Phần V.
Đặng Tiểu Bình và thời Cải Cách 1978- 1992
(tiếp theo lọat bài Trung Quốc)
Đặng Tiểu
Bình đứng lên nắm chánh quyền năm 1978 , đặt
những điều kiện cho một thời kỳ mới cải
cách qui hoạch trong
khuôn khổ trật tự chánh trị Cọng
Sản. Bắt đầu từ phiên họp Toàn thể
Thứ 3 của Ủy ban Trung Ương Đảng Thứ 11 tháng chạp năm 1978, công nhận chánh
thức Đặng Tiểu Bình lảnh đạo. Chương trình Cải cách của Đặng , phóng ra dưới
ngọn cờ “ Bốn Hiện Đại hóa- Four
Modernizations” và “Xã hội Chủ Nghĩa với đặc điểm Tàu”, cố
gắng mở rộng cửa Trung Quốc đón nền kinh tế toàn cầu mới mẽ, nhưng vẫn duy
trì Quốc gia - Đảng ( Party- state ) hiện
hửu. Bốn hiện đại hóa là : hiện
đại hóa nông nghiệp; công nghiệp ; quốc
phòng và văn hóa ( khoa học -kỷ thuật ). Không có gì mới. Vọng lại bóng ma
khẩu hiệu “Nhóm Tự Cường-Self Strengtheners” thế kỷ thứ 19, muốn nhận kỷ thuật và phương
pháp Tây Phương, mà vẫn duy trì quốc gia đế chế, cùng giá trị xã hội Khổng
Tử. Ở ca “Nhóm Tự Cường”, thế tiến
thooái lưỡng nan giải quyết, khi triều
đình Thanh bị lật nhào và giá trị của nó bị đào thải. Về ca cải cách của Đặng,
chế độ Đảng - Quốc gia tuồng như chưa bị nguy cơ ngay, nhưng làn sóng lớn tư
tưởng Tây phương và thay đổi cơ chế, ném
Trung Quốc vào các thập niên 1980 và 1990, nêu lên những câu hỏi về Đảng kiểm
soát, và bó buộc Đảng phải chấp nhận những ý kiến, phương pháp mới, hầu giữ
vững tính chất hợp pháp của mình.
Chánh trị đầu thập niên 1980
Bốn
Tên Băng Đảng bị thanh trừng năm 1976
sau khi Mao chết, nhưng mãi đến tháng 11 năm 1980 mới chánh thức đem ra
xử. Họ và đồng đảng bị kết tội làm phản,
âm mưu lật đổ chánh phủ, hành hạ các lảnh đạo Đảng và Quốc gia, đàn áp quần
chúng, hành hạ đến chết 34 380 người
trong thời Cách mạng Văn hóa ( trong số này 16 322 người ở Nội Mông ), âm mưu
ám sát Mao Trạch Đông và xúi dục nổi loạn võ trang ở Thượng Hải. Gần cuối phiên xử, Giang Thanh hét lên giữa tòa ” Thà tôi
bị chặt đầu còn danh dự hơn là tôi chịu
lép các kẻ buộc tội . Tôi thách các anh xử tử tôi trước 1 triệu dân chúng ở Quảng trường Thiên An Môn.” Khi Giang Thanh và Trương Xuân Kiều bị tuyên án
xử tử, bà la to: “ tôi sẳn sàng chết” và bị đưa ra khỏi tòa.
Tổng Thống Nixon và Giang Thanh |
Giang Thanh sinh ra nghèo nàn ở tỉnh Sơn Đông, trở thành
một nữ tài tử ở Thượng Hải, dưới tên
là Lan Bình- Lan Ping, và năm
1937 tới Diên An để trình diễn ở sân khấu cách mạng. Nơi đây bà gặp Mao và trở
thành bà vợ thứ ba ( ? ) của Mao, khi
Mao 45 tuổi và bà 24 tuổi. Hôn nhân này bị các nhà lảnh đạo Đảng chống đối, nhưng cuối cùng được chấp
nhận, với điều kiện là bà không dự phần chánh trị, một điều kiện bà giữ nguyên
cho đến khi Cách Mạng Văn Hóa khởi sự. Bản án xử tử Giang đặt thành vấn đề cho
các chức quyền, vì bà từ chối nhận tội,
nhấn mạnh là mọi điều bà làm ở Cuộc Cách
Mạng Văn Hóa là theo Mao yêu cầu. Chức quyền
lưu ý là Giang không tỏ chút nào hối tiếc, nhưng không muốn biến Giang
thành một tử đạo. Tháng giêng năm 1983, giảm tội Giang và Trương, từ xử tử
xuống chung thân. Chuyện kể đáng ngạc nhiên
này chấm dứt ngày 14 tháng 5 năm 1991, khi Giang Thanh tự tử, thắt cổ mình
trong khám, vào tuổi 77. Kiệt xuất và
ảnh hưởng nhân cách mạnh mẽ của bà khiến chánh phủ giữ kín vụ bà tự tử đến sau ngày 4 tháng sáu 1991
mới loan tin .
Trong lúc đó, hồi đoạn Bốn
Tên Băng Đảng nêu lên những câu hỏi về vai trò lịch sử của chính Mao Trạch Đông. Dấu hiệu thay đổi tư tưởng đầu tiên xảy ra ngày
22 tháng chạp năm 1980, khi Nhật báo Nhân Dân - People’s Daily đăng
trang nhất một bài nói rằng Mao Trạch
Đông đã lầm lỗi những năm cuối cùng, đặc biệt khi khởi xướng và lảnh đạo Cách Mạng Văn Hóa, những lỗi lầm đã đem đến bất
hạnh cho Đảng và cho dân gian. Định giá
vai trò lịch sử của Mao là một vấn đề tế
nhị cho Đảng. Nhiều cấp lảnh đạo nguyên là
cọng sự viên của Mao, và chính họ cũng là nạn nhân chánh sách Mao vào
thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Tuy nhiên, nếu họ chỉ đơn giản buộc tội Chủ tịch sau
khi chết, họ bị hiểm nguy mở toang cánh cửa khép uy quyền của Đảng theo một phương cách có thể hiểm
nguy đến họ nắm quyền. Một quyết định ủy ban Trung Ương chấp nhận tháng 6 năm 1981 chánh thức đổ lỗi Mao về
những sai lầm của Cách Mạng Văn Hóa, “đã đem tai họa đến cho Đảng, cho quốc gia
và cho toàn thể dân gian.”. Nhưng theo Hồ
Diệu Bang - Hu Yaobang , nay đã thay Hoa Quốc Phong làm chủ tịch Ủy Ban
Trung Ương, tuyên bố tháng 7, Mao phạm đa số sai lầm vào những năm cuối cùng. “
Thật rỏ ràng là trong viễn cảnh toàn thể cuộc đời ông, phần ông đóng góp cho
nền Cách mạng Trung Quốc, trội hẳn sai lầm”. Kết luận cuối cùng của Đảng là Mao đúng 70% trường hợp và sai quấy chỉ 30% , và xảy
ra phần lớn gần cuối đời ông.
Sự kiện Mao là một nhà lảnh
đạo lớn lao của thế kỷ thứ 20 , không
thể ai chối cải được. Ông là người trên hết
mọi người khác nhận diện tầm quan trọng và tiềm năng nông dân Tàu, một
hình dung xa xưa và không đổi, và dù có
chủ nghĩa Mác xít - Lê Ninh về thợ thuyền công nhân, đã nhấn mạnh là nông
dân sẽ giúp cho Cách mạng Tàu thành
công. Ông đã lấy cảm hứng ở quá khứ Tàu. Ông rất thích đọc các truyện Tàu truyền thống đặc biệt là Thủy
Hử - Shui Hu Zhuan ( The Water
Margin ), viết vào thế kỷ thứ 14, còn có tên Bốn bể đều là Anh Em- Tứ hải giai Huynh đệ (
All Men Are Brothers), nguyên cảo của
Thi Nại Am- ShiNaian, tuy do La Quán Trung- Luo Guan Zhong xuất
bản, như Tam Quốc Chí -San Guo Zhi vậy đó. Có lẽ hơn mọi chánh khách
khác thời ông, Mao nhìn vào tương lai và muốn làm ra một con người mới theo
hình ảnh ông nghĩ ra. Thảm kịch là ông
bị tù hảm ngay trong lý tưởng đã đưa ông lên nắm quyền và cuối cùng đem đến tàn phá kinh khủng đất nước Tàu .
Cuối năm 1981, Đặng đã tập trung trong tay kiểm soát ba cột trụ quyền
hành ở Trung Quốc là quân đội , chánh phủ
và Đảng CCP. Nhớ lại quyền hành xử
độc đoán của Mao vào thời Cách Mạng Văn Hóa, Đặng không giữ những chức vụ cao
nhất. Thay vào đó, ông hoạt động qua những người ông che chở: Triệu Tử Dương
( ? )- Zhao Ziyang , giữ chức vị thủ
tướng tháng 9 năm 1980, Hồ Diệu Bang
- Hu Yaobang làm tổng thư ký
Đảng năm 1981. Khi loại Hoa Quốc Phong tháng 6 năm 1981,
Đặng nắm quyền kiểm soát Ủy Ban Trung Uơng Quân Đội.
Nay Đặng và đồng nghiệp đã có
thể thi hành cải cách chánh trị, cốt ngăn cản tái diễn hổn loạn thời Cách Mạng Văn Hóa. Bước đầu tiên
là ngăn ngừa tập trung quyền
hành vào tay một người duy nhất. Các nhà
lảnh đạo chánh phủ nay chỉ đươc giữ
chức vụ có thời hạn thay vì suốt đời ,và
thủ tướng không được giữ chức vụ quá hai kỳ hạn 5 năm một kỳ. Tư cách đảng viên được duyệt xét hoàn toàn để
loại những kẻ có ý kiến quá khích. Tất cả đảng
viên đều được xem như đã từ chức, các
lảnh đao đảng ở nhà máy hay cơ sở quyết định chiếu theo căn bản lý tưởng cọng sản,
ai có thể tái gia nhập đảng, ai bị ra khỏi đảng. Cải huấn xuyên qua học tập công trình của Đặng và của Mác ( Mars) bị bắt buộc và một gật đầu nhắm những kẻ theo đường lối
cứng rắn dưới dạng một cảnh cáo chống “ô nhiễm tinh thần” xuyên qua ảnh hưởng xói mòn Tàu khi tiếp xúc
Tây phương. Không có con số nào đăng tải, nhưng theo ước lượng ngoại quốc cho
biết thì có từ 1 đến 3 triệu người mất thẻ đảng
viên CCP.
Chính Đặng cũng từ chức phó thủ tướng năm 1980 vì tuổi già ( lúc đó
ông 76 tuổi), song song với hai phó thủ
tướng khác là Lý Tiên Niệm - LiXiannian và Trần Vân- - Chen Yun ( ?) . Năm đó , cũng thu xếp để
cho 5 phó chủ tịch Ủy Ban thường trực Đại - Quốc Hội Nhân dân - National
People Congress trung bình đà 84
tuổi từ chức để cho 5 người trung bình tuổi 65
thay thế. Chương trình tiến hành thêm vào năm 1985 khi 1000 chức quyền được lựa chọn bổ nhiệm vào các chức vị bộ trưởng và tỉnh trưởng và hàng ngàn người khác
ở các phủ, huyện. Tổng thư ký Hồ
Diệu Bang cho biết là 70% các chức quyền
xuống đến thị xã sẽ bị thay thế và đã có 900 000 đã từ chức. Quân đội cũng không được khỏi duyệt xét. Năm 1984, 40 tướng
chóp bu trên 60 tuổi đã về hưu .
Có nhiều lý do khác tuổi tác ảnh hưởng xem xét cho nghỉ hưu. Trước hết là
sự ủng hộ đường lối cải cách của Đặng,
cũng như mức học vấn. Tháng 6 năm 1985, chánh phủ
huấn lệnh là phải có đại học và
tuổi dưới 55 mới được tuyển vào các bộ :
hàng không , hỏa xa ( xe lữa ), điện tử, than đá, và các ủy ban làm khảo cứu
cho quân sự. Nhưng thay đổi không
đụng chạm tới 8 vị gọi là bô lảo ( trưởng
lảo ), một nhóm gồm 7 đàn ông và một đàn bà quan trọng cho quyết định chánh sách. Ngoài Đặng ra, phải kể đến là Diên
Hương Doanh -Ye Jianying, Trần Vân, Lý Tiên Niệm , những lảnh đạo đảng uy
vũ. Đàn bà là Đặng Doanh Chiêu, góa phụ của Chu Ân Lai. Uy quyền của nhóm này
đã chứng tỏ trong khủng hoảng sinh viên
biểu tình năm 1989.
Thay đổi kinh tế, xã hội
Chu Ân Lai đã đề nghị từ
lâu là Trung Quốc phải nhắm trở thành một quốc gia cận đại vào năm 2000.
Nhưng mệnh lệnh Đảng cải thiện đời sống toàn thể dân gian đã bị những điều kiện hổn loạn Cách Mạng Văn Hóa
làm yếu kém hẳn đi. Ngay cả trước khi
Mao chết, Quốc hội Nhân dân năm 1975 đã
tuyên bố là nông dân có thể canh tác miếng đất tư hửu nhỏ, và làm các “sản xuất bên cạnh- sideline
productions” tỉ như nuôi heo, nuôi
tằm và thợ thuyền công nhân có thể sản xuất cho mình, miễn là không thuê mướn người khác. Những thay đổi này gieo giống cho những cải cách kinh tế sau đó của Đặng tiểu Bình , một người được Chu Ân Lai
che chở.
Phiên họp Toàn thể
thứ 3 - Third Plenum tháng chạp năm 1978 ,
xác định cần thiết cận đại hóa kinh tế cho mọi công trình của Đảng CCP, hạ thấp bớt lý tưởng và đấu tranh giai
cấp. Lúc Mao chết, Trung Quốc tổ chức theo căn bản công xã ( có
từ thời Bước Nhảy Vọt ), thành những đội
- brigades và tổ ( nhóm ) - teams sản xuất. Công xã
dụng cụ chánh cho qui hoạch và phân phối trung ương, đã tỏ ra là không hửu hiệu gì cả thảy. Những chánh sách mới kinh tế cố tâm đề xướng
khích lệ thị trường để vượt qua
vô hiệu quả. Chiếu theo những thực hành đã khởi xướng ở Tứ Xuyên, khi Triệu Tử
Dương là thư ký tỉnh Đảng sau 1975 , các gia đình nông dân thỏa
thuận bán một số lượng ngũ cốc cho quốc gia , được phép bán ra thị trường
phần còn lại và làm các sản xuất bên
cạnh. Hệ thống tên gọi là trách nhiệm hộ - gia đình đem tới thu hoạch ngũ cốc dồi dào các năm 1982, 1983 và 1984, cũng như các loại cây
khác như bông vải. Thị trường tư nhân
mau lẹ trổi đậy và các thị trấn nông thôn trở
thành những trung tâm buôn bán, trao đổi sầm uất. Một khi hệ thống sản xuất
theo hộ gia đình trở nên căn bản sản xuất thay cho các đội các nhóm hệ thống tập thể dần dần bị bải bỏ. Năm 1982,
hiến pháp mới quốc gia làm sống lại
cơ cấu thị trấn - township cũ và
giảm bớt kích thước cai trị hành chánh: 96 000
chánh phủ ( quyền ) thị trấn thay
thế 55 000 công xã nhân dân. Tháng giêng năm 1983, Nhật báo Nhân dân tuyên bố là công xã nhân dân theo nghĩa cũ không còn nữa. Đây là
một bước quay đầu quan trọng cho sự phồn
thịnh của Trung Quốc ngày nay .
Khi
nông thôn giàu có thêm lên, ( ít nhất là ở vài vùng ) một công nghệ hàng hóa
tiêu thụ bừng dậy. Hệ thống trách
nhiệm hộ - gia đình mở rộng ra, gồm luôn cả các xí nghiệp nhỏ ở thị trấn và làng
xã. Nới rộng cải cách nông thôn giúp cho
hàng triệu nông dân dần dần trở
thành doanh nhân nhỏ để làm dịch vụ và
công nghệ nhẹ. Trước tiên theo thể thức gia đình và kích thước nhỏ, dần dần lớn thêm và tiên tiến kỷ thuật hơn. Khi áp lực thị
trường tăng, họ đủ khả năng hơn để có ưu điểm cạnh tranh mới vì họ không bắt buộc phải trả tổng chi phí - overhead tỉ như
nhà cửa, săn sóc y tế , hưu trí , giáo dục , mà các quốc doanh
phải trả. Càng ngày các nhà lảnh đạo Đảng ở địa phương càng đồng minh
cùng các xí nghiệp trị trấn và làng xã này giúp thiết lập các
tập hợp và dùng các tập hợp làm giàu cho mình . Những
xí nghiệp tập hợp hay tập thể
không quốc doanh hay tư nhân sau đó biến thành một lảnh vực năng động nhất của nền kinh tế nông thôn Trung Quốc ,
tăng trưởng theo sác xuất 20- 30% một năm.
Đến năm 1987, hơn phân nữa kinh tế nông thôn Tàu là những hoạt động
không phải là nông nghiệp. Làng xã lúc
này phồn thịnh hơn lúc nào hết , chưa bao giờ xảy ra trước đây.
Trong lúc đó, ở thành thị , cải cách xúc tiến chậm rải hơn . công nhân ở xí nghiệp quốc doanh đã quen lề lối “ăn bát- chén cơm sắt - iron
rice bowl” của trợ cấp thực phẩm và nhà cửa , có việc làm suốt
đời, có tiền hưu khi nghỉ hưu. Các xí nghiệp thị thành quá nhiều nhân viên , càng ngày càng thừa thải một khi
thanh niên không còn phải đừa về
nông thôn và nhiều người từ nông thôn
trở lại thành thị. Chỉ đến các năm 1980-1981, chánh phủ mới nghĩ đến cải cách
lảnh vực công nghệ. Năm 1981, chánh phủ
tuyên bố chấm dứt bảo đảm công ăn việc làm và năm 1982 chánh phủ bắt đầu thử nghiệm hệ thống
theo tài năng xứng đáng - employment merit system . Ở hế thống này
, thoạt tiên thi hành ở Bắc Kinh, công
nhân mới tuyễ!n đều đặt ở vị trí làm thử - on probation , rồi phải ký khế ước
theo điều kiện người thuê. Hế thống
tuyển theo xứng đáng mới tuyên bố thẳng thừng là chấm dứt thể thức “ăn
chén cơm sắt”. Chánh phủ cũng cho phép các
doing nhân xí nghiệp nhỏ thiết
lập doanh nghiệp tập hợp hay tư doanh,
tỉ như các tiệm ăn và các xưởng
sửa chửa. Ai không được tuyễn vào
các xí nghiệp quốc doanh, nay đã có
khích lệ làm các xí nghiệp không quốc
doanh.
Dần dần PRC tiến
về một chiến lược cải cách thị thành toàn diện. Năm 1984 ,
một quyết định Ủy Ban Trung Ương
xác định là chánh phủ sẽ sử dụng
ở ngành công nghệ, những hình thức khích lệ và lực thị trường đã chứng
tỏ thành công ở nông thôn.. C’ac nhà xử lý - quản trị được thêm quyền hạn để quyết định sản
xuất và thị trường hóa sản phẩm làm
ra. Các lực thị trường hướng dẫn tăng trưởng mới của kinh tế thị thành Tàu , cho nên vào giữa cuối thập niên 1980, công nghệ đã
tăng mau lẹ hơn là kinh tế nông nghiệp.
Xí nghiệp quốc doanh năm 1978 chiếm 78 %
kinh tế Tàu , năm 1996 chỉ còn 42
% và năm 2001, rơi xuống chỉ còn 24 %. Suốt tiến trình
, chánh phủ di chuyễn cẩn thận. Trần Vân
và những người bảo thủ đã nhìn thấy những hiểm nguy của việc thải hồi bất chợt
công nhân , có cơ gây ra một tình trạng bất ổn. Trung Quốc khác với Nga,
không tháo bỏ gấp rút xí nghiệp quốc doanh. Nhưng bước tiến Trung Quốc cũng đủ mau
lẹ để tạo ra những sức căng thẳng nghiêm trọng.
Shanghai một trong những thành phố quan trọng nhất cho chánh sách "Mở Cửa" của Trung Quốc |
Chủ nghĩa Mao “tự cường” phát sinh một giọng hát cũ kiêu hảnh ở Trung Quốc và lòng ngờ vực ngoại quốc. Nhưng nay rỏ ràng cho Đặng và
những người ủng hộ ông là Trung
Quốc không thể nào thịnh vượng, nếu không có
những kỷ thuật ngoại quốc , chuyên môn ngoại quốc và cả tư bản ngoại quốc nữa. Sự thật vì dân số gia tăng mãi , vấn đề
không phải là thịnh vượng mà là tuyệt đối sống còn. Vì vậy cải cách phải gồm luôn cả một “chánh sách mở
rộng cửa- open door” đón mời
tư bản Nhật và Tây Phương . Các năm
1979- 1983 , một loạt tiền vay nhẹ lãi được Nhật cho vay tổng cọng lên đến
1.5 tỉ đô la Mỹ . Năm 1980, Trung Quốc
được gia nhập Quỉ Tiền Tệ Quốc Tế -
International Monetary Fund và Ngân Hàng Thế Giới- World Bank , đủ tư cách vay
thêm những món tiền khác. Một báo cáo
Ngân Hàng Thế Giới cho biết là Trung
Quốc đã biến một phần nghèo nhất của nước mình theo những điều kiện thật sự
tốt đẹp hơn nhiều các kẻ đối giá
ở đa số các quốc gia nghèo trên
thế giới.
Auto do hãng Beijing Automotive Works sản xuất |
Để có được kỹ thuật ngoại
quốc, Trung Quốc bắt đầu bằng cống hiến cho các công ty ngoại quốc cơ hội
làm những hảng chung , liên doanh- joint ventures . Chẳng hạn hảng chung với
American Motor Corporation, AMC, năm 1983 và Công
ty Ô tô Bắc Kinh - Beijing Automotive
Works làm xe Jeep. Thật sự,Trung
Quốc đã có căn bản kỷ thuật chế tạo ô tô và đã sử dụng ở nhà máy Bắc Kinh, nhưng mục
tiêu là thu thập thêm kỷ thuật tân
tiến cũng như đi vào thị trường rộng lớn
hơn. Dự án còn muốn dùng các động cơ
AMC ở xe ô tô và sản xuất một loại xe căn cứ trên họa kiểu
Mỹ. Các nhà xử lý ngoại quốc những hảng liên doanh đầu tiên này gặp rất
nhiều chán nản , thất vọng vì chậm trể mê hồn trận của nền kinh tế quốc doanh kiểm soát và chính ngay cả vì thiếu cảm giác khác biệt văn hóa. Mãi đến thập niên 1990, các hảng chung sức, liên
doanh này mới cất cánh .
Một
liên doanh phức tạp hơn nữa là hảng xây cất nhà máy điện nguyên tử hạt nhân (hạch tâm ) - nuclear đầu tiên của Trung Quốc ở Vịnh Baya Bay ,
tỉnh Quảng Đông. Trung Quốc chiếm 75 % dự án và Hảng
Điện và Ánh sáng ( Đèn ) Hồng Kông - Hong Kong Light and
Power Company 25 % phần còn
lại. Đàm phán mất 7 năm, đạt đỉnh năm 1985 và
mua các lò nguyên tử hạt
nhân từ Pháp và Vương quốc Anh . Đến đầu thập niên 1990,
nhiều nhà máy điện nguyên tử khác cũng
đang được xây cất, nhưng chỉ chạy được sau nhiều năm khởi công . Đến năm 2004 ,
điện hạt nhân Trung Quốc chỉ chiếm 2% tổng số điện sản xuất trong nước, đứng
hàng thứ 30 trên thế giới . Nước đứng đầu là Pháp có tỉ xuất năm đó là 78% ,
Thụy Điển hạng 6 tỉ xuất là 52% , Nam Hàn ( Hàn Quốc) hạng 11 tỉ xuất là 38%, Đức hạng 13 tỉ xuất 32 % , Nhật hạng 15, tỉ xuất 29%, Hoa Kỳ hạng
18, tỉ xuất 20%, Nga hạng 20 tỉ xuất 16
% ( chiếu theo tài liệu Cơ Quan Năng Lượng Quốc
tế - IAEA) . Tưởng cũng nên biết là thời Đệ Nhất Cọng Hòa thập niên 1950- 1960, dưới
sự thúc đẩy của Giáo sư Bửu Hội, đã
thiết lập lò thí nghiệm nguyên tử Đà Lạt và huấn luyện
một số chuyên viên miền Nam Việt Nam về
nguyên tử năng. Đến năm 2012- 14 ,Việt Nam mới khởi công xây cất hai nhà
máy điện nguyên tử hạt nhân, một ở Ninh Thuận và một ở Phú Yên ( ? ) với kỷ
thuật Nga (? ), trong số 6 ( 8?) nhà máy điện
hạt nhân dự trù toàn quốc. Theo Hội Hạt nhân Thế giới căn cứ ở London , năm 2011 trên thế
giới có 442 lò hạt nhân -
nuclear reactors, cung cấp 15 % tổng số điện khắp hoàn vũ và có dự
án làm thêm 155 lò nữa, đa số ở Á Châu, 65
lò đang xây cất trong số này. Hoa Kỳ
hiện có ¼ lò hạt nhân trên thế giới và
là nước sản xuất nhiều điện hạt
nhân nhất, chiếm hơn 30%
điện thế giới. Nhưng các lò điện hạt nhân Hoa Kỳ đều khởi công
sau tai nạn Three Mile Island năm 1979 , bị
đau khổ vì nung chảy - meltdown
bán phần , gây ra giải tõa phóng xạ giới hạn. Cũng xin lưu ý là nhà máy số 1 Fukushima ở Nhật, nơi sư cố
tai hại đang xảy ra là nhà máy đã xây cất
40 năm nay rồi Theo Acton, chuyên viên hạt nhân tại Cơ quan Thiên tư Carnegie về Hòa
Bình, ngành công nghệ biện cứ là các lò
nguyên tử cận đại có những đặc điểm an toàn khiến cho sự cố Fukushima khó lòng tái
diễn, nhưng biện cứ này khó lòng thuyết phục được công chúng !
Một cố công khác thu hút tư bản
ngoại quốc là việc thiết lập những vùng - khu kinh tế đặc biệt, có ưu đải thuế
khóa. Bốn vùng này làm ở dọc bờ biển năm 1979
và thêm 5 vùng nữa năm 1985.
Trong số những vùng lựa chọn phải
kể ra vùng Cửa Sông Châu - Pearl River estuary,
gần Quảng Châu , Sơn Tú ( ? )
- Shantou ở miền Bắc tỉnh
Quảng Đông, Hạ môn- Xiamen (
Hsiamen/ Amoy ) ở tỉnh Phúc Kiến - Fujian ( Fukian ) và ở các bản
đảo đối mặt nhau là Sơn Đông và Liêu Đông ở miền Bắc nước Tàu. Một vị trí chánh
là Thẩm Quyến - Shenzhen, ngay sát biên giới với Hong Kong’s New
Territories , mau lẹ trở thành một thành phố phát triễn kinh tế rầm rộ, có
nhiều đặc điểm của Hồng Kông giàu có
láng giềng. Đầu tư ngoại quốc bắt đầu
chậm chạp, nhưng cuối thập niên 1980,
tăng thêm kinh khủng, vì các láng giềng Đông Á của Trung Quốc , đặc biệt
là Hồng Kông, bắt đầu di dời công nghệ
mình qua Trung Quốc, lợi dụng phí tổn nhân công thấp. Đặng cổ vỏ có chủ tâm doanh nhân ở Hồng Kông, Thái Lan, Mã Lai Á, Inđônêxia,
Singapore và vào thập niên 1990, luôn cả
Đài Loan, đầu tư và buôn bán với Trung Quốc .Vào đầu thập niên 1990,
Hoa kiều hải ngoại đã chiếm gần 80%
đầu tư ngoại quốc ở Trung Quốc.
Bờ biển Đông Nam Trung Quốc trở nên, không những là vùng năng động nhất Trung Quốc mà cả Á Châu !
Phát triễn cũng bắt đầu lan rộng vào nội
địa Trung Quốc như những gợn sóng, nhìn thấy được theo những nhà chọc trời ở tỉnh lỵ thủ phủ các
tỉnh nội địa Tàu .
Phồn thịnh thêm đem đến thay đổi
xã hội. Tại đa số các nền dân chủ Tây
phương, công ăn việc làm là vấn đề của khu vực tư nhân, trong khi thất nghiệp
và an sinh - welfare để lại cho chánh
phủ lo liệu. Thời Mao là “đơn vị lao
động - dan wei” ( work unit ) giải
quyết những vấn đề ngay tại địa phương. Đơn vị lao động phát triễn cho một xã hội điều hòa lớn lao thời bấy giờ, ôm chồm mọi khía cạnh
đời sống lao động: ai được cấp khẩu phần - rations, cấp gia cư, cho phép lấy nhau và bỏ nhau và
điều quan thiết là định giá mức tin cậy chính trị của một cá nhân. Tăng trưởng của thị trường tự
do ở thập niên 1980, làm xói mòn dần những chức năng của đơn vị lao động trên
phương diện an sinh lẫn kiểm soát xã hội, và công nhân lao động
bắt đầu rời bỏ đi nơi khác, di cư tìm những nào kiếm việc tốt đẹp hơn .
Những khuynh hướng này còn trầm trọng thêm vì lạm phát nguy
hiểm khi thị trường nội địa nới rộng
ra. Năm 1980 , giá cả tăng gia 7%
và năm 1988, Trung Quốc rơi vào tình trạng lạm phát tệ hại nhất lịch
sử Tàu. Chánh phủ trở lui lại một chương trình
hạn chế kinh tế, cắt bớt sản xuất dầu và than đá, tư bản xây dựng và
quốc phòng. Nông dân khởi sự kinh nghiệm
lên xuống giá cả ngũ cốc và chánh sách,
trong khi công nhân thợ thuyền thị thành chịu sự sa thải. Hơn nữa, tham nhũng nghiêm trọng xuất hiện ở các xí nghiệp quốc doanh,
khi chức quyền chuyễn ngân khỏan từ quốc
doanh qua các đầu tư riêng của họ. Trung
Quốc thiếu hẳn các kiểm soát hợp phá,
lẫn một hệ thống tư pháp có thể buộc tội các chức quyền tham nhũng. Phóng xạ thoát ra ngoài xã hội từ những
phát triễn này, đe dọa ổn định chánh trị
khắp xứ .
Năng lượng
Cải cách kinh tế của Đặng
nhắm mở rộng kinh tế. Nhưng ở
Trung Quốc cũng như ở mọi quốc gia khác
nới rộng kinh tế bị số lượng
năng lượng có được giới hạn.
Trung Quốc luôn luôn tùy thuộc
than đá làm nhie6n liệu chạy công nghệ , nhưng đã phải tăng gia nhiều tiêu thụ dầu lữa kể từ cuối thập niên 1970 . Năm 1952
than đá chiếm 96.7% tổng số năng lượng Tàu , các nguồn khác chỉ chiếm 3.3 .
Nhưng năm 1987 than đá chỉ còn đã chiếm72.6 % và các nguồn khác
27.4 % . Ngay trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, Trung Quốc dự tính khai thác dự trữ dầu lữa Cam Túc - Gansu, Tân Cương -
Sikiang và Mãn Châu để xuất khẩu .Dù bị
hổn loạn, sản xuất hầm mỏ từ năm
1978 đến năm 1978 tăng gấp ba: xuất khẩu
than đá giảm và xuất khẩu dầu lữa tăng lên 2.5 lần. Dự trữ
dầu lữa Tàu nhiều nhất là ở miền Đông
Bắc tại vùng Đại Thanh - Daqing tỉnh Hắc Long Giang- Heilongjiang , nơi
săn bắt thú của tộc dân Mãn Châu . Vào thập niên 1970 , Đại Thanh trở thành Trung Tâm du nhập kỷ thuật tiên tiến cho nhà máy công
nghệ và các mỏ dầu ( như khu công nghệ Biên Hòa - Bình Dương
thời Cộng Hòa và khu Phú Mỹ -Bà Rịa ngày
nay ). “Học hỏi Đại Thanh” trở thành khẩu hiệu phát triễn công nghệ Trung Quốc.
Năm 1983 , giếng dầu sâu nhất ngoài khơi
biển Đông Tàu - China East Sea ( còn Tàu gọi Biển Đông Việt Nam là Nam
Hải Tàu - South China Sea ) bắt đầu khai thác. Chánh phủ bắt đầu chấp
nhận đấu thầu - bid các hảng ngoại quốc đào dầu ngoài khơi ( Miền
Nam đấu thầu khai thác dầu ngoài khơi Biển Đông, Biển Tây các năm 1974- 75 thời
Đệ Nhị Cộng Hòa ) và thủ tướng Triệu
Tử Dương- Zhao Ziyang hứa hẹn là các mỏ dầu lớn sẽ không bao giờ bị quốc hửu
hóa. Năm 1984, 18 hảng ngoại quốc đã ký kết, gồm cả các hảng Vương Quốc Anh, Tây
Ban Nha, Úc châu và Pháp. Các điều kiện khai
thác dầu rất thuận lợi cho Trung Quốc, nhận 51 % dầu tìm thấy, trong khi không trả một tí nào
phí tổn sản xuất. Các vùng có dầu là Thiên Tân ở Hoàng Hải - Yellow Sea,
ngoài khơi đảo Hải Nam
ở biển Đông ( Nam Hải Tàu )và ở vùng
Sông Châu. Năm 1988 , xuất khẩu dầu lữa
đứng hàng thứ hai sau áo quần, trị
giá 3.4 tỉ đô la Mỹ và năm 1990, Trung
Quốc xuất khẩu 500 000 thùng dầu một năm.
Việt Nam cũng xuất khẩu từ nhiều năm nay, khoảng 400 - 500 000 thùng dầu thô
mỗi ngày, trị giá đến 10 tỉ đô la Mỹ trung bình
mỗi năm .
Thế
nhưng những hy vọng cao không thực hiện
được về cả hai phía. Năng xuất các giếng
dầu ngoài khơi Tàu đáng chán nãn và chỉ khai thác chậm chạp mà thôi. Năm 1986 , hảng
Penzoil rút ra khỏi các giếng khô dầu
ở Quảng Đông, trên lục địa. Rồi Trung Quốc mở cuộc đấu thầu thứ hai, nhưng bị bắt buộc phải cống hiến
những điều kiện tốt hơn cho các hảng, vì
cuộc đấu thầu lần thứ nhất cho các kết
quả bạc bẻo . Cho nên, dù con số dầu lữa xuất khẩu năm 1988 khá lớn , xuất khẩu này mau đạt đỉnh . Tiêu thụ dầu lữa ở Trung Quốc vào thập niên 1990 tăng 10% một năm và đến năm 2000 Trung Quốc đã
phải nhập khẩu 1 triệu thùng dầu
một ngày.
Quốc
phòng
Chánh
sách cố hửu chia sẽ và xâm lăng Việt Nam
đã được Chu Ân Lai thực hiện năm 1954, chia đôi Việt Nam vì Trung Quốc không muốn cho Việt Nam thống nhất ,sợ
Việt Nam cứng đầu, cứng cổ khi hùng mạnh chống mọi mưu mô Hán hóa và bành trướng
Trung Quốc xuống miền Nam Biển Đông ( theo các tài liệu Tôn Thất Thiện và Nguyễn
Bửu Hoan cho biết tháng 3 năm 2011, về hội nghị Giơ Neo 1954 …). Đặng Tiểu Bình còn tệ hại hơn, cố ủng hộ
Cam Bốt, song song với Hoa Kỳ ủng hộ
chế độ khát máu Khmer Đỏ , để làm
Việt Nam yếu đi ( Hoa Kỳ phục thù mất miền Nam Việt Nam ? ), sửa soạn tấn công
Việt Nam trước năm 1978 theo bản bạch thư của Lê Duẩn ( Nguyễn Bửu Hoan chuyễn
cho biết ). Bài học cho Việt Nam
bị Tàu theo chỉ thị của Đặng, tấn công năm 1978, tàn phá 20 thị trấn và
một số tỉnh Việt Nam ở biên giới , thật tế là một thất bại chua cay cho Tàu, vì
chống trả mạnh mẽ của quân địa phương
và phản công của quân đội Nhân dân Việt Nam rút về Bắc đuổi lui Tàu, từ chiến dịch đánh Khmer Đỏ ra khỏi Nam
Vang- Phnom Penh ( sau khi được bảo
đảm Nga ủng hộ ? ), còn là một chánh sách “nham hiểm” của Đặng Tiểu Bình , muốn
chứng tỏ là quân đội Trung Quốc cần thêm ngân sách tân tiến hóa sau nhiều năm
không có chiến tranh ( ? ). Thật thế tân
tiến hóa sẽ bắt đầu năm 1982, dưới sự lảnh đạo của tướng Dương Đức Trị - YangDezhi . Dù không nói đến Liên Xô, Dương cảnh cáo về “ nguy hiểm của một kẻ địch
huấn luyện tốt và uy vũ”. Dương
nói là muốn chống trả ở một chiến tranh
cận đại , Trung Quốc phải nâng cấp tổ
chức và kỷ luật các lực lượng mình , duy
trì tinh thần cao và thu nhập kỷ thuật
sử dụng các võ khí cận đại. Cả hệ thống quân giai và dùng đồng phục khác nhau cho sĩ quan, bải bỏ từ thời Cách Mạng Văn Hóa được tái lập. Nhưng năm 1985, các cản trở tài chánh gây ra việc phải giảm bớt từ 4.2
triệu quân xuống chỉ còn 3 triệu, tuy vẫn là đông nhất thế giới. Bớt lính cũng
làm tăng thất nghiệp.
Quân đội dưới thời Mao có riêng
trường học, nông trang, nhà máy và những hoạt động phụ thuộc khác. Trong
những thay đổi năm 1985, vài nhóm ủng hộ này bị giảm bớt hay loại bỏ, vài nhà
máy quân đội được chuyễn qua sản xuất
hàng tiêu thụ và vài quân cảng và
phi trường mở ra cho dân sự sử dụng.
Quân đội biến từ một dân quân lý tưởng
ngự trị qua một lực lượng chuyên nghiệp hơn, trang bị vỏ khí càng ngày càng tân tiến hơn. Tuy nhiên quân sự có chịu sự kiểm soát của
dân sự không thì cũng chưa biết rỏ.
Quân Đội thời Mao |
Trong hai thập niên trước 1990,
Trung Quốc thu nhập hay xây
dựng một loạt võ khí phức tạp. Tuy giữ kín bí mật quân sự, vài chứng cớ có thể suy luận từ các cuộc mua bán vỏ khí
quốc tế. Sau đây là vài thí dụ. Giữa các năm 1984 và 1986, Hoa Kỳ bán cho Trung Quốc các võ khí hải quân chống tàu ngầ , hỏa tiễn chống máy
bay , ngành điều khiển máy bay - tàu thủy, dụng cụ computer, nâng cấp 50 máy
bay chiến đấu F-18 Trung Quốc đang có
. Giữa các năm 1986 và 1988, Trung Quốc , đã là
một nước chế tạo vỏ khí phức tạp,
trở thành nước cung cấp vỏ khí
lớn nhất thế giới, gồm luôn cả phi cơ
chiến đấu J-6 bán cho Iraq. Trung Quốc cũng cung cấp một số lượng đạn dược khổng lồ, kể cả hỏa tiễn Sâu Tằm - Silkworm cho Iran , kẻ thù của Iraq . Trung Quốc giúp Hồi Quốc- Pakistan sản
xuất hỏa tiễn ngắn tầm và cung cấp cho Saudi Arabia hỏa tiễn liên lục địa Trung
Quốc chế tạo là CSS-2, bắn xa 1600 dặm Anh ( 27 000 km ).
Võ khí hạt nhân của Trung Quốc |
Đồng thời Trung Quốc phát triễn
khả năng quân sự cuối cùng là kho vỏ khí
hạt nhân. Từ năm 1964, các
nhà klhoa học Tàu đã thành công họa kiểu,
xây dựng và thử nghiệm một bom nguyên tử. Nhưng mãi đến tháng 8 năm 1981, PRC
mới tuyên bố là sẽ ký Hiệp Ước
Không làm Lan tràn Hạt nhân- Nuclear Nonproliferation Treaty của năm
1968 . Năm đó Pháp cũng cho biết là sẽ ký . Nghĩa là Trung Quốc là một
nước có lực lượng hạt nhân chánh ở thế
giới, là nước ký sau chót 140 quốc gia
lúc đó. Sau một loạt thử bắn, do
các nước khác theo dõi, đúng là Trung Quốc , năm 1988 , đã có một hệ
thống chiến lược hỏa tiễn tầm xa hạt
nhân cho riêng mình. Trung Quốc cũng
có những lực lượng trên bộ
kỷ luật có thể dập tắt mọi lữa rối loạn nội địa.
Năm 2007, Trung Quốc chứng minh là có thể bắn rơi một vệ tinh khỏi quỷ đạo
thấp quanh Trái Đất. Từ nhiều năm trước,
hệ thống computer các hảng tổ hợp và chánh phủ Hoa Kỳ cùng nhiều nơi khác, kể
luôn cả các nhà thầu bộ quốc phòng Hoa
Kỳ đã bị các tấn công điều khiển học
- cyber attacks dấu hiệu từ Trung Quốc, tuy liên kết nội vụ với quân sự Trung Quốc chưa biết rỏ dứt khoát được. Vài chuyên viên tin trằng các vi tặc - hackers quân sự Trung Quốc đã đủ khả năng phá tan mạng lưới điện Hoa
Kỳ và làm gián đoạn hệ thống tài chánh. Tháng giêng 2011, Hoa Kỳ
trưng bày máy bay chiến đấu phản lực lén lút- stealth fighter jet Tàu , sánh ngang những máy bay chiến tranh tốt nhất của Hoa Kỳ, chế tạo nhiều năm sớm hơn Mỹ tiên đoán. Vài ngày sau,
chỉ huy Hạm đội Thái Bình dương Hoa Kỳ
cũng tiết lộ là hỏa tiễn chống
tàu chở máy bay - hàng không mẩu hạm của Trung Quốc đã sắp hoạt động được.
Khoa học và kỹ thuật
Tàu chở dầu Trung Quốc sản xuất |
Phát triễn mau lẹ
của 3 trong số “4 cận đại hóa” ; nông nghiệp , công nghệ và cận đại hóa quân sự
cho thấy tầm quan trọng của cận đại thứ tư , khoa học và kỷ thuật. Thiết bị mua về không những để sử dụng mà còn để bắt chứớc,
sao chép các kiểu mẫu Trung Quốc nhắm trở thành mau lẹ nếu được, độc lập và đủ khả
năng cạnh tranh theo những điều kiện ngang hàng
với thế giới còn lại. Chánh sách
này không khác chi mấy việc cận đại hóa
lảnh đạo thanh niên tiếp theo thời Minh Trị Thiên Hoàng Nhật Phục hưng. Bấy giờ, Nhật mời những cố vấn ngoại quốc nhảy vọt bắt
đầu cuộc cách mạng kỷ thuật, nhưng cũng
gửi nhiều dân Nhật ra ngoại quốc, thu
nhận hiểu biết khoa học và thực
tiễn cần thiết để khỏi cần thuê chuyên viên ngoại quốc đắt
tiền . Trong số 433 sinh viên Trung Quốc gửi qua Hoa Kỳ năm 1978- 79, sáu
lựa chọn cao giá lảnh vực học tập là vật lý
học, điện tử rađiô, khoa học và công nghệ computer, hóa họ , toán
học, khoa học y khoa và đời sống . Không khó khăn gì để nói rằng chánh sách quốc gia phản chiếu
những lựa chọn này. Rất nhiều sinh viên và trí thức r a học ngoại quốc các thập niên 1980 và 1990 không trở về Trung Quốc mà ở lại ngoại
quốc tiếp tục sự nghiệp. Thất thoát
nảo - brain drain quá nhiều nên năm 1992 chánh phủ đã trả thêm tiền thưởng cho các nhà khoa học và học giả hàng đầu và cho tự do lựa chọn lảnh
vực hoạt động, mục đích khuyến khích họ
ở lại Trung Quốc.
Tuy nhiên , đi vào hiểu biết
khoa học qua sinh viên trở về xứ sở, và
xuyên qua một mạng lưới rộng rải thông tin khoa học quốc tế, đã giúp Trung Quốc mạnh tiến kỷ thuật quan trọng, ở những lảnh vực kể trên
. Rất nhiều tiến bộ cũng xảy ra ở
lảnh vực quân sự và cả ở những lảnh vực khác.
Trung Quốc đã bắt đầu đuổi kịp các quốc
gia công nghệ tân tiến. Vài thí dụ là
xấy cất các tàu chở dầu- oil
tankers ở Đại Liên, khả năng làm thép
tiên tiến ở Bảo Sơn - Baoshan,
nới rộng chuyên chở hàng không, nội địa
lẫn ngoại quốc , đào dầu ở ngoài khơi,
và tiến bộ đáng kể khảo cứu siêu dẫn - super conductivity .
Quảng trường Thiên An Môn
Biểu tình ở Thiên An Môn 1989 |
Quân đội đàn áp biểu tình |
Tháng giêng 1987, các tay đường hướng cứng rắn chỉ trích phương cách tương đối khoan
dung sinh viên biểu tình của Hồ Diệu Bang và thuyết phục
Đặng Tiểu Bình xử sự nghiêm nghị đối với sinh viên và chống đổi tự do hóa kiểu Tây Phương. Triệu Tử Dương thay thế Hồ diệu Bang ở chức
tổng thư ký đảng CCP và Lý Bằng -Li peng bảo thủ thay thế Triệu làm thủ tướng. Hồ diệu Bang bị
cách chức, biến thành anh hùng của sinh viên.
Hồ chết ngày 17 tháng tư năm 1989. Cấm đóan tham dự
tang lễ của Hồ ngày 22 tháng 4 nămm 1989,
đã xúc động 100 000 sinh viên tập họp ở
Quảng trường và họ bắt đầu tổ chức. Họ
đòi hỏi tự do ngôn luận, báo chí và hội họp; tăng ngân khỏan giáo dục ; phục hồi danh dự cho Hồ
Diệu Bang và gọi phong trào sinh viên
là “ yêu
nước “ và “ dân chủ” . Vì Triệu đang
thăm viếng Bắc Hàn , Lý Bằng tham khảo
Đặng Tiểu Bình và Đặng gọi phong trào là
“ náo động - dongluan ( turmoil )” và tố cáo nó . Sinh viên phản ứng và biểu tình tăng thêm kích thước những ngày kế tiếp, khi công nhân và báo chí
tham gia. Ngày 4 tháng 5, kỷ niệm 17 năm
ngày phong trào mồng 4 tháng 5 năm 1919, hàng chục ngàn sinh viên từ 51 đại học xá tiến tới đại lộ Tràng An và Quảng trường
Thiên An Môn. Các biểu tình ũng hộ xảy
ra ở 50 thành phố khác gồm Tây An , Vũ Hán,
Hàng Châu và Trùng Khánh. Mọi khuynh
hướng trong phong trào xáp nhập nhau và
ngày 13 tháng 5, một nhóm sinh viên quá khích - cấp tiến( ? ) khởi sự đình công nhịn đói - hunger strike. Ngày 17
tháng 5, biểu tình lên đến 1 triệu người hội họp ở quảng trường, có một
nhóm báo chí truyền tin lớn ngoại quốc
đứng nhìn . Ngày18 tháng 5, Ủy ban
thường trực Đảng, họp với 8 bô lảo
Ủy Ban Quân sự, chánh thức
thiết lập luật giới nghiêm. Sinh
biểu tình chận đứng các đoàn quân từ
miền Bắc và miền Tây đưa tới ,
không cho vào quảng trường. Biểu tình
được báo cáo xảy ra ở 131 thành phố khắp
nước, ngoài Bắc Kinh, nhưng cuối tháng 5
giảm đi nhiều, khi quân đội được
chỉ thị là không quyết tiến tới. Ngày 2 tháng 6, Ủy Ban thường trực Đảng quyết định
làm sạch quảng trường. Đặng nói
rằng : “ chủ quyền và an ninh quốc gia phải là ưu tiên trên hết”. Tháng 6, nhiều xung đột chớm nở . Cảnh sát tấn công sinh viên bằng đùi cui và khí cay mắt. Sinh viên ném gạch và chai.
Các lảnh đạo chóp bu Đảng quyết
định đưa quân đội tới dẹp 1 gìờ sáng
hôm sau và phải làm sạch quảng
trường vào 6 giờ sáng. Công việc hoàn tất
5 giờ 40. Suốt ngày 4 tháng 6,
một không khí khủng bố tràn ngập Bắc
Kinh . Khi quân đội di chuyễn để tái lập
an ninh ở Thủ đô, công dân Tàu chống lại
, xung đột đổ máu. Hơn 500 xe vận tải
quân đội bị đốt cháy tại một tá ngã
tư và nhiều quân nhân bị giết hay đốt cháy.
Sốc, nổi giận và oán trách lan tràn khắp mọi đại học xá. Biểu tình ủng hộ sinh viên được báo cáo ở 63 thành phố Trung Quốc, ở Hồng Kông , khắp
thế giới. Những ngày kế tiếp, các chánh
phủ ngoại quốc tỏ bày kết án vụ dẹp loạn, làm sạch quảng trường Thiên An Môn và đặt ra nhiều trừng phạt Trung Quốc . Trong
phiên họp các lảnh đạo ngày 9 tháng 6 ,
Đặng tuyên bố không còn lựa chọn nào khác và phải thẳng tay …
Sẽ tiếp Phần VI và hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét