người lạ mặt  là ông « lười biến và tham ăn », ông cải lộn hung hăng với cha và bỏ nhà ra đi.  Mẹ đưa  ông về nhà , hòa giải cha con, và ông phải xin lỗi cha. Một lần khác, ông bị đánh đập ở một trường nhỏ của thầy dạy kèm, ông bỏ đi xa đến một thị trấn lân cận, lạc đường lang thang 3 ngày ở đồi núi  cho đến khi được tìm ra và đưa về nhà. Điều này xảy ra ở nhiều gia đình khác ,   nhưng đáng chú ý vì Mao gọi đó là một «  cú tấn công - strike » thành tựu ; sau đó cả ở nhà lẫn ở trường, ông không còn bị đối xử nghiêm khắc nữa.
                Mao tự học sau trung học ông hoàn tất lớn tuổi hơn các bạn cùng lớp nhiều.  Ảnh hưởng lớn ở thời Mao niên thiếu và lúc mới trưởng thành,  có lẽ  là  một nhà giáo Dương Tràng Khởi ( ? ) - Yang Changji  đã sống 10 năm ở Nhật và ở Anh, hai nhà Mác xít là Lý Đại Triệu ( ? ) Li Dazhao, Mao giúp việc khi làm ở Thư viện Đại học Bắc Kinh và Trần Độc Tú - Chen Duxiu  giáo sư  và biên tập viên tờ Tân Thanh Niên - La Nouvelle Jeunesse . Mao đọc ngấu nghiến  ( như thể bò  gặm rau ở vườn rau )  tin tức, kinh tế chánh trị, triết lý, truyện Tàu cổ điển, xã hội học  và văn chương cách mạng. Các năm  1926- 1927, Mao  viết về đời sống ông  cùng giới nông dân Hồ Nam  và phân tích điều kiện của nông dân lúc đó.
              Hiểu biết về nông dân và sự hổ trợ trung thành của  Chu Đức - Zhu De và Hồng Quân đang gầy dựng, giúp Mao  phát triễn lực lượng du kích, động viên nông dân ở vùng Sô Viết - Tổ Khu Giang Tây, từ năm 1938 đến năm 1934. Ông tiếp tục một đường hướng độc lập với lảnh đạo chánh thức của CCP, đang dưới sự kiểm soát của nhóm gọi là «Sinh viên Hồi hương - Returned Student » . Đó là những thanh niên từ Nga về cơ sở trung ương ở Thượng Hải với dấu ấn  huấn luyện Sô viết. Thượng Hải trở nên qúa sôi nổi  và Ủy Ban Trung Ương Đảng  theo Mao - Chu  về Thụy Kim , tỉnh Giang Tây năm 1932.  Chưa có giai cấp  công nhân vô sản công nghệ thị thành ở vùng núi non cho các Sinh viên Hồi hương  để đề xướng hay dựa vào. Mao tiếp tục tổ chức nông dân  và chiến đấu sống còn với   các tấn công của Tưởng Giới Thạch, dù rằng Mao không bao giờ chối cải tầm quan trọng của vô sản công nghệ ở lý thuyết Mác xít. Trong cuộc « Trường Hành »,  CCP  mất hết liên lạc với  Mạc tư Khoa -Moscow và Mao leo lên chức  vị tối  cao đảng  ở hội nghị Thuận Nghĩa ( ? )- Zunyi, như chúng ta đã biết. Mao  đạt địa vị tối cao, vì kinh nghiệm của mình,  chứ không phải qua sự bổ nhiệm  của Komintern nào từ Moscow.  Từ rày,  có khi Mao bị thách thức , nhưng không bao giờ bị  đuổi khỏi chức vị  lảnh đạo nữa.
Mao viết Tiểu luận về  Chiến tranh Kéo dài  1938
             Khi Trường Hành chấm dứt,  Diên An - Yanan  trở thành sân khấu   huấn luyện mãnh liệt quân đội và các bộ Đảng, và những nguyên tắc cọng sản đều  thiết lập từ tình trạng thực tế Tàu, giúp cho CCP  nắm quyền  Trung Quốc năm 1949 êm ả như đã xảy ra  và sẽ qui định  đường hướng phần lớn chánh sách của CCP từ nay trở đi. Ở Hồng Quân  Tàu, sĩ quan và binh lính lương bổng như nhau . Binh lính được quyền phát biểu ý kiến, nhưng luôn luôn  trong hàng ngũ có nhân viên đảng, thường theo tỉ lệ 1 trong 4 người.  Mọi đánh đập đều bị bải bỏ. Mao nhấn mạnh là chiến thuật du kích không đủ, nên phải  xây dựng bảo đảm các căn cứ an toàn - an toàn khu. Từ các an toàn khu, sẽ phát xuất chức năng không chiến đấu - non combatant  function của quân đội là làm tràn lan tuyên truyền chánh trị và tổ chức khối nông dân. Muốn làm như thế,  binh lính phải  kính nễ nông dân, giúp họ ở công việc đồng áng. Tại Diên An, binh lính đóng giày và  đan găng tay.  Lảnh tụ phụ nữ ăn mặc  như đàn ông  ( «  tại sao phụ nữ lại phải giống đàn bà ? » ) .  Thế cho nên dù đa số  đảng viên  trong vùng  tương đối còn trẽ,  Diên An hầu như «  không phái tính - sexless ».  Khác hẳn kinh nhiệm bình thường với quân đội đóng tại chỗ ,  gần như  không có việc hiếp dâm phụ nữ.  Ai nấy đều phải làm việc khó nhọc. Ngày nay  Diên An là một đền thờ  cho thế hệ cận đại Tàu , phòng Mao Trạch Đông   làm việc được trưng bày cho dân chúng đến xem, kể cả nơi  Mao  viết năm 1938 : « Tiểu luận về  Chiến tranh Kéo dài - Essay on Protracted War ».

           Tại Diên An năm 1942, Mao nhấn mạnh đặc biệt  về những thời gian  huấn luyện  mạnh mẽ  để  « sửa sai những khuynh hướng không chính thống », trước hết trên tư duy- suy nghĩ của đảng viên, rồi đến lời nói, cách viết của họ,  cuối cùng trên những liên hệ với nhau  và người ngoài đảng. Những phương pháp huấn luyện và tái huấn luyện trở thành những phương tiện cổ điển, sau đó mở rộng khắp nước. Trên nhiều khía cạnh chúng giống như  những lớp họp mặt của  nhóm Giáo Lý - Methodist, đạo Tin Lành thuở ban đầu vào thời kỳ John Wesley. Như Wesley, Mao nhắm  đào tạo một loại  công dân Tàu mới.  Theo từng nhóm nhỏ, các thành viên  đầy nhiệt tình tôn giáo tự kiểm thảo hay chỉ trích lẫn nhau, phơi bày nguyên cớ. Rồi thì ở những buổi họp  công cọng, họ thú nhận tội lỗi, nói rỏ ăn năn hối hận, sửa sai làm sạch lỗi lầm và  lấy quyết tâm mới.
           Thường vì tiện lợi tốc ký,  mọi chuyện lảnh đạo đều ghi là Mao Trạch Đông làm ra, nhưng đó là cảm tưởng sai lầm. Mao hành động trong vòng lảnh đạo của Đảng CCP  và  quyết định dưới kỷ luật của Đảng đều  là công tác chung. Tuy nhiên Mao đóng vai trò quan trọng vì ôn lại dĩ vãng, ông được nêu lên vị trí một hiền nhân sáng suốt, một phần nhờ ông làm chủ được những câu cay độc,  nhận thức liên tục là ông phải nói hết sức đơn giản  cho mọi dân Tàu  nam nữ bình thường hiểu : «  Uy quyền chánh trị  đến từ một thùng thuốc súng ».  «  Cách Mạng không phải như thể mời dân gian ăn cơm tối … hay may vá  áo quần ngộ nghĩnh». « Mỗi người nằm mơ riêng tư, dù cùng ngũ một giường » . « Ếch nằm đáy giếng nghĩ rằng mình nhìn thấy cả trời - ca dao Việt nói :… coi trời bằng vung » .
             Diên An là nơi cũng cố lực lượng và huấn luyện, nhưng cũng là căn cứ hoạt động, trước tiên tranh thủ nông dân  vùng lân cận, sau đó  tấn công quân Nhật, năm 1937. Chánh  quyền vùng biên giới  các tỉnh Thiểm Tây- Hà Bắc -  Nhiệt Hà là thành quả hoạt động của du kích địa phương hay từ Diên An, trong khi Nhật đã chiếm gần trọn  miền Bắc Trung Quốc. Khi  du kích do CCP lảnh đạo  đạt hiệu quả hoàn toàn nhất ở những giai đoạn sau cùng chiến tranh chống Nhật, CCP đã kiểm soát các vùng miền Bắc  sông Dương Tử,  dân số tổng cọng là 90 triệu . 

                         Nắm Quyền
             
              Thế cho nên khi nội chiến chấm dứt ,CCP thắng trận, nắm quyền toàn thể Trung Quốc trở thành dễ dàng hơn .Vấn đề làm bối rối nhiều là tại sao dân chúng Tàu gốc rễ  ăn sâu vào truyền thống, sẳn một tinh thần gia tộc ( đình ) mạnh mẽ, lại chấp nhận  tuồng như quá dễ dàng một triết lý cọng sản ngoại lai. Câu trả lời khó mà tóm tắt.
               Đặc điểm thứ nhất là chán ngán hoàn toàn chiến tranh, không lấy gì đáng ngạc nhiên khi triều đình Mãn Thanh hấp hối, hổn loạn đau khổ thời kỳ họa quân phiệt, và bất đồng chia rẽ  nặng nề  thời kỳ quốc gia dân quốc dù thật sự thời này có vài tăng gia thống nhất và ổn định thật sự, rồi tiếp theo là Nhật xâm lăng và 4 năm nội chiến. Hòa bình bất cứ giá nào  có nghĩa khinh bạc ở Tây Phương, nhưng ở hoàn cảnh Trung Quốc bấy giờ  thật rất dễ hiểu.                   
               Kỷ luật và  giúp đở của Hồng Quân ( quân đội cọng sản ), nay gọi là Quân đội Gỉai phóng Nhân dân-  People ‘s Liberation Army hay PLA,  là lý do thứ hai dân Tàu chấp nhận chánh phủ CCP. Dân gian Tàu thường nhìn  quân lính không mấy tốt đẹp hơn thảo tặc, quân ăn cướp. Tương phản giữa PLA và quân lính truyền thống  đặc biệt quân lính quân phiệt, lảnh chúa tướng đốc quân quá lớn, tạo ra một hình ảnh rất thuận lợi cho  chế độ mới. Quân lính nhân dân nói cám ơn, dạ vâng, trả tiền sòng phẳng khi lấy vật dụng và nhận chỉ thị nghiêm khắc  không được chiếm đoạt ngay cả một cây kim ở nhà dân gian. Chánh phủ  thoạt tiên theo đường hướng mềm dẻo  với ai có tài sản, ngoại trừ ở vài vùng đang thi hành cải cách ruộng đất - land reform trước khi nắm quyền. Uy quyền cọng sản hứa hẹn đem lại bình minh chói lọi những lợi ích đời mới cho tất cả mọi người .
           Ngoài yếu tố tuyên truyền này, có  nhiều điểm tương đồng giữa trật tự cọng sản mới và trật tự Khổng giáo, cho những ai ít nhận thức được những động lực nội tạng của nền cai trị Tàu.  Dân Tàu  thường có cái nhìn  dị biệt và đôi khi xung khắc nhau  trên nhiều chủ đề, nhưng ít khi bày tỏ cởi mỡ khác biệt về nhưng điều chánh quyền thực thi.  Có một chính thống quốc gia và các chuyên viên, chức quyền mới hay cũ đặt lên để bảo vệ chính thống, cai trị xứ sở theo đúng chính thống. Bổn phận kẻ bị cai trị  là phải vâng lời kẻ cai trị và trong khuôn khổ cho phép, hầu được sinh sống và sản xuất theo lối mình.
 Khi cọng sản nắm quyền, ít người  phỏng đoán  là can thiệp của kẻ cai trị lại đi sâu và ôm chồm tất cả đời sống  riêng tư mỗi công dân Tàu như thế, nhưng khuôn khổ vẫn   giống xưa cỗ. Rồi thì lại có một yếu tố tích cực không chối cải được  của chủ nghĩa Mác xít về giải thích lịch sử , sau nhiều chục năm quan điểm va chạm, kêu gọi nhiều đối với giới trí thức.  Đây là  một triết lý Tây phương về lịch sử  - và bây giờ  Tây phương  đáng kính nể trên phương diện trí thức -  tuồng như  ăn khít vào những sự kiện dân Tàu nhìn thấy ở đó  hay muốn nhìn thấy  theo kinh nghiệm bản thân. Chủ nghĩa tư bản suy thoái không tránh được,  tính chất  tự thất bại của chủ nghĩa đế quốc, và một vài  tiến tới của chủ nghĩa xã hội, nơi lý tưởng bình đẳng - egalitarian ideals trùng điệp  một dòng tin vào chúa cứu thế - messianic strain, vài lúc bật trở lại  trong quá khứ Tàu ; mọi điều này có vẽ đủ căn bản để được tin tưởng.  Thật không có gì làm yên lòng cho bằng  cảm tưởng  là lịch sử đang ở phe mình!  «  Thế giới đang tiến triễn, tương lai sán lạn,  và không một ai lại có thể thay đổi khuynh hướng tổng quát của lịch sử. Người cọng sản phải liên tục tuyên truyền  trong dân gian Tàu trên những sự kiện  thế giới tiến bộ,  tương lai sán lạn trước mắt,  hầu giúp dân Tàu  xây đắp tin cậy vào chiến thắng ». ( chiếu theo tác giả sách Lịch sử văn hóa  Trung Quốc - 2005, trích dẫn phần lớn ở bài này ).
Thủ tướng Chu Ân Lai 
         Khi CCP nắm quyền kiểm soát Trung Quốc, thể thức Chánh phủ là Ủy Ban Tư vấn Chánh trị Nhân dân - People ‘s Political Consultative Councíl , thành lập tháng chín năm 1949 với 662 đại biểu. Trên lý thuyết, đây là một chánh phủ liên hiệp,  nhiều  người không phải là đảng viên CCP được  giao phó những chức vụ quan trọng. Thế nhưng  ở ủy ban kiểm soát gồm 56 thành viên, có đến 31 là đảng viên CCP.  Thủ tướng là Chu Ân Lai .  Để bảo đảm  quyền cai trị, kiểm soát mau lẹ  xứ sở, Trung Quốc được chia ra làm 6 miền, mỗi miền có một Cục - bureau có uy quyền  quân sự và chánh trị. Đa số  chức quyền cũ địa phương hay  đôi khi ở cấp cao hơn , đều ở lại chức vụ . Chánh phủ Cộng hòa nhân dân Trung Quốc gọi thời kỳ từ ngày thành lập 1 tháng 10 năm 1949  đến cuối năm 1952 là giai đoạn Tân Dân Chủ. Nhà cầm quyền cộng sản vừa đã phá những cái cũ , diệt  sự chống đối của bọn phong kiến, đế quốc, tư bản; vừa cố tạo cho dân gian một ý thức hệ mới, một tinh thần mới, không còn quan niệm cũ về gia đình xã hội nữa mà thành một người mới.

                        Cải cách ruộng đất  
          
               Mao Trạch Đông, ngay từ khi lập chiến khu  ở Giang Tây, rồi khi lên Thiểm Tây , đã  thực hành việc chia đất một cách có phương pháp, quyết liệt đặc biệt vào năm 1947, nên thành công.  Luật Cải Cách Ruộng Đất - Cải Cách Điền Địa - Agrarian Law năm 1950  ban hành cho khắp cả Trung Quốc. Tiến trình đã gần như hoàn tất đầu năm 1953. Mục đích  cuộc Cải Cách Ruộng Đất  là cải thiện số phận dân nghèo , giúp họ tham gia xây dựng xứ sở và trung thành với chánh phủ mới . Rất nhiều dân trí thức phe tả cấp tiến ( ? ) Tây Phương, không phải là tất cả, nghĩ rằng  nạn nhân cải cách trong quá khứ đã tham lam  và đối xử độc ác ( cường hào ác bá ) đối với nông dân nghèo.  
Ban hành luật Cải Cách Ruộng Đất ngày 30 tháng 6 1950

Nhưng thực tế, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam chậm hơn vào năm 1953 ( ? ) ( đồng bằng sông Hồng, Thanh- Nghệ- Tĩnh- Bình cho đến Vĩnh Linh- Quảng Trị), đây là một thời kỳ khủng bố - terror khiếp đảm. Chánh quyền phái cán bộ về mỗi làng, sống với dân nghèo, tìm hiểu tình hình trong làng, thuyết phục nông dân «  tố khổ » địa chủ. Từ mấy ngàn năm, nông dân vẫn cúi đầu trước địa chủ  cường hào, nay bảo họ tố khổ thì họ sợ nếu sau có việc gì thay đổi  họ sẽ bị quật lại, cho nên cán bộ  ( cá nhân hay một nhóm, ở miền Bắc Việt Nam gọi là «  đội » )  phải giảng giải cho họ, rồi chỉ họ cách tố khổ. Tuy chánh quyền tuyên bố chỉ dùng cách  thuyết phục, chứ không dùng sức mạnh, nghĩa là địa chủ nào  chịu tuân phép nước  thì để yên cho sống, nhưng chánh phủ cũng mong dân hăng hái  đấu tranh giai cấp, hăng hái diệt giai cấp địa chủ, như vậy nhẹ bớt việc cho chánh phủ.  Một khi cán bộ gây được căm thù  trong lòng dân, thì làm sao tránh nổi được  những cuộc đổ máu khủng khiếp , dù chánh quyền có muốn ngăn  cũng không sao ngăn được.             
           Cán bộ tổ chức hiệp hội nông dân và tái phân ruộng đất, chia nông dân ra 4 hạng , 3 hạng địa chủ là phú nông, trung nông và bần nông và  một hạng không có đất, phải làm mướn. Ba hạng dưới chỉ có 20-30% số đất cày, còn 70% thuộc hạng phú nông.  Cán bộ tịch thu đất của bọn phản quốc, địa chủ, phú nông, chia cho hạng nghèo. Cuộc chia lại đất làm mức sản xuất tăng gia 5-6% . Nhưng vì đất ít, dân đông, mỗi nông dân chỉ được 3 mẩu Tàu , khỏang 2000m2 ( 2 công ở miền Nam Việt Nam ), nên mức sống nông dân không cải thiện được bao nhiêu cả .
             Rất nhiều địa chủ, phú nông, cường hào ác bá nông thôn…  ở Hoa Bắc  bị nông dân cầm đinh ba, búa dao dẫn  từ làng nọ qua làng kia, sỉ vả, chửi rủa , rồi xẻ thịt ra chia nhau. Nông dân hăng say, hoan hỉ chém giết, có khi chôn sống cả gia đình địa chủ, địa chủ nào lòi đầu lên  khỏi mặt đất thì họ cầm xẻng, cuốc đập lên đầu. ( theo sách Les Origines de la Révolution Chinoise của  Lucien  Blanco - 1951 (?) và Đinh Linh- Ding Ling, một nữ sĩ Diên An  đã được giải thưởng Staline về tiểu thuyết năm 1948,  tả nhiều cảnh đấu tố  ở cuốn Văn học Trung Quốc Hiện Đại của tôi ). Lý lý Tam - Li Li San, thuộc bộ chánh trị đảng CCP  và một bác sĩ  Anh  lúc đó sống ở  miền Trung Trung Quốc  ước lượng là  một triệu rưỡi  người  đã bị giết chết ở phong trào Cải cách Ruộng Đất Trung Quốc vào thời gian này .Ở Bắc Việt, phong trào cải cách ruộng đất, phát xuất từ vùng an toàn Thái Nguyên, dưới chỉ thị của Hồ Chí Minh ( tuy sau này đổ tội cho Trường Chinh  thi hành sai ) dưới sự thúc đẩy( hay lòng tin  tưởng vào chánh sách )  của Mao Trạch Đông, theo Võ Nguyên Giáp nói là 20 000 người chết, nhưng có người nói  lên đến 200 000.
              Cải Cách điền Địa, ngoài kinh tế còn có mục đích  quan trọng hơn là để lấy thông tin và kiểm soát. CCP dùng cán bộ  để có được cái nhìn sâu đậm về tình trạng ở mọi nơi nướcTàu và  danh sách khá đầy đủ về kẻ thù của dân gian Tàu. Nhờ liên can dân địa phương qua tiến trình « tòa án nhân dân » và  giết chóc, kiểm soát bằng sợ hải được thiết lập mau lẹ. Những ai hăng hái nhất, đặc biệt trong giới thanh niên, phổ biến những nguyên tắc Cọng Sản cũng đã lộ diện ra cho Đảng để sau đó  Đảng chiêu mộ và huấn luyện thêm về đấu tranh giai cấp, tiến tới xã hội chủ nghĩa

                   Cải Cách Tư Tưởng 

                 Tháng 2 năm 1951, Mao ban hành đạo luật diệt các hoạt động phản cách mạng , kẻ nào chỉ mới đáng nghi  cũng bị trị thẳng tay.  Tháng 3, ở Bắc Kinh bắt đầu có những vụ án lớn xử hàng đám người. Lần lần, những vụ xử như vậy lan khắp các thị trấn Trung Quốc . Trong một đêm  cảnh sát Thượng Hải  bắt từ 10 000 đến 20 000 người. Mới đầu chỉ bắt bớ những kẻ phản động đặc biệt (  cựu nhân viên Quốc Dân Đảng, hội viên các hội kín, du kích chống cọng sản… ) nhưng sau đó bắt bớ  cả những kẻ làm nghề tự do, cựu đoàn viên  nghiệp đoàn Quốc Dân Đảng, kẻ cộng tác với  các nhà doanh nghiệp ngoại quốc … Báo chí đăng tải cho biết số người  bị xử tử hằng ngày  luôn luôn từ vài chục tới vài trăm. Sau này Chu Ân Lai  cho biết tỉ số người bị xử tử tới 16 % số người bị ra tòa . Có người  ngờ tỉ số đó còn thấp, vì Chu Ân Lai  nổi tiếng  là nói láo một cách hòa nhã, dịu dàng - suave menteur, suave liar. Phỏng đóan chừng từ 1 đến 3 triệu người bị giết . ( Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc  từ cỗ đại đến hiện đại 1982 ).
                 Tháng 10 năm 1951,  chánh quyền Cọng Sản thiết lập  chiến dích «  tam phản-  san fan , Three-Anti  hay Ba diệt » . Ba diệt là diệt tham nhũng, phí phạm của công và quan liêu.  Chiến dịch  nhắm trước hết các  cán bộ chánh quyền , nhiều cán bộ vô đảng không phải vì nhận thức chủ nghĩa, thiếu kinh nghiệm hay trở lại những thói xấu thời trước. Tiếp theo là chiến dịch « ngũ phản - wu fan , Five -Anti hay Năm diệt ».  Năm Diệt nhắm giới tiểu tư sản,  nhất là bọn thương gia, công nghệ gia hay có thói hối lộ cán bộ , chiến dịch thứ hai này cũng nhắm mục đích dẹp hết  các xí nghiệp tư doanh, chuyễn qua xí nghiệp quốc doanh.  Năm diệt là  diệt sự hối lộ cán bộ, sự trốn thuế,  sự buôn bán gian lận , sự ăn cắp của công, sự ăn cắp tài liệu kinh tế, làm hại cho quốc gia .
               Hai chiến dịch gây một tình trạng hổn độn không tả nổi về hành chánh và xã hội  , nhưng trên phương diện kinh tế đã giúp chánh phủ  kiểm soát  doanh nghiệp tư : 450 000 hảng tư đã được khám xét  và  trị giá sản xuất trên 1 tỉ đô la Mỹ ;  và đồng thời tiêu chuẩn lương thiện tăng, những năm đầu tiên ở khu vực công của Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc People ‘s Republic of China ( PRC ).
               Mọi người đều  phải tham gia cách mạng - cải cách.  Giới trí thức đã phải thi hành  phong trào  Cải Cách Tư tưởng - Thought Reform  tháng chín năm 1951. Họ phải rời bỏ mọi liên hệ thế giới tư sản - bourgeois world trong nước và ngoài nước. 6500 giáo sư bị bó buộc  phải học tập  dưới sự  chỉ dẫn của Giáo sư A Tây Kỳ - Siqi , một lảnh tụ  về áp dụng tư tưởng Cọng Sản Tàu, dù trước đó A Siqi không mấy được đồng nghiệp  đánh giá cao trên phương diện nghề nghiệp.
                Trong năm 1950, tuy chánh quyền cũng quan tâm về tôn giáo, nhưng không có chánh sách chung. Đạo Hồi  có đông tín đồ thiểu số ( sắc tộc, tộc dân ) nên được đải ngộ đặc biệt. Thiên Chúa -Ki tô giáo ( Cơ đốc,Tin Lành , Chính Thống ) được khuyến khích thành lập những nhóm văn hóa ái quốc - yêu nước, các nhà truyền giáo Tàu thay thế  các nhà truyền giáo ngoại quốc bị nghi kỵ, tra hỏi , lần lần bỏ về nước . Họ có  khuynh hướng lập  một giáo hội quốc gia  tách khỏi giáo hội gốc. Đạo Phật hồi đầu được khoan dung , nhưng chánh quyền  buộc các tăng ni  phải sản xuất, tự túc  rồi năm 1953 lập một khối Phật giáo ( «  quốc doanh ) theo đường lối chánh phủ.  Duy có Đạo Giáo, từ 2000 năm trước là ổ của hội kín, không tha thứ được, bị cấm ngặt. Dưới chế độ cọng sản, các  hiến pháp đều  xác nhận «  tự do tín ngưỡng,  tự do không tín ngưỡng » nên gia đình cán bộ không được phép có tôn giáo . Còn dân chúng lao động suốt ngày  không có thì giờ rảnh để tới chùa, vã lại chỉ kiếm vừa đủ ăn, nếu không thiếu, lấy đâu mà cung cấp cho các chùa, các nhà thờ… cho nên chẳng cần phải cấm gắt gao, lần lần tôn giáo  nào cũng phải suy : chùa chiền , giáo đường cũng vắng hoe, tín đồ giảm đều đều ( Nguyễn Hiến Lê -1982,  ở sách đã kể trên ).
                 Nghệ thuật và văn chương thảy đều được xem là dụng cụ  đấu tranh giai cấp.  Thoạt tiên, khuynh hướng là vất bỏ mọi di sản quá khứ Tàu, xem chúng thuộc thời kỳ « phong kiến » và như vậy không có giá trị gì cả. Nhưng rồi  tái xét mau lẹ ngóc đầu dậy, và vài tác giả được tán thưởng, vì trong quá khứ họ đã đứng về phe nhân dân chống lại quan thầy.  Các lảnh đạo CCP  xem  công lao nghệ thuật  ít quan trọng, so với  tái  định hướng khẩn thiết cho toàn thể xã hội Tàu.
Lưu Thiếu Kỳ
        Khi tiến thêm vào thập niên 1950, chánh quyền đã có thể giảm bớt  áp lực làm khiếp sợ,  tăng thêm phương cách làm thuyết phục.  Vài điểm này sao chép lại từ Liên Bang Sô Viết ( Liên Xô )- Sôviet Union. Cộng Hòa Nhân Dân- PRC  không làm  thanh trừng toàn thể - whosale purges và  thanh toán, giết- liquidation  các khuôn mặt lảnh tụ  như ở chế độ Xít ta Lin - Stalin  ở Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết Nga - USSR . Nhưng những phương pháp thuyết phục đều gồm có  áp lực tâm lý trên cá nhân, CCP biện minh  là cần thiết, hầu khiến toàn thể tư tưởng nước Tàu quay đầu, thay đổi hẳn. Hệ thống tự kiểm thảo và  kiểm thảo  của người khác trong nhóm nhỏ, được chấp thuận làm tiêu chuẩn ở tiến trình  tái huấn luyện, trong đó hàng ngàn, rồi hàng triệu người phải tham gia. Họ phải tách rời khỏi gia đình, và xung quanh quen thuộc, họ phải đọc và nhớ đến  những bản văn như «  Cách nào  thành một Người Cọng sản Tốt - How to Be a Good Communist » của Lưu Thiếu Kỳ- Liu Shaoqi.  Học quá nhiều giờ  và công tác nặng nề  đem tới mệt mỏi, căng thẳng thần kinh, và không chắc chắn. Luôn luôn bị đe dọa bên cạnh là gửi đi  tiểu đoàn lao động  tại các trại lao động nô lệ - slave labor , khổ sai, cưỡng bách , như làm đường xe lữa Trùng Khánh- Thành Đô- Chongqing-Chengdu , tỉnh Tứ Xuyên. Nghiệp đoàn Lao Động Hoa kỳ ước lượng đến 2 triệu người chết trong 5 năm ở các trại này. Ngôn từ quá khích  khen ngợi hay trách cứ được sử dụng để tô điểm  hai mặt tranh đấu  cho « giải phóng - liberation » , theo hai màu sắc đen hay trắng mà thôi . Đời sống là nghiêm trang và hài hước là suy đồi. Yêu đương lãng mạn là dấu hiệu tinh thần tư sản.  Bạn bè và kẻ thù  phải phân biệt trên căn bản  giai cấp, nhưng bất cứ ai ở giai cấp nào cũng có thể trở thành một nhân dân -people bằng thay đổi tâm can  và chỉ nhân dân mới có uy quyền.  Thú tội phải viết đi viết lại  và đọc công khai trước công chúng, dân gian. Cảm tưởng tội lỗi,  xấu hổ  và « sĩ diện » là những linh kiện thao tác tẩy nảo - xi-nao ( brainwashing ). Câm lặng không phải là một bào chửa, và trước hay sau gì, mọi người cũng phải tham gia. Khi thú tội cuối cùng được chấp nhận,  cá nhân thấy  một cảm giác  to lớn  thoát hiểm và sạch tội lỗi. Họ được nhập vào «  giải phóng mới »  của phương cách đời sống  và phục vụ của người Cọng Sản Tàu cho dân gian.  Xúc động, tình cảm, dự tính cá nhân , thảy chỉ tìm thấy  trong cuộc chiến đấu  cho xã hội mới.  Những phương pháp  thuyết phục cường độ cao này rất hửu hiệu  nâng cấp cán bộ huấn luyện, thắng kẻ địch, trích chiết thú tội và thâu  đạt  kiểm soát những khối quần chúng . Nhưng năm 1953, đã thấy quá nhiều  thừa thải « nổ lực- drives »  và dưới khẩu hiệu  «  Năm Quá Nhiều - The Five Too Many », chúng bị giảm đi . Một chức quyền chuyễn vận xe lửa ở Thiên Tân -Tian jin  cho biết là ông đã phải  theo dõi  12 hội thảo trong 5 ngày , mỗi ngày 7 giờ đồng hồ.  
            Một cải cách tư tưởng quan trọng ngang cải cách điền địa  là luật hôn nhân ban hành tháng 4 năm 1950, không  chỉ giải thoát  cá nhân phụ nữ Tàu mà còn thay đổi hoàn toàn quan niệm  gia đình truyền thống, thay đổi  cả xã hội nữa. Vì theo Lê Ninh - Lenine  hể phụ nữ còn quanh quẩn trong nhà, lo những việc nhỏ mọn ( cơm nước, săn sóc chồng con, giặt giũ…) thì còn là nô lệ, phí  thì giờ, phí sức đi. Họ phải cùng đàn ông sản xuất cho xã hội thì  mới ngang hàng đàn ông được. Thật sự từ năm 1928, Quốc Dân Đảng Tàu cũng đã ban bố luật nam nữ bình đẳng, đàn bà được bầu cử, ứng cử vào nhiều viện, bỏ luật cũ về việc chồng được phép đuổi vợ, hễ trưởng thành thì có quyền kết hôn dù không được phép của cha mẹ … , nhưng luật đó chỉ được ban bố trên công báo, ở vài nhật báo, dân ít học không biết. Luật hôn nhân KMT chỉ liên quan đến cá nhân, không thành một chánh sách xã hội , nên thân phận của đa số phụ nữ Tàu vẫn không có gì thay đổi cả.   Công cuộc cọng sản  giải thoát phụ nữ làm cho số người lao động Trung Quốc tăng rất mau lẹ. Năm 1959, số phụ nữ lao động bằng 5/6 số đàn ông.  Kết quả như vậy là nhờ Cọng Sản  tổ chức cơ quan lo việc ăn uống, giữ trẻ, may vá cho phụ nữ. Lý thuyết như thế, nhưng thực sự thì  ông già bà cả  phải trông nom con cháu, không muốn gửi chúng vào nhà trẻ,  vì tính gia đình, truyền thống đạo Khổng vẫn còn mạnh. Theo luật hôn nhân cọng sản, chế độ một vợ một chồng là bắt buộc, vợ chồng hoàn toàn bình đẳng, ly dị dễ dàng ( về sau nhiều ly dị quá nên  chánh quyền tìm cách hạn chế ), trai gái được tự do kết hôn  do cơ quan nơi họ làm việc thu xếp cho, nhưng nhiều trường hợp  phải được cơ quan cho phép mới được kết hôn. Cán bộ , quân nhân  không được kết hôn  với người theo Thiên Chúa Giáo, Đạo Giáo. Lương phụ nữ ngang lương đàn ông. Cha mẹ chồng không có quyền gì với nàng dâu cả, mà ông bà cũng  không có quyền gì  với cháu nội. Mới đầu chánh quyền cọng sản  chưa hạn chế sinh đẻ ,vì nhà nước còn cần nhiều dân. Các hội phụ  nữ mọc ra như nấm, khắp nơi. Chánh quyền tuyên truyền rất mạnh cho đời sống mới của phụ nữ:  báo chí, tuồng hát, nghiệp đoàn, tổ chức thanh niên. Chưa bao giờ phụ nữ được đề cao như vậy.  Nhưng họ có sung sướng hơn trước không ? không ai biết  chắc được !              
                               
                                 
                             Triều Tiên  
                  
              Bổng nhiên năm 1950, chiến tranh bùng  nổ giữa  Bắc và Nam Triều Tiên ( Bắc Hàn và Nam Hàn ). Ngày nay gần như chắc chắn rằng Bắc Hàn ( Bắc Triều Tiên )  thấy quân Mỹ ở Nam Hàn ( Hàn Quốc , Nam Triều Tiên ) rút về nước gần hết  nên tấn công , sau khi hỏi ý kiến Nga, với khí giới Nga cung cấp,  chứ không phải do Trung Quốc chủ mưu.  Chiến tranh rất ác liệt. Quân Bắc Hàn chiếm Hán Thành - Seoul, thủ đô Nam Hàn .  Tướng Mac Athur  vội đem quân đổ bộ  ồ ạt lên  chiếm  lại Hán Thành.Tuy nhiên khi quân đội Liên Hiệp Quốc -United Nations ( phần lớn là quân lực Hoa Kỳ )  vượt vĩ tuyến thứ 38,  cuối năm 1950, Trung Quốc mới gửi 300 000 «  chí nguyện quân  - volunteers » , ngày đi đêm nghỉ, lén lút tiến trong rừng Bắc Triều Tiên, thình lình đánh Mỹ một trận tơi bời. Mỹ phải lùi về Nam, rồi Mac Arthur đem toàn lực  quyết chiến một trận, đẩy chí nguyện quân ra  khỏi Nam Triều Tiên.  Đánh nhau cù cưa , mãi đến tháng 7 năm 1953 mới ký hiệp ước ở Bàn Môn Điếm - Pan munjon. Chẳng có gì thay đổi: hai bên Nam Bắc trở về ranh giới cũ , dọc theo vĩ tuyến 38, Nga -Mỹ đã thương lượng cắt đôi Triều Tiên  ở hội nghị Postdam, năm 1945.  
Hội đàm Potsdam: tháng 7 1945 
từ trái sang phải:
Winston Churchill (Anh), Harry Truman (Mỹ), và Joseph Stalin (Sô Viết).
 
Theo Fairbank, Hoa Kỳ tổn thất 142 000  người, Nam Hàn  300 000, Bắc Hàn 520 000, Trung Quốc có thể tới 900 000. Dù rằng trận đánh Tàu - Mỹ hòa nhau, hưu chiến  năm 1951, Trung Quốc cho là mình thắng trận . Dân Tàu yêu nước, đặc biệt  giới trí thức tự do - liberal intellectuals, có  ấn tượng lớn về  hiệu năng của xứ sở. Triều Tiên, theo truyền thống là cửa sau nguy hiểm để vào Trung Quốc  và đây là lần đầu tiên  ở thời cận đại, Tàu đã đủ khả năng chống trả những nước ngoài  phải ngưng chiến và chận đứng họ tiến về phía Mãn Châu,  một vùng chứa nhiều tài nguyên giá trị  và tương đối  có công nghệ cận đại  của Trung Quốc. Có lẽ nên nhắc lại là tiểu đoàn kỵ binh ( ? ) Pháp tinh nhuệ  tham gia  chiến trận Triều Tiên, đưa sang Việt Nam năm 1953, khinh địch, bị Việt Minh đánh tan tành ở đường đèo nhỏ hẹp ( sau đó quân đội Hoa Kỳ và hảng thầu RMK mở rộng  thành xa lộ  thênh thang từ Qui Nhơn lên Pleiku ) Mang Giang -An Khê, giữa hai tỉnh Bình Định và Pleiku.  Cũng trong năm 1950, lúc Trung Quốc đem quân giúp đở bảo vệ Bắc Triều Tiên, quân đội Tàu được gửi đến Tây Tạng- Tibet  và sau  12 tháng đã « giải phóng » Tây Tạng, một xứ  có nhiều liên hệ mật thiết với Trung Quốc , nhưng dân Tây Tạng rất thâm hận  về sự can thiệp này.

                                   Hiến Pháp

Hiến Pháp 1954
            Quốc hội họp Đại hội Toàn quốc  năm 1954, gồm 1226 đại biểu  toàn quốc ( 25 tỉnh , 18 tỉnh Trung Quốc và các tỉnh Nội Mông tự trị, Tây Tạng … )  có cả  đại biểu các dân tộc thiểu số, đại biểu Hoa kiều hải ngoại nữa. Họ họp để phê chuẩn hiến pháp.  Có lẽ hiến pháp năm 1954 là hiến pháp Tàu thứ 10 từ năm 1911,  nhưng các hiến pháp trước chỉ có trên giấy tờ, không được thì hành, hoặc thi hành một thời gian ngắn, không được dân gian thừa nhận.  Đảng Cọng Sản CCP  cho rằng chỉ có hiến Pháp 1954 của họ là quan trọng nhất, là hiến pháp  được «  toàn dân chấp nhận »( ? ). Hiến Pháp năm 1954 không thay đổi căn bản các xếp đặt hiện hửu, nhưng tăng cường  uy quyền các cơ quan trung ương . Chỉ có một đảng là đảng Cọng sản được cầm quyền, các đảng  khác như Quốc Dân Đảng, Dân chủ Đảng có danh mà không có thực ; không có đảng đối lập.   6 Cục - bureau miền bị giải tán, nhưng tái lập năm 1960. Đại hội Toàn quốc được bầu trong kỳ hạn 5 năm và theo lý thuyết  mỗi năm họp một lần, để quyết định chánh sách đường lối của Đảng.   Đại hội bầu Ủy ban Trung Ương - Central Committee cũng trong 5 năm , gồm 98 ủy viên chánh thức ( năm 1962 là 187)  và một số dự khuyết . Ủy ban Trung Ương lại bầu « Bộ Chánh trị - Politburo »  gồm 19 ủy viên  ( năm 1962 là  25). Bộ Chánh trị  quyết định hoạt động của đảng và đời sống của toàn quốc.  Bộ lại cử ra 7 ủy viên đứng đầu vào Ủy ban Thường trực -  Standing Committee của họ,  Họ có quyền tối cao. Ở cấp tỉnh , huyện,  các hội nghị và ủy ban cũng tổ chức như trung ương . Trên nguyên tắc «  dân chủ trung ương  - democratic centralism »,  đại hội - quốc hội  được  bầu ở  cấp địa phương,  rồi  các người đắc cử  bầu cho một số đại biểu vào đại hội cấp cao hơn.  Như thế,  hệ thống có vẽ  là đại diện  dân, dân chủ từ dưới lên trên . Nhưng chánh sách lại  từ trên xuống dưới - trung ương hóa ( centralism).   Có thể bàn cải về chánh sách,  nhưng không thể sửa đổi chánh sách.  
Quốc hội cho ai đang cai trị  một cảm gíác «  hiểu » dư luận quần chúng và chuyễn những yêu cầu và mục đích  của trung ương cho địa phương thi hành.  Cho nên những năm đầu, rất nhiều sáng kiến và cảm tưởng tham gia thật là mới mẽ đối với dân gian Tàu, được phát triễn ở  cấp cơ sở làng xã.  Điểm sau đây rất quan trọng: các tổ chức  của Đảng chỉ huy các tổ chức quốc gia , từ trên xuống dưới . Chủ tịch hội đồng Quốc gia  ( tức như tổng thống ở Hoa Kỳ, ở Pháp) , chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ( tức như thủ tướng)  phải theo lệnh  của Ủy Ban  trung ương Đảng ,của bí thư Đảng . Ở tỉnh, huyện,  ủy ban hành chánh  phải theo lệnh của bí thư đảng bộ tỉnh hay huyện. Đảng và chánh quyền móc nối nhau rất chặc chẻ. Thảy đều bị một nhóm người chỉ huy. Về phía Đảng, nhóm người này nắm hết các chức chủ tịch Đại hội đảng, Ủy ban Trung ương, Bộ chánh trị.  Còn về phía chánh quyền  thì nắm hết các chức chủ tịch, phó chủ tịch ,hội đồng Quốc gia, hội đồng Bộ trưởng, Quốc hội, Hội đồng Quốc phòng v.v… Ở cấp dưới cũng vậy:  một đảng viên  vừa làm thư ký đảng, vừa là  chủ tịch ủy ban nhân dân, vừa làm tư lệnh quân khu …Tổ chức này y hệt Liên Xô ( Nga ).Việt Nam cũng  tổ chức như vậy .  Trung Quốc khác Liên Xô - Liên bang Sô Viết, ở điểm có một chủ tịch Hội đồng quốc gia ( như tổng thống  các nước Tây Phương ) và không có chế độ Liên bang. Để động viên mọi năng lực quốc gia,  chỉ dẫn tư tưởng và hành động dân gian, CCP tổ chức  đại trà nhưng đoàn thể  cho Phụ nữ , cho Thanh niên, hợp tác xã công nhân …  Liên đòan  Thanh niên Dân chủ Mới ( cọng sản ), năm 1954, đã có  12 triệu thành viên  tuổi từ  14 đến 25, và Đoàn Thiếu niên Tiền phong- Children ‘s Pioneer  Corps  có 8 triệu thành viên, tuổi từ 8 đến 14.  Thiếu niên được dạy dỗ là phải « Năm Thương Yêu - Five Love » :  yêu đất nước, dân gian, lao động , khoa học và tài sản công cọng.  Lưu ý là  trong  danh sách, không nói đến thương yêu cha mẹ . Không phải ai cũng được vào đảng Cọng Sản CCP.  Năm 1921, CCP  chỉ có 57 đảng viên, năm 1945 có 1 211 000, năm 1949 có 4 488 000, năm 1961 có 17 000 000, năm  1989 có 48 000 000 và năm 2003  có 66 000 000 .                                                                      
              Cọng sản có mục đích diệt tất cả các giai cấp thù địch ; khi diệt  xong thì  trong xã hội chỉ còn con người cọng sản. Nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn còn nhiều cấp bậc- giai cấp , theo nguyên tắc  làm theo khả năng  mà hưởng theo công việc mình, quan trọng nhiều hay ít, theo sức mình làm được nhiều hay ít, nghĩa là chưa có bình đẳng , còn kém xa nguyên tắc bình đẳng áp dụng  ở Israel của  các tổ chửc kibbutz, moshav. Trung Quốc có 7  cấp bậc cao ( trên cùng là Bộ Chánh trị ), mỗi cấp còn chia ra là 2 - 3 bậc hay hơn nữa, đãi ngộ khác nhau, quyền lợi khác nhau về lương bổng, nhà cửa, nhu yếu phẩm, y phục, thuốc thang … Theo sách Tả truyện  Thời Xuân Thu Chiến Quốc ( thế kỷ  thứ 4 trước CN), Trung Quốc chỉ có 10 giai cấp, nhưng từ năm 1956, lại có đến  30 giai cấp,  có những đặc quyền riêng ( Simon Leys , Ombres Chinoises , Paris - 1977 ) 

                                 Kinh tế

                Khi mới nắm quyền , Chánh phủ Cọng sản Trung Quốc quyết tâm giải quyết vấn đề lạm phát,  kiểm soát tất cả mọi ngân hàng  và hệ thống tín dụng, thiết lập  6 tổ hợp thương mãi quốc gia - national trading corporations để hạ giá cho người tiêu thụ  và cải thiện nhiều hửu  hiệu thu thuế khóa.  Thành quả  lớn của một chánh phủ đầy nghị lực  và ổn định  là  năng  xuất dân gian tăng mạnh.  Thế nhưng chánh phủ lúc bấy giờ cũng sử dụng nhiều biện pháp  khắc khe, tỉ như phạt nặng, cho vay bắt buộc, bán công khố phiếu dưới áp lực. Nhờ vậy giữa năm 1950, lạm phát không còn đe dọa nữa.
               Thập niên 1950 đã tỏ ra khẩn thiết cho một Trung Quốc mới trỗi dậy.  Luôn luôn phải đối đầu với nhiều vấn đề. Vài vấn đề do thiên nhiên gây ra, như lụt lội  và mùa màng thất bát các năm 1953- 1954. Nhưng vài vấn đề khác do quá táo bạo hay do qui họach yếu kém, tỉ như «  Bước Nhảy Vọt - Great Leap Forward ». Nhưng khi thập niên 1950 chấm dứt, nông nghiệp và công nghệ Trung Quốc tựu trung tiến bộ đáng kinh ngạc . 
  
-          Kế họach Ngũ niên Thứ nhất
Để trả nợ Nga ( viện trợ Nga không cho không ) rất lợi lộc cho Trung Quốc,  và để  tài trợ thiết lập công nghệ nặng, Trung Quốc đã làm những gì Nhật bổn đã làm 100 năm trước. Lời lãi tối đa  trích chiết, rút ra từ  nguồn căn bản là nông nghiêp. Đảng CCP quyết định, khác hẳn các chính khách thời Minh Trị Thiên Hoàng là làm tập thể - collectivisation đất nông nghiệp, nhưng từng bước một, hầu tránh  kinh nghiệm  đau thương thất bại nảo nề  ở công cuộc tập thể hóa nông nghiệp Liên Xô.  Bước đầu tiên là  khuyến khích  những tổ đổi công ( kíp tương trợ ) mutual aid teams, trong đó  mọi nông cụ, vật nuôi, lao động được góp chung lại. Sau đó mới lập những hợp tác xã- cooperatives , mua đất nông dân vừa được làm chủ  mới gần đây. Hợp tác xã bán hay cho vay hột giống, mua mùa màng thu hoạch, định giá bán, bán phân bón  và kiểm soát  toàn diện tiến trình  nông nghiệp. Việc này giúp cho chánh phủ sử dụng thêm nhiều ngũ cốc - grains.  Chánh sách được ban hành năm 1953 và đa số cán bộ được dùng để thực thi chánh sách.  Đến tháng 5 năm 1956, 90 % nông dân đều đã vào hợp tác xã .       
                    Một tiến trình tương tự cũng xảy ra cho công nghệ.  Đến tháng 10 năm 1952,  quốc hửu hóa - nationalization đã nới rộng  đến 80 % công nghệ nặng, và 40% ở công nghệ nhẹ. Chánh phủ đã làm chủ và hoạt động trên mọi đường xe lữa  và 60%  tàu chạy hơi nước ở Trung Quốc ;  kiểm soát  90% món nợ cho vay  và tiền gửi qua các Ngân hàng Nhân dân. Cuối cùng các công ty  thương mãi quốc doanh có trách nhiệm  khoảng 90 %  xuất nhập khẩu, 50% bán sĩ và 30% bán lẽ. Kế hoạch ngũ niên 1953 -57 chấm dứt kết quả mỹ mãn, vượt mọi chỉ tiêu . Nhưng dân gian , dân chúng rất phẩn uất,  đặc biệt là nông dân ( theo Guillermaz , La Chine populaire , PUF - 1967 ).Vì nông dân , Nga , Trung Quốc , Đông Tây gì cũng vậy, vẫn thích làm chủ miếng đất  của mình ( tuy chánh phủ cho họ vài trăm thước vuông, tự ý trồng trọt, nhưng chỉ cho giữ thôi, không được làm chủ ) ; họ mất tự do , một hợp tác xã điển hình khoảng 20 người, theo R. Levy - La Chine - 1964  có nhiều đàn bà hơn đàn ông, lom khom làm việc trong khi cán bộ  vác súng đi đi lại lại, canh chừng họ: cán bộ thi hành chỉ thị chánh quyền không đúng, thiên vị, tham nhũng,  hách dịch, ngồi không mà hưởng nhiều hơn … Bất bình lắm, nhưng không  phát ra một cuộc nổi loạn nào cả. Không biết có đúng như lời Guillermaz không :  nông dân hy vọng ở một tương lai dù không mấy  tốt đẹp , thì ít nhất cũng được bảo đảm khỏi chết đói, được an ủi vì còn giữ được miếng vườn mấy trăm thước vuông, hay là vì họ còn nhớ vụ khủng bố năm 1951 ?

                         Kế họach  Bước Nhảy Vọt

                  Năm 1956, chánh quyền tự tin là dân gian đã chấp nhận chánh quyền mới,  và mong muốn cải thiện thêm hiệu xuất,  mời  các  giới trí thức Tàu chỉ trích thư lại và cán bộ. Dưới ngôn từ “trăm hoa đua nở -  let a hundred flowers bloom together”  có từ đời Hán “ bách khoa tề phong , bách gia tranh minh ”. Dân gian  nhao nhao lên đã kích cán bộ, đảng viên tố cáo những  tinh thần quan liêu, đảng phái, theo giáo lý chủ nghĩa. Các cơ quan gần như không làm gì được nữa, nghi kỵ nhau rình rập nhau. Mao biết rằng mình hớ .Tháng 5 năm 1957, các nhà chỉ trích bị đàn áp khủng khiếp, vì không ai có thể đặt  lại vấn đề cho uy quyền  của đảng CCP và  giá trị các mục đích của đảng . Khởi đầu một chiến dịch  “Chống Hửu Khuynh- Anti Rightists Campaign” , trong đó hàng trăm ngàn trí thức - lảnh đạo chánh trị , nhà văn, nhạc sĩ , học giả - đều bị đàn áp. 
phong trào chống hữu khuynh
Trong 3 tháng liền , từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1957,  các nhà văn họp tới 27 phiên để  vạch tội bọn nhà văn  xuyên tạc phương châm “ Trăm hoa đua nở”. Đinh Linh với chồng là Trần Minh, Phùng Tuyết Phong… và “ bè phái của họ”  bị kết tội là chống Đảng chống chủ nghĩa xã hội , muốn truất quyền lảnh đạo của Đảng ! Nhóm Đinh Linh, Trần Xí Hà bị trục xuất khỏi đảng, truất quyền công dân, truất luôn cả tác quyền , không còn quyền cầm bút nữa. Mọi  chỉ trích đảng đều bị dập tắt -câm lặng  và từ nay không còn có ai  nói lên tệ hại quá đáng của “ Bước Nhảy Vọt”   hay” Cách Mạng Văn Hóa” nữa .  Ở Việt Nam là mối oan khúc của các nhà văn “Giai Phẩm Nhân Văn” và một số trí thức  cấp tiến đào tạo ở Pháp hay thời Pháp thuộc, đã tham gia nhiệt thành kháng chiến chống Pháp thực dân muốn trở lại Đông Pháp.                   
    
              Chu Ân Lai trong kế hoạch thứ nhì 1958- 1962 đã vạch ra từ tháng 9 năm 1956 là trong 5 năm cũng phải tăng mức xản xuất  công nghệ lên gấp đôi, kỷ nghệ nặng vẫn là quan trọng nhất , nhưng công nghệ nhẹ phải phát triễn mạnh hơn . Lại kềm thêm một kế hoạch  phát triễn Canh Nông trong 12 năm ( 1956- 1967 ). Nhưng Mao nóng ruột, cho là chậm quá.  Ông tung ra Kế hoạch Nhảy Vọt, tuyên bố là sẽ vượt qua vương quốc Anh về sản xuất thép trong 15 năm  và muốn giải quyết  vấn đề lương thực cho 500 triệu dân Trung Quốc ( mỗi năm  tăng trung bình  3% nghĩa là 15 triệu nữa ).  Mao bắt mỗi xã phải có một lò nấu thép nhỏ  dùng  nông dân và  phương tiện cỗ lỗ sỉ trong xã.  Như  vậy  nông dân vừa làm ruộng, vừa làm thợ và theo Mao không còn  sự cách biệt giữa hai cấp đó nữa.  Bất kỳ cái gì cũng đút vào lò nấu, xoay sở cách nào tùy ý.  Sắt thép nấu xấu như vậy không quan trọng, miễn là cuối năm đạt được mức ấn định. Nếu không đạt được thì cứ báo cáo láo, vì thống kê  do cán bộ trong xã làm.  Chẳng hạn năm 1957, Đảng báo cáo là  đạt 185 triệu tấn lúa , năm 1958 gần gấp hai năm trước ,357 triệu tấn, nhưng sự thật năm 1958 chỉ có 250 triệu tấn.  Vào thập niên 1980, và đầu thập niên 1990, Việt Nam cũng báo cáo láo tương tự, có  tỉnh báo cáo là làm ra trung bình 15-20 tấn một mùa vụ, cao hơn cả năng xuất lúa lúc đó ở bang Ca Li, Hoa Kỳ,khiến  cho dân gian thị thành thiếu gạo ăn, phải ăn bo bo- lúa miến ( sorghum, loại cho súc vật ăn ) thay thế ! Kết quả là các lò luyện sắt làng xã  công lao của  90 triệu bàn tay nông dân chỉ tạo ra rất nhiều sắt vụn , không dùng được vào việc gì cả.
          Đồng thời, Mao  bắt nhiều hợp tác xã hợp nhau lại thành  một “công xã nhân dân- communes populaires ” vĩ đại. Trung Quốc cọng sản Mao tạo ra cả thảy 20 000 công xã nhân dân , trung bình mỗi công xã có 5000 hộ gia đình , chừng  4500 ha ( mẩu tây ). Mỗi công xã là một đơn vị tự túc, có giáo dục công nghệ riêng , và những chức năng của một chánh quyền địa phương.  Đàn ông, đàn bà  ở nhiều công xã ngũ các phòng riêng biệt ở nhà tập thể, có nhà ăn tập thể, có nhà trẻ gửi con. Theo lý thuyết, thì họ cần gì công xã cung cấp cho hết: bước đầu  tiến tới cọng sản thực sự. Miếng đất tư  trồng rau đậu , trồng cây trái, trồng dâu tằm…  nay đều bị xóa bỏ hết.
          Thời tiết và mùa màng tốt đẹp năm 1958, tưởng là sẽ giúp những kế hoạch mới của Mao  thành công mỹ mãn. Nhưng nông dân  bắt đầu kháng cự lại chế độ đời sống hòan toàn như quân đội này ,khi họ nhận thức là phải bỏ công cuộc đồng áng để tham gia điên cuồng  việc sản xuất  như thợ thuyền.  Nhiều  nông thôn  trong xứ thiếu thực phẩm  nghiêm trọng. Chống đối nổi lên ngay trong đảng . Ở  hội nghị Lư sơn - Lushan ( Giang Tây)  mùa hè năm 1959, Bành Đức Hoài - Peng Dehuai, bộ trưởng quốc phòng, đưa ra một bức thơ  chỉ trích bước nhảy vọt và chế độ công xã nhân dân  là “ hăng say tiểu tư sản, chủ quan, dân chúng chịu không nổi” .  Mao phản công kịch liệt. Hai tháng sau , Bành  bị tố cáo là “Bè lũ chống Đảng - Anti party clique” phải viết tự thú với Đảng là lầm lỗi , mất chức (  Lâm Bưu - Lin Biao thay thế  Bành làm bộ trưởng quốc phòng), phải rời Bắc Kinh vào một công xã nhân dân để cải tạo tư tưởng. Chương trình tai họa của Mao còn tiếp tục thêm một năm nữa.
        Hậu quả Bước Nhảy Vọt  gồm 3 năm thất bát mùa màng  và một thời  đói kém, ước luợng  có đến 32 triệu người chết ở Trung Quốc . Mao từ chức chủ tịch Nhà nước ( tổng thống ).  Quốc hội bầu Lưu Thiếu Kỳ-  Liu Shaoqi lên thay. Mao vẫn giữ chức chủ tịch Đảng. Các mục tiêu công nghệ  hạ xuống thấp hơn và ban lảnh đạo Trung Quốc phát triễn một lề lối  thận trọng, thực tế hơn.  Công xã vẫn còn là  một đơn  vị  nông thôn chánh, nhưng phân chia ra thành những đội - brigades hay nhóm - teams sản xuất. Nhóm trở lại kích thước làng xưa, thân thuộc và dễ xử lý hơn . Đời sống gia đình- hộ được tái lập, miếng đất tư trả lại cho nông dân và  yêu cầu của nông nghiệp được chú tâm hơn.
 
                      Ngoại giao

                  Nhà lảnh đạo nhiều năm , gần như  chuyên viên Ngoại giao duy nhất Trung Quốc là Chu Ân Lai. Chu nhìn thấy là Phi Châu đã “chín mùi cách mạng”  và viếng thăm Phi Châu ít nhất là 8 lần. Vài cố gắng can thiệp  vào các quốc gia mới Phi Châu  không thành công. Nkrumah của nước Ghana ( thuộc địa Gold Coast cũ của Anh) bị đuổi ra khỏi nước là một thất bại lớn cho sự nghiệp Cọng sản Tàu.  Nhưng viện trợ cho Tanzania   làm đường xe lữa từ bờ biển vào sâu nội địa, liên hệ thân thiện của chuyên viên  và nhân công Tàu,  đã gây ra một ấn tượng  mạnh mẽ khắp Phi Châu. Nhiều cố gắng lớn lao hầu lan tràn  ý thức cọng sản ở giới Hoa kiều đông đúc và trên dân gian tại Inđônexia ( Nam Dương Quần Đảo ). Nhưng đảo chánh dự trù  bị quân đội Inđônêxia đàn áp tàn nhẫn vì họ là Hồi giáo và chống Cọng.  Tuy nhiên kể từ thập niên 1960, Trung Quốc đã có vài thành công đáng kể  trên những cố gắng  biểu hiện Trung Quốc  là chiến sĩ  cho các nước thế giới thứ ba và là một gương sáng  về cách nào trổi dậy thành một cường quốc, từ một vị trí thuộc địa và chậm tiến.          
 
B-    Cách Mạng Văn hóa và Hậu quả ( 1966- 1978 )

Sự cố chánh vào thập niên 1960 ở Trung Quốc là cuộc Cách mạng Văn hóa - Cultural Revolution.  
Mao chịu nhận rằng Bước Nhảy vọt và Công xã Nhân dân của ông đã thất bại, thống kê của cán bộ công xã đều láo khoét; cán bộ đã hủ hóa, sống mấy năm sung sướng trong hòa bình, mất tinh thần cách mạng năm 1935 ( vụ Trường Hành ), thành một bọn công chức tiểu tư sản, sợ khó nhọc, biếng nhác… nên  phải làm lại cách mạng, đưa hết bọn cán bộ, trí thức học sinh ở thành thị về nông thôn sống với dân quê, vào trong các nhà máy sống với thợ thuyền, lao động cực khổ để cho tinh thần cách mạng của họ phục hồi lại …Họ phải có tinh thần chịu nghèo, thích nghèo , thích làm công việc tay chân không thèm dùng máy móc của bọn tư sản,  không chuyên môn hóa ( “hồng hơn chuyên”), luôn luôn chống lại bọn  thư lại, tiểu tư sản. Thay đổi toàn thể một nền văn hóa, biến nó thành một thứ văn hóa bần cố nông , thợ thuyền , lao động , vô sản. Mao dùng từ văn hóa theo nghĩa Cọng sản là thay đổi mọi giá trị của xã hội . Cách mạng Văn hóa đã làm lung lay nền tảng  Đảng và cả nước Trung Quốc, đóng cửa trường học và các viện đại học, giảm các sản xuất, và đóng cửa hầu hết các hoạt động ngoại giao. Độc địa và khủng khiếp nhất vào 2 năm đầu tiên, 1966 và 1968.  Mao tuồng như nghĩ rằng  cách mạng này đáng giá trên phương diện tư tưởng, dù có một thời kỳ  cách mạng đã tuột khỏi tầm tay, không còn kiểm soát được nữa. Tuy nhiên, những giá trị căn bản của Cách Mạng Văn hóa vẫn vững chắc, mãi cho đến  khi Mao chết năm 1976. Đảng CCP  sau này  định giá lại và cho đó là một tai họa .
Những năm 1960- 62 uy quyền  của Mao xuống thấp nhất. Nhưng  mùa thu năm 1962 , lấy tư cách là  chủ tịch Đảng, mặc dầu vô quyền,  ở phong trào Giáo dục xã hội chủ nghĩa ,  Mao đọc một bài diễn văn  bảo phải đào tạo lại thanh niên, phải ngăn chặn sự tiêu cực của cán bộ nông thôn, coi chừng bản năng tư sản của nông dân  lại nổi dậy,  phải xét lại vấn đề văn hóa mà bọn trí thức đương nắm độc quyền để phản lại xã hội chủ nghĩa và phục hưng lại chế độ tư bản. Không mấy ai nghe ông cả. Mao kết luận là Lưu Thiếu Kỳ và  phe bảo thủ đang cố tâm cản trở những chánh sách của ông .
Hồng vệ binh
Năm 1965, căng thẳng tăng gia giữa nhóm Mao và  tổ chức đảng CCP. Trong sự đối đầu đang bừng dậy,  Mao được sự ủng hộ của  Quân đội Nhân dân - PLA mà Lâm Bưu đang chánh trị hóa, sử dụng  một tập “sách đỏ nhỏ - a little red book” trích dẫn  lời viết tư tưởng Mao. ( vài năm sau, có đến  hàng trăm triệu sách đỏ, có người nói là 750 triệu cuốn, không tiền khoáng hậu trong lịch sử ấn hành nhân loại ). Tháng 5 năm 1966  Mao đã thành công  cô lập Lưu Thiếu Kỳ  và các đối thủ khác trong Đảng. Mao ra lệnh cho Lâm Bưu là một cuộc đảo chánh, chiếm Bắc  Kinh năm 1966. Mao và Lâm làm chủ Bắc Kinh rồi, còn phải chiếm các tỉnh nữa. Mao biết rằng Đảng ở địa phương, nếu không theo Lưu Thiếu Kỳ thì cũng không chịu để cho  quân đội nghe Lâm Bưu mà diệt Đảng, phải dùng một lực lượng khác.  Ông ta có một sáng kiến lạ lùng , một thuật  thần sầu quỉ khốc: dùng thanh niên , sinh viên nổi loạn, tức là  Vệ Binh Đỏ ( Hồng Vệ Binh ) - Red Guards để thanh trừng  những ai ở Đảng  “ theo con đường tư bản “. Ngày 18 tháng 8 năm 1966, một triệu  Vệ Binh Đỏ, nhiều Vệ Binh Đỏ chỉ 15- 16 tuổi, tập hợp ở quảng trường Thiên An Môn - Bắc Kinh để tỏ lòng trung thành với Mao,  phải học thuộc tập Sách Đỏ ( chỉ bằng bàn tay , bỏ túi được), rồi chia nhau  thành đoàn đi khắp các tỉnh , vênh váo ra lệnh cho người lớn, dạy bảo hạng người bằng tuổi cha ông chúng.
Tháng 9 năm 1966, phong trào trở nên hung dữ hơn. Vệ Binh Đỏ tin vào khẩu hiệu của Mao “ Nổi loạn là Đúng ”  xông vào nhà, thấy sách là đốt,  phá hủy áo quần kiểu Tây Phương, đồ cỗ, tranh cỗ. Chúng đập phá chùa, đền thờ, dinh thự, tượng… khắp Trung Quốc, chẳng hạn những tượng Phật tráng lệ  ở  các hang động gần Lạc Dương. Mọi liên lạc  với giáo dục Tây phương, doanh nhân Tây phương, giáo sĩ Tây phương, thảy là quá đầy đủ để gây ra nghi ngờ. Hàng ngàn học giả  và chuyên gia bị đánh đập đến chết. Một số nhà văn bị nhục phải tự tử như Lảo Xá , hoặc phải trốn ra nước ngoài. Hàng ngàn người khác bị tù tội nhiều năm, bị giam hảm. Đa số phải tự phê như Quách Mạt Nhược, năm đó đã 70 tuổi. Quách là viện trưởng viện Khoa học  nổi tiếng khắp thế giới, còn bị vệ binh đỏ cho là ngôn ngoại của “ quân chủ bại”   là “tên văn sĩ phản động con đẻ của  gia đình phong kiến”. Đinh Linh , Mao Thuẩn - Maozun ( bộ trưởng văn hóa ) đâu được tha.  Chu Dương -Zhou Yang  từ trước  vẫn là  phát ngôn viên của Đảng về văn hóa, cũng bị kết tội là  mê say văn nghệ  tư sản thế kỷ thứ 19, là phản cách mạng, đề cao Krutchev, là “cáo già , chó sói rắn độc”( K.S. Carol , La Chine de Mao , nhà xuất bản Laffont - 1966 ). Một nhà báo Tây phương ví Mao với  Tần Thủy Hoàng. Mao đáp : “Tần Thủy Hoàng chỉ giết có  460 kẻ sĩ .Còn tôi , tôi đã giết  46 000 trí thức, tôi hơn Thủy Hoàng cả trăm lần chớ !”
Những Trường Cán bộ mồng 7 tháng 5, thật sự là những trại lao động khổ sai, bắt buộc hàng triệu dân Trung Quốc  phải làm công việc đồng áng nặng nề, ăn uống kham khổ thiếu thốn, luôn luôn phải học công trình của Mao, luôn luôn phải tự xét hay thú tội. Ở thành phố Thiên Tân, hơn 40 000 học sinh và trên 10 000 sinh viên đại học phải về nông thôn. Nhưng tỉnh Giang Tây  mới đáng làm kiểu mẩu: trên 720 000 người ( 130 000 cán bộ, giáo viên, y sĩ  về nông thôn ), chia ra làm  12 000 đội sản xuất như nông dân. Các nhân viên hành chánh giảm xuống chỉ còn 1/5,  4/5 về nông thôn. Thật là một phong trào di cư vĩ đại. Chỉ khổ các công xã nhân dân phải nuôi họ, kiếm chỗ ở, việc làm cho họ.
  Càng ngày, Vệ Binh Đỏ càng phân chia ra làm  nhiều bè phái tư tưởng, xé tan những áp phích của nhau; mỗi bè phái tự cho mình  mới thật  đúng tư tưởng Mao.  Thái độ cực đoan này  được xem  là  những thất vọng chán nãn và cảm giác nổi bất lực của họ, xây đắp sau nhiều năm bị kiềm chế, cản ngăn không được tiếp xúc với phái tinh đối ngược, bó buộc nuôi dưỡng một nền giáo dục gồm học tuyên truyền và cỗ võ sự cần thiết hy sinh cho cách mạng.  
Ngày 22 tháng 9 năm 1966, 17 thành viên của Ủy Ban Cách Mạng Văn hóa Trung Ương được thiết lập; thư ký của Mao là Trần Bá Đạt- Chen Boda làm chủ tịch  và Giang Thanh- Jiang Qing, vợ Mao thứ tư làm  nữ phó chủ tịch. Ủy ban này cọng thêm  quân đội nhân dân dưới quyền Lâm Bưu và Hội đồng Quốc Gia - State Council  dưới quyền  Chu Ân Lai, trở thành chức quyền  kiểm soát, dưới  sự hướng dẫn của Mao. Lúc này phong trào  đã lan rộng từ sinh viên đến công nhân. Công nhân trẻ tuổi khởi sự thành lập những nhóm Cách Mạng Văn Hóa, đặc biệt ở Thượng Hải. Nơi đây vào tháng 2 năm 1967, một liên  minh cấp tiến(? ) công nhân đã thành lập “ Công xã Thượng Hải - Shang-hai Commune”  và bó buộc lảnh đạo Đảng phải từ chức.  Hổn độn  tăng thêm khắp nước.  Các nhà lảnh đạo chánh trị và trí thức bị đẩy vào những “phiên họp đấu tranh - struggle sessions” , bắt đi diễn hành  khắp  phố xá, đội mũ giấy và bị tra tấn trên sân khấu, giữa la ó  buộc tội của dân gian, quần chúng .
Sau hơn một năm Cách Mạng Văn hóa, Trung Quốc vẫn còn ở tình trạng nhiễu loạn.  Tháng 9 năm 1967, có báo cáo là các bè phái đang xung đột  nhau ở nhiều tỉnh, đặc biệt ở  Quảng Đông,  Qúy Châu - Guizhou,  Triết Giang - Zhejiang ,  Vân Nam - Yunnan , Giang Tô - Jiangsu, Hồ Nam - Hunan, Hà Nam - HenanSơn Đông- Shandong .  Liên lạc ngoại giao Trung Quốc đau khổ vì Vệ Binh Đỏ tấn công các tòa đại sứ. Khi các nhà ngoại giao Nga bị quấy rối và bị trói tay ở Bắc Kinh, Nga đáp lại bằng  dàn trải nhiều sư đoàn  quân đội dọc theo biên giới hai nước. Khi các bè phái tư tưởng phân lìa, Mao hối tiếc  tin tưởng của ông trước đây vào sinh viên; ông đòi hỏi  sinh viên phải kỷ luật hơn. Mao được quân đội giúp đở, nhờ đa số quân nhân do ông và nhóm cấp tiến của ông kiểm soát.
 Mùa hè năm 1968, PLA  cương quyết  tái lập trật tự, khi bạo lực cháy bừng một lần nữa. Chu Ân Lai cố tranh đấu đề xướng thành lập những Ủy ban Cách Mạng ba nhập thành một , trong đó đại diện PLA , cán bộ  “ Cách mạng”  đảng ,  và đại diện khối quần chúng “ cách mạng”, hoạt động chung sức quản trị  các đơn vị chánh phủ  và cơ chế  khắp Trung Quốc. Xuyên qua các Ủy ban này,  một cơ cấu mới  dần dần trổi dậy, duy trì những giá trị Mao.  Đại Hội Đảng thứ 9, hoản lại đã lâu, khai mạc tháng 9 năm 1969, tái xác định tư tưởng Mao  làm  chánh sách hướng dẫn,  buộc tội Lưu Thiếu Kỳ  đã “vào con đường tư bản” và xác định Lâm Bưu  kế vị Mao. Một thúc đẩy chánh phủ chỉ huy  được tung ra để mở cửa lại  mọi trường học và  dập tắt bè phái. Tuy nhiên các viện đại học  chỉ mở cửa lại được vào tháng 9 năm 1970, sau 4 năm, khiến cho  nhiều thanh niên không có đại học. Một chiến dịch đưa  các “ thanh niên có giáo dục” ra khỏi thành thị, giúp chấm dứt hoạt động bạo lực của chúng.  Đến cuối năm 1972,  khoảng 7 triệu  người được đưa về nông thôn  để “ cải tạo ” ,  nhiều người phải sống nhiều năm với nông dân.
                Tháng 10 năm 1968, trong một buổi họp  của Ủy ban Trung ương đảng, Mao làm chủ tịch, toàn thể đồng lòng đuổi vĩnh viễn  tên “ phản động”   Lưu Thiếu Kỳ  ra khỏi đảng, tước hết các chức vụ  của Lưu ở trong và ở ngoài đảng, bỏ tù Lưu và sau đó Lưu  chết thê thảm trong ngục năm 1969, vì bị hành hạ tàn nhẫn, không được săn sóc gì cả, vợ con cũng không hay gì cả. Sau khi chết, năm 1980, Đảng  phục hồi lại danh dự cho Lưu.  Qua đầu năm sau, tới phiên Đặng Tiểu Bình- Deng Xiaoping, tổng thư ký đảng, vì Đặng Tiểu Bình thời trước có đề nghị  hợp với đường lối của Lenine , khuyên phải học bọn tư bản và trí thức, ít nhất là trong buổi đầu. 
Đặng Tiểu Bình
Năm 1962, Đặng chỉ trích Mao là đã làm “ dân chúng thiếu ăn, thiếu mặc;Trung Quốc quá tự  tin, lừa gạt nhân dân; một số đông nông dân đòi chia đất lại cho nông dân, không tin chánh sách kinh tế tập thể; cá thể hay tập thể điều đó không quan trọng, quan trọng là tăng sự sản xuất thực phẩm, mèo trắng hay mèo đen mèo nào  bắt chuột là mèo ấy tốt ; đa số  các nhà tư bản Trung Quốc  đều tay trắng làm nên nhờ nghị lực và tài năng của họ; lại Thượng Hải mà xem họ  tổ chức xí nghiệp trung bình  và nhỏ của họ ra sao …”. . 
Đặng bị trục xuất khỏi Đảng, sở dĩ không bị hại như Lưu vì Đặng không có ý tranh quyền với Mao và có Chu Ân Lai che chở phần nào. Chu Đức - ZhuDe,  người chống lại  Tưởng Giới Thạch khi Tưởng thanh trừng đảng Cọng Sản,  hùng cứ một phương miền Giang Tây - Quảng Đông , nghiên cứu chiến thuật Nga để áp dụng vào hoàn cảnh Trung Quốc, thành một trong những lý  thuyết gia giỏi nhất về du kích chiến hiện đại, năm 1931 được đảng bầu lên tổng tư lệnh Hồng Quân  và giữ hoài chức đó,  cũng bị tấn công, đuổi ra khỏi Đảng. Ở Hội nghị thứ 9 của CCP  tháng tư năm 1969, 2/3  trong số 90 ủy viên  bị mất chức, và Ủy ban nới rộng thành 170 ủy viên thường xuyên và 100 ủy viên dự bị  thay thế, một nữa là các chỉ huy quân đội.
Lâm Bưu
            Ngườì thủ lợi nhất ở Đại hội Đảng thứ 9 là Lâm Bưu. Lâm sinh năm 1907 ở Hồ Bắc. Ở trường Hoàng Phố - Whampoa Military Academy  ra, Lâm dự cuộc khởi nghĩa Nam Xương - Nan chang, 1935 theo cuộc Trường Hành, có công đầu trong cuộc nội chiến  từ đầu tới cuối , từ Mãn Châu tới Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa Nam ( 1946- 1949 ), có tham vọng, tư cách kém cõi ( Lâm nịnh  Mao mà không biết ngượng ). Như đã kể trên, năm 1959, Lâm thay Bành Đức Hoài làm bộ trưởng  quốc phòng , do Mao vận động cho.  Ông nhồi lại quân đội  ý thức hệ - “triết lý”  Bước nhảy vọt , Công xã Nhân dân, nhồi vào óc họ là hồng quan trọng hơn chuyên, tinh thần Cách mạng thắng được võ khí và kỷ thuật  chiến tranh du kích thắng được những đạo quân tân thức nhất  của Tây Phương ( Mao- Lâm chắc quên chiến tranh Triều Tiên các năm 1950- 1953). Bổng nhiên năm 1971, Lâm mất tích. Theo số báo Nhân dân- Hà Nội tháng 7 năm 1973, thì Lâm bị Mao thủ tiêu bằng hỏa tiễn trong khi ngồi xe hơi  trở về dinh, sau bửa tiệc Mao đải trong Cấm Thành - Bắc Kinh. Chu Ân lai có nhúng tay trong vụ này.  Các sách Trung Quốc lại cho rằng Lâm làm phản, mưu đảo chánh Mao. Cuộc tạo phản bất thành, vợ chồng con cái và tay chân Lâm  trốn thoát bằng phi cơ, đến Mông Cổ  ngày 13 tháng 9 năm1971, thì máy bay rơi, cả  đoàn tùy tùng và vợ chồng Lâm đều tan xác. Những khảo cứu mới   cho biết là Lâm và các tướng lảnh Tàu bên trong Ủy ban quân đội không bao giờ có ý định thách thức Mao cả thảy, không dự tính làm đảo chánh . Sự thật là Mao quyết định  bỏ Lâm Bưu ( Tonny Saich, Governance and Politics of China, New York , 2001 ).  Mao đã bắt đầu  thay thế những người  ủng hộ Lâm trong quân đội, trước khi  âm mưu  được xem là  của Lâm đưa ra ánh sáng, hầu giảm bớt nhiệm vụ của quân đội ở  hệ thống chánh trị. Đảng giấu biến âm mưu hơn một năm trời, rồi từ 1973 đến 1976, đảng mở một chiến dịch  cương quyết chống “Lâm Bưu và Khổng Tử - Confucius”  nhấn mạnh đến sự phản trắc của Lâm. Theo một bài đăng ỏ báo đảng là Đại Công Báo - Da Gong bao, Khổng Tử bị chỉ trích là vì  Khổng chỉ  “ giả bộ - pretended”  trung thành với vua  để bảo vệ đạo đức, nhưng thật tế Khổng ủng hộ giới thượng lưu  bóc lột.  Bài báo khẳng định  là Lâm  cũng làm như vậy, giả bộ ủng hộ chủ tịch Mao với những triết lý trích dẫn  trong Sách Đỏ Nhỏ, trong khi thật sự hoạt động cho cứu cánh tham vọng của Lâm, chống lại Mao và cách mạng.
                Nguyên nhân nào tạo ra Cách Mạng Văn hóa thật khó mà giải thích. Trong ngắn hạn, rỏ ràng là Mao muốn loại Lưu Thiếu Kỳ, trước đó cũng đã được chỉ định kế vị Mao. Lưu bị chỉ trích là quá thực tiễn, quá ôn hòa và đã lừa bịp dân gian Tàu bằng cách chọn con đường tư bản.  Trong thâm ý muốn  lay chuyễn giới  thư lại, Mao cũng đã đập tan Trung Ương Đảng và hành chánh  quốc gia và đã để cho PLA và các lực lượng cấp tiến khác điền vào chỗ trống. Cuối cùng, tuồng như Mao muốn xem điều này  như thể là cơ hội cuối cùng  để cho cách mạng tiếp tục sinh sống, cảm hứng  thế hệ trẻ hơn với nhiệt thành, cuồng tín cách mạng. Trên tầm dài hạn, xói mòn sâu đậm của cấu trúc xã hội Trung Quốc, nữa thế kỷ trước, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho Mao tấn công dữ dội  chế độ gia đình và đeo đuổi  những mục tiêu  tư tưởng - triết lý của ông .

                    Các chánh sách kinh tế  

                    Chánh trị triệt để ( cấp tiến ? ) của Cách mạng Văn hóa  cũng  song song một  kinh tế cấp tiến - triệt để, ảnh hưởng sâu đậm đến tổ chức công nghệ Trung Quốc.  Lo sợ áp lực Nga  ở các biên giới miền Bắc và “ xâm lược Hoa Kỳ “ ở  Việt Nam, Mao  thúc đẩy mạnh dời đại trà  phát triễn công nghệ - quân sự vào nội địa Trung Quốc. Xe lữa, hầm mỏ, đập thủy điện, nhà máy thép, xưởng ổ bi - ball bearing, xây cất sâu trong núi hay ở vùng sa mạc cho an toàn, khỏi  bị ngoại quốc xâm chiếm.  Như  một thành phần của chiến lược này, mọi người phải liên can đến xây cất những hầm trong núi, đường phố ngầm và hầm tránh bom.  Ước lượng Trung Quốc đã xài 140 tỉ đồng yuan ( viên, nhân dân tệ?  )  cho những chương trình này, một đổi hướng to lớn đầu tư tư bản ra khỏi các vùng bờ biển. Tuy nhiên các xây cất mới vô hiệu, xài phí đến nổi cuối cùng phải bải bỏ.  Ngoài việc di dời công nghệ Trung Quốc, ban xử lý cũng được phân tán, giao lại tự trị cho chức quyền địa phương, hầu thiết lập  các tiểu công nghệ nông thôn.  Chương trình này cũng quá hấp tấp, vô hiệu và quản lý kém cõi.  Thế nhưng đầu tư lớn lao vào chúng, đã góp phần tăng trưởng công nghệ đáng ngạc nhiên, ước lượng tăng 13.5 %  mỗi năm, từ 1969 đến 1976, trong khi hiệu năng nông thôn  và mức sống dân gian Tàu lại ngưng trệ đi. Đến năm 1976, các nhà lảnh đạo Trung Quốc  không còn kiểm soát nền kinh tế nữa, trong lúc một nhóm xử lý- quản trị ưu tú mới  địa phương của Đảng đã có ảnh hưởng quá mức. 
                
                     Liên hiệp Quốc và Thế Giới Rộng lớn hơn

                   Liên hệ  giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc - PRC  và Hoa kỳ  kể như chấm dứt vào lúc Chiến tranh Triều Tiên. Sau đó, Hoa Kỳ đeo đuổi một “ chiến tranh lạnh”  chống cọng, chống Trung Quốc. Bộ trưởng ngoại giao Hoa kỳ John Foster Dulles, quá thù địch đến nổi không chịu bắt tay Chu Ân Lai tại hội nghị Giơ Neo - Geneva về Việt Nam, năm 1954.  Hoa Kỳ kiên định  chống đối “Trung Quốc Lục địa - Mainland China  gia nhập Liên Hiệp Quốc và ủng hộ  Chánh phủ Quốc Dân ( Quốc gia - Nationalist ) ở Đài Loan, đã đại diện cho Trung Quốc kể thừ khi Trung Quốc mới thành lập.
Tổng thống Hoa Kỳ Nixon và chủ tịch Mao Trạch Đông
                   Xoay đầu hoàn toàn xảy ra năm 1971 khi  tổng thống Richard M.Nixon  công khai  thay đổi chánh sách Hoa Kỳ và sửa soạn sang thăm chính thức Bắc Kinh. Chúng ta giải thích sao đây sự đổi thay lạ thưòng ở cả hai nước ?  Phía Hoa Kỳ, động lực hòa giải nổi dậy từ quan niệm của Nixon và của bộ trưởng ngoại giao Henry Kissinger là ảnh hưởng đang tăng của Trung Quốc, song song với  sự trổi dậy của Nhật bổn và Tây Âu- Western Europe, đã tạo ra một cơ cấu quyền uy toàn cầu mới ,trong đó cần Trung Quốc hội nhập. Hơn nữa căng thẳng mới giữa  Nga- Tàu( Trung Quốc và Liên Xô)  có vẽ  cống hiến cho Hoa Kỳ một cơ hội  sử dụng Trung Quốc  làm đòn bẩy ngoại giao  chống lại Nga. Về phía Trung Quốc, thì hy vọng sự ủng hộ Mỹ  có thể ngăn cản Nga tấn công Tàu.  Tàu cũng tuồng như nghĩ rằng Nixon  có thể giúp Bắc Kinh  chiếm ghế  hiện do Đài Loan giữ ở Liên Hiệp Quốc - United Nations và Nixon  sẽ ủng hộ  nhập Đài Loan vào lục địa.
              Ngày 2 tháng 8 năm 1971, đàm phán để Nixon thăm viếng Tàu tiến triễn, Hoa Kỳ tuyên bố là sẽ ủng hộ hành động ở phiên họp mùa thu  Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc - UN General Assembly để PRC chiếm ghế, nhưng  lại sẽ chống đối  đuổi Cộng Hòa Dân Quốc Tàu.  Ngày 25 tháng 10 năm 1971, một  nghị quyết đuổi Cộng Hòa Dân Quốc Tàu  và trao ghế cho  PRC, do Albany  và  20 nước nhỏ khác đưa ra, được chấp thuận lịch sử, 76 phiếu  thuận, 35 phiếu chống và  17 không bỏ phiếu - abstention.  Chính con số 76 cho PRC cũng làm Hoa Kỳ ngạc nhiên không ít .
                Nixon viếng Tàu  tháng 2 năm 1972, giữa quảng cáo rầm rộ và trên ti vi chưa từng thấy. Thật sự, họp  đỉnh ngoại giao  cá nhân này đã phụng sự  một mục đích  ích lợi , tạo ra một không khí mới về dư luận khắp thế giới ( nhưng tai hại cho Cộng Hòa Việt Nam ? ), ảnh hưởng thuận tiện  trên thái độ  của dân gian Trung Quốc và Hoa Kỳ làm họ xích lại gần nhau,sau  bao năm cách ly  nhau. Một thông cáo chung từ Thượng Hải khi thăm viếng chấm dứt, cam kết hai nước  tái lập quan hệ ngoại giao  bình thường càng sớm càng tốt.  Chức quyền Hoa Kỳ như vậy  thấy rỏ ràng là phải thay đổi đáng kể  liên hệ với Đài Loan, tuy rằng lúc đỏ không nói là sẽ  như thế nào cả.  Năm 1973, Trung Quốc và Hoa Kỳ  thiết lập  sở  liên lạc tại thủ đô mỗi nước, một bước tiến khác về  bang giao hoàn toàn, tuy rằng mãi 6 năm sau mới thực hiện. Trong khi đó, nhiều quốc gia khác đã công nhận PRC. Tháng 3 năm 1973, Anh Quốc, trước đó đã công nhận PRC, thiết lập liên hệ ngoại giao hoàn toàn  với Trung Quốc, nhìn nhận Đài Loan là một “tỉnh Trung Quốc”.  Tháng 9 năm 1973, thủ tướng Nhật Tanaka viếng thăm Trung Quốc và thiết lập liên hệ giữa Bắc Kinh và Tokyo.  Tổng cọng trong hai năm 1971 - 72, đã có 30 quốc gia  công nhận PRC. Tuy nhiên,  thái độ thù địch của Trung Quốc đối với Liên Xô  vẫn tiếp tục; quân đội đôi bên vẫn được gửi nhiều đến biên giới  Nga - Tàu .

                                      Chu Ân Lai chết 

Chu Ân Lai và TT Nixon
                 Chu Ân Lai chết ung thư tháng giêng 1976,  chấm dứt  một sự nghiệp sáng chói.  Chu là người Âu hóa nhất trong giới lảnh đạo cộng sản Tàu. Sanh năm 1898 ở Giang Tô ( Hoa Nam ) trong một gia đình quan liêu đại địa chủ , cha làm giáo sư, mẹ có rất nhiều kiến thức.  Năm 1913, ông học trung học tại một trường Tin Lành ở Thiên Tân . Năm 1917 qua Nhật học đại học, hai năm sau trở về Trung Quốc tiếp tục học nữa và bắt đầu nghiên cứu chủ nghĩa Mác xít. Chu theo phong trào cách mạng, cưới một nữ sinh viên cũng làm Cách mạng. Năm 1919, bị bắt giam. Năm sau được thả, ông qua Pháp tiếp tục học, gia nhập Nhóm Cọng Sản Trẻ tuối ở Paris , cùng lúc với Lý Lý Tam, lập một chi nhánh của đảng Cọng Sản Tàu. Ông tìm hiểu đời sống  thợ thuyền trong các mỏ than ở miền Bắc Pháp và miền Rhenanie, di du lịch khắp Tây Âu, qua Anh.  Sau 4 năm tiếp xúc với  văn minh Tây phương và biết rỏ chế độ dân chủ,  Chu trở về nước năm 1924 , dạy  đại học võ bị Hoàng Phố về chánh trị, dưới quyền Tưởng Giới Thạch. Cùng Lưu Thiếu Kỳ, ông tổ chức giai cấp thợ thuyền Thượng Hải,  thành công tới mức dùng thợ thuyền không  phải đổ một giọt máu mà chiếm được  thành phố này, trước khi quân Tưởng Giới Thạch tới. Khi Tưởng thanh trừng tả phái trong Quốc Dân Đảng, ông bị bắt, trốn thoát  đến Hán Khẩu ( André  Malraux trong cuốn “Thân phận Con người - La Condition humaine” đã dùng Chu Ân Lai và cuộc đời của Chu để xây dựng nhân vật Kyo). Năm 1928, ông được phái qua Moscow dự  Đại hội thứ 6 của Đệ Tam Quốc Tế. Năm 1931 về nước, ông  bỏ đi , theo Mao Trạch Đông ở  Sô Viết Giang Tây, cùng vợ là Đặng Doanh Chiêu- Deng Ying Chao  dự cuộc Trường Hành 1934- 1935, như vợ chồng Chu Đức . Năm 1935, ông lại qua Moscow dự Đại hội thứ 7. Trở về Trung Quốc, ông được phái đến Tây An, thuyết phục Trương Học Lương thả Tưởng Giới Thạch. Khi Quốc Cộng ký Hiệp Ước thống nhất Mặt Trận chống Nhật, ông đại diện cho Cộng ở Nam Kinh, Hán Khẩu, Trùng Khánh bên cạnh Tưởng. Là một nhân vật then chốt trong thời Diên An, ông   tiếp tục là lảnh đạo chóp bu của  CCP sau năm 1949.  Chu là một tay đàm phán huy hoàng và dễ thương như đã chứng minh  ở hội nghị Giơ Neo năm 1954, chia đôi Việt Nam sau khi Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ .  Ở hội nghị Bang Đung năm sau, khi 19 quốc gia Á Châu họp mặt, ông làm ra 5 điểm  Sống chung Hòa Bình - Peaceful Coexistence ông và thủ tướng Ấn Jawaharlal Nehru cùng tuyên cáo.  Chu làm bộ trưởng ngoại giao  từ 1949 đến 1958 , thủ tướng- chủ tịch Hội đồng Quốc Gia  từ năm 1949 đến khi chết.  Ở chánh triị Trung Quốc lên bổng xuống trầm, ông trưng bày một khả năng đáng phục sống còn, ngay cả vào thời Cách mạng Văn hóa , lúc ông xử lý  xung đột trong nước, khiến ông thành thiết yếu cho Mao.  Ông luôn luôn đóng một vai trò chánh yếu  về ngoại giao. Chẳng hạn,  ông là nhân vật then chốt  ở vụ rạn nứt- chia rẽ  năm 1961, giữa Trung Quốc và Liên Xô (Nga)  và việc xích lại gần Hoa Kỳ  năm 1972 .  Tuy có chủ trương khác Mao , nhưng mềm mỏng trung thành với Mao, được Mao tin cẩn. Từ năm 1970, Mao nắm lại hết quyền hành, nhưng uy tín đã giảm sút nhiều, phải bỏ “ Nhảy vọt”, bỏ Công xã nhân dân, bỏ Cách mạng Văn hóa  cũ!   Mao chán nản, buông xuôi cho  Đảng theo đường lối cũ của Lưu Thiếu Kỳ ( đã bị nhốt khám ) dưới nhãn hiệu của Mao. Năm 1971, Đại hội Đảng  trao cho Chu Ân Lai quyền quyết định, vì Mao suy nhược về thể chất ( bệnh  liệt run rẫy Parkinson bắt đầu phát triễn? ) lẫn tinh thần .
                      Chu được nhiều người Tàu  quí mến, kể cả sau khi chết. Ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong  lễ Thanh Minh  tưởng nhớ  người đã khuất, nhiều vòng hoa đặt ở quảng trường Thiên An Môn, tưởng niệm Chu;  chánh phủ ra lệnh  lấy đi, nhưng nhiều vòng khác lại xuất hiện  và  một bạo động xảy ra.  30 000 người sổ lồng, đốt cháy một dinh thự chánh phủ và trật tự chỉ tái hồi khi  công an, cảnh sát  đến dẹp . Đặng Tiểu Bình bị trách cứ về vụ này  và 2 ngày sau, Đặng bị  đuổi khỏi mọi chức vị lần thứ hai, nhưng được giữ lai chức đảng viên CCP.  Quyền thủ tướng Hoa Quốc Phong- Hua Guofeng, con nuôi của Mao Trạch Đông, được nâng lên vị trí thứ hai, ngay dưới Mao Trạch Đông.  Thực quyền ở trong tay Giang Thanh, vợ góa của Mao  và “Bốn tay Băng đảng- Gang of FourVương Hồng Yến - Wang Hongwen, một  quá khích Thượng Hải  phó chủ tịch Đảng, Trương Xuân Kiều - Zhang Chunqiao phó thủ tướng, Diêu Văn Nguyên - Yao Wenyuan một quá khích Thượng Hải khác, Mao Nguyên Tân-Mao Yuanxin , một lảnh tụ  tỉnh Liêu Ninh - Liaoning, Mãn Châu cháu Mao Trạch Đông.  

                    Mao chết và thanh trừng bốn tay băng đảng bất lương

                 Chu Ân Lai chết đầu năm 1976, báo trước một năm số phận tiền định. Chu Đức , vị tướng lỗi lạc của PRC chết ngày 6 tháng 7 năm 1976.  Ngày 23 tháng 7,  lúc Mao đang dẫy chết, một trận động đất lớn, 8.2 thang Richter tàn phá vùng Đường Sơn- Tangshan gần Bắc Kinh, giết hại  trên 655 000 người, tạo ra tin đồn là Mệnh Trời- Mandate of Heaven đã hết.  Mao chết vì Parkinson và đứt mạch máu nảo  ngày 9 tháng chín năm 1976, tuổi thọ 82. 
                  Đầu tháng 10 năm 1976,  sau khi Mao chết chưa đầy một tháng,  hơn 30  lảnh tụ quá khích ( cấp tiển ) bị thanh trừng , theo nghĩa Tàu , không phải theo nghĩa Nga Xít ta Lin, bị bắt giữ,  truất phế, nhưng không bị giết. Đáng kể nhất là Giang Thanh , người khởi xướng Cách Mạng Văn Hóa và “bốn tay băng Đảng”, bị buộc tội là đã gây ra những tai họa  của Cách Mạng Văn Hóa.Tính chất rạn nứt  trong Đảng có thể suy đoán từ sự kiện là đã xảy ra xung đột khi loại “bốn tay băng đảng”, đặc biệt ở  các tỉnh miền Trung Trung Quốc, nơi tập trung  nông nghiệp trù phú. Báo cáo rối loạn còn tiếp diễn từ tháng 12 năm 1976 đến tháng 6 năm 1977. Quân đội được gửi tới tháng giêng 1977 và những  người gọi là kẻ thù của chánh phủ bị xử tử.
               Đặng Tiểu Bình thất sủng lần thứ hai đầu năm 1976, nhưng kỳ này đày ải ông không kéo dài 5 năm như kỳ trước. Tháng giêng 1977, nhiều áp phích xuất hiện yêu cầu phục hồi ông và đến  tháng 7 thì ông phục chức. Qua đầu năm sau, những người ủng hộ ông chiếm nhưng địa vị thật quan trọng. Tháng 2 năm 1978, ông được làm sạch mọi trách nhiệm trong vụ bạo động, rối loạn  xảy ra sau khi Chu Ân Lai chết .              
                 Nhưng trước khi đạt đỉnh quyền uy, Đặng phải tranh quyền với Hoa Quốc Phong. Năm 1978, Hoa cố khẳng định uy quyền,  trộn lẫn nhưng kêu gọi mơ hồ tiếp tục những chánh sách cấp tiến của Mao, cùng một kế họach thập niên tham vọng  theo đường hướng Chu Ân Lai đề nghị trước kia,  để biến Trung Quốc thành một quốc gia hoàn toàn cận đại  vào năm 2000 . Kế hoạch thập niên trù liệu  tăng trưởng nông nghiệp  4-5 % một năm  và tăng trưởng công nghệ  10% một năm.  Đặng cũng phát triễn một kế họach đem đầu tư  và kỷ thuật ngoại quốc vào nước nhà  và gửi  sinh viên  đi học, huấn luyện ở ngoài nước.  Suốt năm 1978, kế hoạch của Đặng mỗi ngày càng được thêm ủng hộ. Ở những phiên họp Đảng tháng 12, Đặng và các bô lảo Đảng hất Hoa ra ngoài, chánh thức nắm quyền.    
                                                             
             Kỳ V. Đặng Tiểu Bình và thời Cải Cách  1978- 1992   ( sẽ tiếp theo )                                          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét