Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

Tỉnh Nam Định


Cố gắng hiểu thêm đất nước:                          
Làm sao phát triển tỉnh Nam Định  thành một nôi văn hóa, kinh tế, thương mãi như xưa  ?
                                        G S Tôn Thất Trình

            Phần I : Đại Cương
                             
                   Vị trí và lãnh thổ

         Nam Định là một tỉnh  đồng bằng ven biển, phía nam đồng bằng  châu thổ sông Hồng, tọa độ từ  190 55’ đến 200 16’vĩ độ Bắc và từ  106o 00’ đến  106o 33’ kinh độ Đông . Bắc  giáp Hà Nam;  Đông Bắc  Thái Bình;  Tây giáp Ninh Bình;  Đông và Đông Nam  nhìn ra vịnh Bắc Bộ. Nam Định là vị trí trung chuyễn   giữa các  tỉnh phía Nam đồng bằng sông Hồng  và các tỉnh Bắc Trung Bộ. Thành phố - thị xã Nam Định cách thủ đô Hà Nội  90 km về phía Đông Nam ( theo quốc lộ 1A qua Phủ Lý, tỉnh lỵ Hà Nam)  và cách Hải Phòng  80 km.
            Diện tích tự nhiên năm 2006 là 1 649,86 km2, khoảng 0.5 %  diện tích tự nhiên toàn quốc, đứng thứ 50 về diện tích trong 61 tỉnh thành  của cả nước.
                           
                               Phân chia hành chánh

              Tỉnh Nam Định  thành lập năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831 ). Truyện thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh cho ta tưởng đến  cuộc tranh bá trên đất Giao Chỉ, giữa dân  bản xứ miền Núi  ( Inđônêxia - Mường ) với dân miền biển “ Hải Hậu”  họ Lạc  thuộc nhóm Bách Việt   trong dân Mân Việt - Phúc Kiến,  di thực đến  duyên hải phương Nam,  dựng nên  nước Việt đầu tiên  là Âu Lạc  hay Lạc Hùng, đóng đô ở  dưới chân núi Tản Viên, Tổ Sơn của Việt Nam ( Nguyễn Đăng Thục, tập san Sử Địa năm 1970 ). Dư Địa Chí của Nguyễn Trải , quyễn sách đầu tiền  viết về lịch sử và địa lý Việt Nam cho biết Hùng Vương chia nước Văn Lang ra làm 15 bộ.  Bộ Giao Chỉ  gồm Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình.  Đầu đời Trần Nam Định là lộ  Thiên Trường. Đời nhà Hậu Lê năm Quang Thuận thứ 7 ( 1466 )  là thừa tuyên Thiên Trường. Năm Quang Thuận  thứ 10 ( 1469 ) đổi là thừa tuyên Sơn Nam. Năm Hồng Đức thứ 21 ( 1490 )  gọi là xứ Sơn Nam. Năm Cảnh Hưng thứ 2 ( 1746)   chia ra làm trấn  Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Năm Minh Mạng thứ 3 ( 1822 ), trấn Sơn Nam Hạ  đổi thành trấn Nam Định. Năm 1831, trấn Nam Định  đổi thành tỉnh Nam Định . 
             Năm 1965  Nam Định và Hà Nam sáp nhập thành tỉnh Nam Hà . Tháng 12 năm 1975   Nam Hà và Ninh Bình sáp nhập thành tỉnh  Hà Nam Ninh. Năm 1992, tách  Ninh Bình  và trở lại  là tỉnh Nam Hà.  Năm 1996,  tỉnh Nam Định  được tái lập.
               Hiện nay  tỉnh Nam Định bao gồm thành phố Nam Định ( 15 phường) và 9 huyện và  (thị trấn huyện lỵ  : Mỹ Lộc , Vụ Bản ( thị trấn huyện lỵ là Gôi), Ý Yên ( Lâm ), Nam Trực ( Điền Xá), Trực Ninh ( Cỗ Lễ ), Xuân Trường ( Xuân Thượng ), Giao Thủy  ( Ngô Đồng), Hải Hậu ( Yên Định ), Nghĩa Hưng ( Thịnh Long );  và 202 xã.       
                       
                             Dân  số, mật độ và cơ cấu

      Tính đến  ngày 1-4- 1999 dân số của Nam Định là  1888,400  người, đứng thứ 3  trong các tỉnh đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 8 trong toàn quốc. Năm 2002 là 1931700 người và  năm  2006 là 1975181. Theo sác xuất  dân số gia tăng này, năm 2010, Nam Định đã trên 2 triệu người.
         Những đơn vị  hành chánh có đông dân số  ( năm 1999 ) là  huyện Hải Hậu  ( 281 000 ) ,  huyện Ý Yên ( 242 000)  thành phố Nam Định ( 241000 ). Nơi ít dân nhất là huyện  Mỹ Lộc ( 65 000 ). Sác xuất  tăng dân số trung bình  thời kỳ 1989-1999 của Nam Định là 1.2 %  Vào loại thấp  so với các tỉnh  ở vùng đồng bằng sông Hồng. Huyện Ý Yên  có sác xuất gia tăng  rất thấp, nhờ thực hiện chánh sách  qui hoạch gia đình đạt kết quỉa cao nhất tỉnh. Điểm đáng chú ý là từ năm  thập niên 1990, tốc độ gia tăng của thành phố Nam Định  càng giảm( ? ), tốc độ gia tăng cơ học có khi là âm. Có lẽ đặc biệt vào năm 1994 , khi GDP Nam Định tăng trưởng âm ( -1.9 % ),  vì ngành công nghệ dệt Nam Định khủng hoảng trầm trọng, sản xuất đình trệ, nhiều nhà máy đóng cửa.
               
                           Địa hình

              Nam Định là tỉnh  đồng bằng ven biển nhìn chung bằng phẳng, ít phức tạp, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Đồi núi thấp, độ cao 70- 122 m , chỉ chiếm diện tích nhỏ hẹp thuộc một số xã các huyện Vụ Bản, Ý Yên, tiếp giáp tỉnh Ninh Bình. Cao nhất  là “núi”  Gôi  122m , trên quốc lộ số 10 và  giữa đường xe lữa nối thành phố Nam Định với thị xã Ninh Bình.  Có thể chia địa hình tỉnh Nam Định ra là 2 vùng chính: vùng đồng bằng thấp trũng nội đồng và  vùng đồng bằng ven biển.
            - Vùng đồng bằng thấp trũng, nội đồng bên trong đê gồm các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc,  Nam Trực, Trực Ninh,  Xuân Trường và thành phố Nam Định.  Điểm thấp nhất nội đồng bên trong đê là   huyện Ý Yên  dưới mực nước biển 3m . Tổng diện tích vùng nội đồng khoảng  921 km2 . Nội đồng  có bề mặt  tích tụ dày phù sa màu mỡ, nhiều khả năng  nông nghiệp thâm canh, cao năng .
             - Vùng đồng bằng ven biển  gồm các huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy , tổng diện tích 748km2 , chiếm gần 45 % diện tích toàn tỉnh.  Vùng này được các trầm tích sông biển bồi tụ  và hiện nay vẫn còn được phù sa bồi tụ. Nhưng nếu đắp đê  thì vùng trong đê không còn được bồi nữa. Các huyện Hải Hưng vẫn  đang có xu hướng lấn dần ra biển. Vùng ven biển hai huyện  Giao Thủy và Nghĩa Hưng  ở cửa Ba Lạt đang được bồi tụ nhanh, tốc độ tiến ra biển khoảng 100- 120m/ năm   và cứ sau 5 năm lại  mở rộng thêm diện tích  khoảng 1500 - 2000 ha. 
         Bờ biển Nam Định dài 72 Km, bị chia cắt mạnh bởi các cửa  của sông Hồng là cửa Ba Lạt, cửa sông Đáy là cửa Đáy, và cửa sông Ninh Cơ là Lạch Giang .

                  Thủy văn 

         Nam Định có  hệ thống sông ngòi khá dày đặc.  Các sông đều chảy theo hướng   Tây Bắc - Đông Nam rồi đổ ra biển.  Các sông chảy qua địa phận  Nam Định  phần lớn phụ thuộc  hạ lưu, nên lòng sông rộng và không sâu lắm, có quá trình bồi đắp  phù sa ở cửa sông . Dòng chảy quanh co, uốn khúc, tạo  hình móng ngựa rõ nét ; tốc độ sông chảy chậm, độ dốc lòng sông nhỏ . Hằng năm  các sông đổ ra biển  một lượng nước và phù sa rất lớn.  Đặc điểm địa hình và khí hậu chia chế độ nước sông ra làm hai mùa rõ  rệt : mùa lũ và mùa cạn . Mùa lũ,  lưu lượng  nước các sông khá lớn; gặp lúc  mưa to kéo dài, nếu không có  hệ thống đê điều  ngăn nước  thì đồng bằng sẽ ngập lụt ( vào mùa lũ , mực nước sông Hồng  cao hơn mặt đồng bằng Nam Định  khoảng  10-12 m ) . Vào mùa cạn , lượng nước sông giảm nhiều,  các sông chịu ảnh hưởng lớn của thủy triều  khiến cho các  vùng cửa sông bị nhiễm mặn .
Muốn tắm mát lên ngọn sông Đào
           Các sông lớn  là sông Nam Định còn gọi là sông Đào , sông Ninh Cơ và sông Hồng . Sông Đào  uốn lượn  nối sông Hồng với sông Đáy, dài hơn 50km, rộng khoảng 500- 600m, có giá trị lớn  trong nông nhiệp, cung cấp nước tưới và giao thông trong tỉnh. Sông Ninh Cơ là một nhánh của sông Hồng, bắt nguồn từ phía Bắc huyện Giao Thủy  chảy qua Lạc Quần xuống phía Nam, rồi đổ ra Biển Đông  tại cửa Lạch Giang. Sông dài  35-40km  và rộng khoảng 400- 500m. Hạ lưu sông Hồng làm thành ranh giới hai tỉnh Nam Định và Thái Bình,  rồi đổ ra biển tại cửa Ba Lạt. Chiều rộng  trung bình  của đoạn sông này khoảng 500 - 600m. Giữa cửa Ba Lạt và cửa Lạch Giang còn có cửa lớn là Hà Lạn . Cửa Đáy thuộc về Nam Định, tuy  phần sông Đáy  phân ranh Ninh Bình và Nam Định,  thường được xem là thuộc Ninh Bình ( ? ). Nếu kể cả sông Đáy thì tổng số chiều dài của 4 sông lớn Nam Định  là 251 km.
          Ngoài các sông lớn kể trên, Nam Định còn  có mạng lưới  các sông nhỏ dày đặc  đóng  vai trò hết sức quan trọng  trong việc tưới tiêu, cung cấp nước cho dân địa phương.   Có cả thảy ở Nam Định  21 hệ thống sông kênh  nhỏ, phân bố theo hình xương cá  tổng cọng dài 279 km .      
          Nam Định còn  có nhiều ao, hồ đầm lớn, vừa là nơi nuôi cá nước ngọt, vừa cung cấp  nước tưới cho cây trồng .  Hồ Vị Xuyên  nẳm  ở trung tâm thành phố Nam Định  có cảnh quan đẹp, có giá trị du lịch, vui chơi giải trí.
         Hai tầng  chứa nước ngầm ở Nam Định là  tầng  chứa nước lỗ hổng  Holoxen  hệ tầng Thái Bình  và tầng chứa nước  Pleiistoxen  hệ tầng Hà Nội.  Hiện nay nước ngầm   chỉ mới được khai thác sử dụng một phần rất nhỏ.  
       Bờ biển tỉnh Nam Định chịu ảnh hưởng của thủy triều, chế độ nhật triều ( một ngày chỉ có một lần thủy triều lên, một lần  thủy triều  xuống ) rỏ rệt như mọi bờ biển Vịnh Bắc Bộ . Biên độ  trung bình   từ 1.6m đến 1.7 m, cao nhất  là 3.3m và thấp nhất là 0.1m . Trên sông Hồng,    dòng triều cao truyền xa đến 180km , nhưng không quá xa như ở Sông Cửu Long , truyền mãi đến thị trấn KompongCham trên Cam Bốt. Nước triều cao  lấn sâu vào nội địa  và làm nhiễm mặn nước sông và hệ thống kinh mương  và đất đai. Tuy nhiên đất nhiễm mặn ở Nam Định chiếm một diện tiích không lớn.  Dòng chảy hai sông  Hồng và sông Đáy bị chế độ thủy triều ảnh hưởng  làm trầm tích  phù sa ở hai con sông này .   Thành quả ở Nam Định là   có nhiều gò đất  phù sa khá rộng  gọi là Cồn như  Cồn Lu  và Cồn Ngạn  ở  huyện Giao Thủy,  Cồn Trôi ( ? ) và Cồn Mơ (? ) ở huyện  Nghĩa Hưng .

               Khí hậu  

           Cũng như các tỉnh khác vùng đồng bằng sông Hồng, Nam Định điển hình  có khí hậu nhiệt đới gió mùa , một mùa đông lạnh và một  mùa hạ ẩm ướt nhiều mưa. Mùa hạ  bắt đầu tháng 5 và kết thúc tháng 10 ; thường có gió mùa Đông Nam  gây mưa nhiều , thỉnh thoảng có  bảo và áp thấp nhiệt đới . Mùa đông bắt đầu tháng  11 và kết thúc vào tháng tư năm sau ; thường có gió mùa Đông Bắc mang theo không khí lạnh, trời mưa phùn, làm tăng ẩm độ  nên ít nơi bị hạn hán.
            Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23- 24 0 C ( 73- 75 0 F ). Hai tháng lạnh nhất là tháng giêng và tháng hai , nhiệt độ trung bình là 16-17 0 C ( 61-630 F )  Tháng nóng nhất là tháng 7 ,  nhiệt độ thường cao hơn 290 C  ( 84 0 F ).  Lượng mưa trung bình hàng năm là 1750mm- 1800mm ( 69- 71 ngón- inches Anh  ) . Biên độ mưa  là từ 1200mm đến 2000mm . Mưa tập trung các tháng mùa hạ ( 7, 8 , 9 ) . Mưa mùa đông là mưa nhỏ,  mưa phùn. Tháng ít mưa nhất là tháng giêng. 
            Số giờ có ánh sáng mặt trời chiếu  hàng năm  trung bình 1650- 1700 giờ.  Ẩm độ tương đối trung bình  là 80 - 85% . Nói chung,  các đặc điểm khí hậu Nam Định khá thích hợp cho việc phát triễn trồng trọt chăn nuôi  và các hoạt động du lịch. Tuy nhiên Nam Định cũng có nhiều yếu tố thời tiết   bất lợi, nhất là bảo và áp thấp nhiệt đới đổ bộ từ Biển Đông - Vịnh Bắc Bộ  vào, từ tháng 7 đến tháng 10, mang theo  gió mạnh và mưa lớn, gây thiệt hại cho vùng ven biển , trung bình 4- 6  cơn bảo tấn công một năm. Năm 2005, bảo  và mưa lớn  nhất trong 100 năm qua ,  làm lụt lội  nhiều vùng rộng lớn Nam  Định,  nhất là sau khi  nhiều nơi đê  ngăn biển bị phá vỡ.  Ngoài ra còn có gió Tây khô nóng, sương mù , sương muối.  Ngày 12 tháng 6 năm 2000, còn bị bảo táp - vòi rồng ( tornado ? )  ở các xã Bình Hòa, Giao Hà ( huyện Giao Thủy ),  làm 3 người chết, hàng chục người bị thương, làm thiệt hại khoảng 200 ngôi nhà.

                 Đất đai  

          Đất chủ yếu của Nam Định hình thành từ phù sa sông. Độ phì nhiêu khá, đặc biệt ở những nơi hàng năm  còn được phù sa bồi đắp. Cấu tạo là đất thịt  nhẹ đến trung bình, khả năng giữ nước và giữ chất dinh dưỡng khá tốt. Vùng phía Bắc tỉnh  gồm  các huyện Ý Yên , Vụ Bản, Mỹ Lộc  và thành phố Nam định.  Vùng phía Nam tỉnh  gồm các huyện  Trúc Ninh,  Nam Trúc, Xuân Trường , Hải Hậu , Nghĩa Hưng và Giao Thủy.   Đất dai phần lớn là đất phù sa trẻ -   young alluvial soils ( fluvisols) , chiếm đến 82 %  tổng diện tích.  Đất kiềm  chiếm  14 %  diện tích tỉnh nhà. Các đất khác  tương dối nhỏ: như đất cát,  đất ferralitic.  Tuy nhiên ở  đồng bằng chiêm trũng, thuộc các huyện Vụ Bản , Ý Yên,  các địa hình trũng có thời gian ngập úng  trên 6 tháng  bị gley hóa mạnh làm thành đất glây - gley( Dystric  Gleysols)   hay đất  glây chua , có phản ứng rất chua ở phần đất mặt, khả năng hấp thu thấp kém, nghèo  dưỡng liệu.  Đất mặn phân bố  ở vùng ven biển  thuộc các huyện Hải Hậu, Giao Thủy.  Từ cửa sông Ba Lạt đến cửa sông Ninh Cơ, đất bị nhiễm mặn của thủy triều; nhưng như đã nói diện tích đất mặn nhỏ .

               Danh lam thắng cảnh

             Công viên Quốc gia Xuân Thủy

             Đây là một khu bảo tồn  tư nhiên  thảm thực vật ven biển  với hệ thống  sinh thái  như bần Sonneratia  ( gồm sáu loài, loài nhiều nhất ở Xuân Thủy là bần Chua S. hay Rhizophora  caseolaris , ở của sông còn chút nước lợ, nhưng chịu mặn nhất lại là  bần trắng  S.  alba  nhiều ở rừng sác Vũng Tàu), đước ( nhiều nhất là loài đước chằng nơi đất cát R. stylosa ), vẹt ( vet dia - vẹt thang  Kandelia hay Rhizophora candel)… . Công viên Xuân Thủy  cũng  là nơi cư trú  các loài hải sản:  phong phú về giống loài cá, nhưng  lại nghèo về trử lượng  và mật độ nhất là các loài cá  có giá trị kinh tế cao,  và đáng ngại là loài “Cá mòi Cò”    Clupanodon  thrissa đã ghi ở Sách Đỏ Việt Nam dễ bị hiểm nguy tuyệt tích; đã phát hiện  45 loài tôm trong số hơn 200 loài định danh ở Việt Nam trong đó có nhiều loài giá trị kinh tế đáng kể : tôm he tông Penaeus, tôm sắt tông Parapenaeopsis , tôm bộp- tôm rảo tông Metapenaeus  … , bào ngư , sò huyết,  sò hàu, sò điệp  hai mảnh vỏ , nhiều nhất ở đây là điệp nhật nguyệt  Amussium  japonica … Có giá trị thêm nhất cho phát triễn du lịch sinh thái  biển, nhưng chưa phát triễn gì mấy ở công viên Xuân Thủy, nơi sinh sản cư trú của nhiều loài chim . Xuân Thủy đã kiểm kê hơn 200 loài chim và là nơi  bay  qua và  ngưng đậu mùa đông của khoảng 60 loài  chim nước - thủy cầm   di cư lớn nhất  của Bờ biển Châu thổ Sông Hồng . Đông nhất là là Cò thìa Black faced Spoon Bill , và hiếm hoi là các loài Tu híp - Chim Choắt  Mỏ thìa Spoon bill Sandpiper, Mòng biển Saunder’s Gull,  Sếu Xanh điểm Chấm  Spotted  Green Shank . Cò Thìa  cũng như 8 loài thủy cầm di cư khác  cũng đã được Sách Đỏ  ghi là đang bị hiểm nguy tuyệt tích. Xuân Thủy cũng là  nơi nhiều loài chim không phải thủy cầm  ngừng chân như các loài chim sẽ passerines , chim gáy cuckoos   di cư mùa xuân và mùa thu.  Mùa hạ có thể ngắm các đàn bồ nông  mỏ chấm Spotbill Pelicans  và Cò sơn Painted Stork .  
            
                  Chùa Phổ Minh

              Nam Định có nhiều  di tích lịch sử văn hóa cho ngành du lịch : quần thể di tích hành cung  nhà Trần ở Tức Mặc, chùa Phổ Minh,  đền Thiên Trường Phủ Giầy, chùa Cỗ Lễ , chùa Keo Hành Thiện…   Nam Định còn có nhiều lễ hội hấp dẫn du khách: lễ hội  Thiên Trường-Tức Mặc   kỷ niệm chiến công của nhà Trần, lễ hội Phủ Giầy thờ bà chúa Liễu Hạnh, lễ hội Chùa Keo Hành Thiện…Nhưng đáng kể nhất là  tháp chùa Phổ Minh
            Chùa Phổ Minh còn gọi là chùa Tức Mặc  hay chùa Tháp, xây dựng năm 1262  trên đất thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc , cách thành phố  Nam Định chừng 5km về phía Bắc.  Chùa Phổ Minh là một kiến trúc  cỗ đặc sắc Viêt Nam, niên đại khởi công chỉ sau Chùa Một Cột, dựng năm  1049, thời vua Lý Thái Tông. Tên chữ Chùa Một cột là Diên Hựu  nghĩa là phúc lành dài lâu. Quy mô Chùa Một Cột không phải nhỏ như ngày nay  mà to lớn lộng lẫy hơn nhiều.  Tháp Phổ Minh xây xong  năm 1305, chiếm vị trí  trung tâm chùa Phổ Minh.  Xin đừng lầm lẫn với chùa Bút Tháp, tên chữ là Ninh Phúc ở Hà Bắc - Bắc Giang , xây dựng  năm 1646 - 47 đời Hậu Lê, có nhiều tháp  trong đó đặc biệt là tháp Bảo Nghiêm xây bằng đá cao 13.05m,  năm tầng với một tầng đỉnh xây bằng đá xanh. Công trình xây dựng chùa Phổ Minh  theo một trục cân xứng  từ Tam Quan , nhà Bia,  tháp đến tòa Tam Bảo. Trong chùa có nhiều tượng đẹp dáng sinh động như  pho Phật Nhập Niết Bàn, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát .  Hơn 700 năm chống chọi với  khí hậu khắc nghiệt,  hầu hết kiến trúc gỗ đã bị hư hại. Ngày nay chỉ còn  lại 4 cánh cửa gỗ lim  chạm rồng là di sản từ thời Trần, qua đó có thể  nhận thức là thuở ban đầu, chùa phổ Minh rộng rải như thế nào,  chạm trỗ cũng  tinh xảo,  lộng lẫy  hơn ngôi chùa  thời sau dựng lại cho đến ngày nay. Kết cấu gạch đá lưu lại nhiều hơn, tiêu biểu là tháp  Phổ Minh,  một công trình gạch đá hổn hợp. Giải pháp  kiến trúc - điêu khắc hòa quyện  chặc chẻ,  thể hiện  sâu sắc tư tưởng Thiền học Trúc Lâm .Tòan bộ trang trí đều thể hiện nghệ thuật Thiền Trúc Lâm, lấy thiên nhiên làm chủ đạo.  Tháp Phổ Minh  gồm 14 tầng cao 19m , mặt bằng hình vuông, sân vuông mỗi chiều dài 8.6m , sâu chừng 0.5m , xung quanh có lan can, mở cửa bốn phía, thềm bậc trang trí rồng đá, sóc đá.  Tầng đế tháp xây bằng đá xanh, mang hình bông sen nở  xòe trên mặt nước, cao 2.2 m ,rộng 5.2m,  bốn góc có trụ giả  đỡ đầu rồng. Các tầng trên  xây gạch trần, bốn góc nẹp đá, bốn mặt có cửa cuốn tò vò, thu nhỏ dần theo chiều cao, kết thúc bằng chỏm nhọn hình bầu rượu. ( chiếu theo kiến trúc sư Đặng Thái Hoàng, “10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc” năm 2000 )                       
                        
            Danh nhân tỉnh nhà            
           Nam Định là một trong những cái nôi của nền văn hóaViệt Nam, là vùng đất nổi tiếng văn vật từ ngàn xưa, có nhiều người đỗ đạt cao trong lịch sử, sản sinh ra nhiều danh nhân  làm  rạng rỡ truyền thống  văn hiến , quê hương đất nước.  Sau đây là vài nhân vật Nam Định :
        
          *“ Người đàn bà hạ thành Cổ Lộng:  Ả đào say, Kiến Quốc Phu nhân ”
         Trước tiên là “Ả đào say”  tên kịch của  …. Bà Lương thị Minh Nguyệt  người làng Chuế Cầu,  huyện Ý Yên,  tỉnh Nam Định.   Hay tin Lê Lợi  dựng cờ Đại nghĩa Bình Ngô  , bà lặn lội từ quê nhà đến thượng du Thanh Hóa gặp Lê Lợi xin đầu quân .  Lê Lợi chấp nhận, nhưng lại giao cho bà trở về Bắc  theo dõi tình hình  giặc ở thành Cổ Lộng, một căn cứ quan trọng  của giặc Minh  ở đồng bằng Bắc Bộ. Bà đã cùng chồng  là Đinh Tuấn mở hàng ăn và rượu ở gần thành, vừa che mắt địch, vừa tiện theo dõi và thu thập tin tức địch tình.  Cuối năm 1426 , đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu kéo quân ra vây đánh  các thành  vùng Bắc Bộ giặc Minh chiếm đóng.  Đêm đến, bà cùng chồng mở tiệc khao quân giặc ở quán.  Bà cùng các ca nữ hát múa, chuốc rượu cho quân lính giặc say mèm, rồi chui vào  bao tải ngủ để tránh muổi. Lúc đó bà cùng  chồng và các ca nữ lần lượt buộc  túm các đầu bao tải và vứt từng tên suống sông. Xong, bà phát tín hiệu cho nghĩa quân.  Tư Mã Cao Ngự và nghĩa quân nhận được tín hiệu  đánh vào  hạ thành Cổ Lộng dễ như trở bàn tay. Đất nước ca khúc khải hoàn, bà được vua Lê Thái Tổ phong làm Kiến quốc phu nhân.  Vua Lê Thánh Tông phong bà làm Phúc thần làng Chuế Cầu.

          * Nhà Toán học thế kỷ thứ 15  Lương thế Vinh

           Lương thế Vinh,  sinh năm 1441, quê ở  huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông thường được gọi thân mật là Trạng Lường ( đo lường ). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng. Ngoài việc  tinh thông sách  vở của thánh hiền   ông còn ham thích toán học. Năm  1463,  mới  22 tuổi, ông đã thi đổ trạng nguyên. Ông được xem là “tổ sư  của  nghề toán”  ở Việt Nam. Theo sử sách cũ thì ông là người  làm ra bàn tính hiện nay và phổ biến cho dân gian dùng. Ngoài ra ông đã biên soạn cuốn sách giáo khoa toán Đại Thành Toán Pháp, trong đó để  cho người học dễ nhớ  công thức, ông  đã dùng thơ nôm, tóm tắt ngắn gọn nội dung.

           *Nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ( 1835- 1909 )

            Nguyễn Khuyến hồi nhỏ tên là Nguyễn Thắng . Sinh năm 1835   tại làng Hoàng Xá , huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Từ nhỏ tư chất thông minh, mới 17 tuổi đã đi thi  cùng với cha là ông đồ Nguyễn Khải.  Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình, Nguyễn Khuyến đều đổ đầu nên  được mệnh danh là  Tam Nguyên Yên Đổ. (Thời nhà Nguyễn Phước  không cho ai giữ chức Tể Tướng-Thủ Tướng, chức Hoàng Hậu, chức Trạng Nguyên là người đổ đầu thi Đình; nên có thể nói là Nguyễn Khuyến đã đổ “Trạng Nguyên” , và vua Bảo Đại đã cải lệ tấn phong Nam Phương Hoàng Hậu) .  Ông được bổ quan ở Huế , rồi làm Đốc học Thanh Hóa, rồi Án sát ( phó tỉnh trưởng thứ nhì) Nghệ An,  Biện Lý bộ Hộ, rồi Bố chánh( phó tỉnh trưởng thứ nhất ) Quảng Ngãi.  Đến năm 1878, ông bị  điều về Huế  sung chức Trực học sĩ và làm Toản tư ở Quốc tử Giám. Sau đó buồn vì vận nước, không muốn cộng tác với Pháp nên ông xin từ quan. Nguyễn Khuyến để lại  200 bài thơ chữ Hán và 100  bài thơ chữ Nôm  tập hợp lại trong Quế Sơn thi tập. Tam Nguyên Yên Đổ nổi tiếng là một nhà thơ châm biếm . Nhà thơ đã hạ một câu rất mỉa mai  cho tượng một  Toàn Quyền Pháp  dựng gần hồ Hoàn Kiếm:  
                    Đáng thương văn vật trăm năm ấy,
                     Còn sót bên hồ một đá trơ ( Dịch ).
            Nguyễn Khuyến  phê phán  chế độ vua quan  đương thời qua lời nhân vật hát chèo:
                  Vua chèo còn chẳng ra gì
                  Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!
           Nhưng làm ta rung động hơn nữa là những bài thơ Nguyễn Khuyến viết về  nông dân, nông thôn,  quê hương, dân làng.  Ba bài thơ nôm bất hủ  viết về mùa thu ( Thu vịnh , Thu điếu,Thu ẩm)  và những bài viết về cảnh lụt ngày giáp Tết, trưa hè hay nói lên  sự lo toan vất vả của người nông dân, thể hiện rỏ Yên  Đổ là nhà thơ của nông thôn Việt Nam  ( Giang Hà Vỵ- 2000 )                                      
          
          * Tú Xương,- Trần Tế Xương ( 1870- 1907 )

            Cuộc đời nhà thơ Tú Xuơng, sinh ở Vị Xuyên -Nam Định, quá ngắn  chỉ sống 37 năm . Đổ đạt cũng không hơn cái chân tú tài quèn ( tú tài thi cử thời xưa là “đại học” không phải là tú tài tốt nghiệp cấp Trung học thời Pháp thuộc ).
                    …Viết vào giấy dán ngay lên cột,      
                        Hỏi mẹ mày rất dốt hay hay ?
                         Rằng hay thì thật là hay
                         Chẳng hay sao lại đổ ngay Tú Tài
                         Xưa nay em vẫn chịu ngài.
       Tú Xương để lại   khoảng  150 bài thơ Nôm, đủ thể loại thơ cổ điễn. Đặng Thái Mai khen Tú Xương  là một thầy tú cũng biết cười  bênh cạnh một ông nghè ( nghĩa là đã đổ tiến sĩ thời xưa ) Nguyễn Khuyến.  Xuân Diệu  xếp Tú Xương vào hàng thứ năm sau ba thi hào dân tộc là Nguyễn Trãi,  Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương và   Đoàn thị Điểm với bản dịch Chinh Phụ Ngâm, thơ  chữ  Hán của Đặng Trần Côn.  Các nhà thơ trào phúng sau nay đua nhau đặt tên là Tú Mỡ, Tú Sụn, Tú  Doanh … Tiếng cười trong thơ Tú Xương có đủ sắc điệu cá tính nghệ thuật độc đáo : dữ dội , quyết liệt có người gọi là độc địa  như  muốn tát vào mặt, xé xác người ta ra; khác với tiếng cười của Nguyễn Khuyến  hóm hỉnh, nhẹ nhàng , thâm thúy, cười mát, ít nhiều tính chất răn bảo. Mảng thơ trữ tình cũng  thật phong phú, nhưng chưa được  chú ý bằng  mảng thơ  trử tình trào phúng của ông . ( chiếu  theo Nguyễn Đình Chú - 2000 )   
          
           * Nhà văn Nguyên Hồng ( 1918- 1982 )

        Tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, gốc thị xã tỉnh Nam Định. Nhưng viết nhiều hơn về thành phố hải cảng Hải Phòng, vì gia đình  tiểu tư sản sa sút rơi xuống cảnh bần cùng , mồ côi cha từ thuở nhỏ , mẹ con phải  bỏ quê  hương ra Hải Phòng kiếm sống. Tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn  Linh hồn  ( tiểu thuyết thứ  bảy , 1936). Nổi danh hơn là cuốn tiếp  Bỉ vỏ  ( 1937), truyện một người đàn bà lương thiện  bị đẫy vào  cuộc sống lưu manh, gái điếm.  Những nhân vật phụ nữ như thế là nổi ám ảnh  đau đớn, bám riết  cuộc đời cầm bút  của Nguyên Hồng  trong hơn nữa thế kỷ,  từ Tám Bính ( Bỉ vỏ ),  Bẫy Hựu, Mợ Du ( Bẩy Hựu ), bà mẹ Hồng ( Những ngày thơ ấu ), Muống ( Quán Nải ) v.v… đến những Mẹ La , Gái Đen… trong bộ tiểu thuyết Cửa Biển sau này.  Người ta thường gọi Nguyên Hồng là   nhà văn của những người cùng khổ, những còn người “dưới đáy” . Toàn bộ tác phẩm của Nguyên Hồng đều nhắm thể hiện  những tình cảm nhân đạo sôi nổi  và thống thiết . Đặc điểm  đáng quý nhất của chủ nghĩa nhân đạo Nguyên Hồng là niềm tin không gì lay chuyễn được ở phía tích cực, phía ánh sáng của tâm hồn con người .  Ngoài những tập văn xuôi đầy chất thơ, Nguyên Hồng cũng là một nhà thơ thật sự, tứ thơ  rất khỏe, không lấy cảm hứng  từ mây, gió, trăng , hoa…  mà cất luyện từ than bụi nhà máy, bến tàu,  từ sỏi đá đồi khô cỏ cháy hòa với mồ hôi mặn chát và nóng bỏng  của những người lao động. Nhưng Nguyên Hồng  không phải bi quan  mà lạc quan mãnh liệt, một thứ bản năng tự nhiên, rất khỏe luôn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Một bút pháp  lãng mạn hùng tráng  ở một thế giới hình tượng luôn luôn có sự đối lập  quyết liệt giữa bóng tối và ánh sáng, giữa nắng vàng trời xanh và bảo tố, giữa địa ngục và lò lữa, giữa tính cách thánh thiện và  tâm địa ma quỷ. Như Cậu  Khòa, một nhân vật tương tự  Quasimodo  trong truyện Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo . Như  cơn sám hối  giằng xé nội tâm dữ dội, trường hợp Mẹ La can tội giết chồng hay Gái Đen trót  có mang  với một tay phản bội Cách Mạng  … , những  nhân vật đặc sắc của bộ tiểu thuyết Cửa Biển. Cuộc đời  và tác phẩm Nguyên Hồng có nhiều điểm rất gần với nhà văn  Nga Maxim Gorki . ( chiếu theo Nguyễn Đăng Mạnh  -2000 ).

           * Nguyễn Bính , nhà thơ của ca dao , hương quê Việt Nam ( 1919- 1966 )

Có sách nói là Nguyễn Bính sinh năm  1918 ở Nam Định . Được  Tự Lực Văn Đoàn  tặng giải khuyến khích thi ca năm 1937 với tác phẩm “ Tâm Hồn Tôi”.  Thi nhân liên tiếp đăng thơ trên các báo Ngày Nay,  Tiểu thuyết thứ Bảy, tiểu thuyết thứ Năm. Từ 1940 đến 1942, tác giả đã xuất bản nhiều tập thơ  như “ Bước Sang Ngang”, “Tâm Hồn Tôi”, Mười Hai Bến Nước”,  được cả toàn quốc thưởng lãm, tên tuổi được đưa vào “ Thi Nhân Việt Nam” như là một nhà thơ  của Ca Dao, của Đồng Quê để làm cho tất cả hương quê  Việt Nam được  thăng hoa thành Thơ , từ tình đến cảnh. Sau 1940, Nguyễn Bính lên đường vào Nam, dừng chân tại Huế và sáng tác một số thi phẩm ghi vài nét “ rêu xanh”   trong trang “hoài cổ” :
                     Cầu cong như chiếc lược ngà
                     Sông dài  mái tóc  cung nga  buông hờ.
                     Đôi bờ đôi cánh  tay vua,
                     Cung nga úp mặt  làm thơ thất tình. …
                 …Ở đây có nước sông Hương,
                     Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao
                    Bồng bồng sáu nhịp cầu cao ,
                    Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh,
                    Thâm u một  dải hoàng thành,
                    Đỉnh suông con én  không đành bay đi
                                  ( Vài nét Huế )
            Nguyễn Bính  từng là nạn nhân của “ trăm hoa đua nở”, chánh sách lừa dối  Bắc Việt mô phỏng Mao Trạch Đông, cho đến ngày tàn vào  ngày 10 tháng giêng năm 1966  sau cơn thổ huyết , chỉ với  49 tuổi đời với bao nhiêu đọa dày, khi  “ Tỉnh giấc chiêm bao” , thi nhân mới thấy rằng chánh sách thật độc ác. ( Dòng Việt - 2002 ).

              *Nhạc sĩ Văn Cao   ( 1923-1995)

            Nguyễn Văn Cao quê Nam Định, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923. Tuổi 18, đôi mươi, tài năng Văn Cao đã lộ diện và khẳng định  với những ca khúc Thiên Thai, Trương Chi, Cung đàn xưa , Suối mơ ...  là những vẻ đẹp hồi cổ, vang bóng một thời. Rồi Văn Cao đến với Cách Mạng  tháng 8 năm 1945  bằng Tiến quân ca  mà  nét nhạc đầu tiên   theo hồi ức của chính Văn Cao,  ông đã tìm thấy trong ngọn lữa  tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt” của những người đói khổ. Tiến quân ca là sự thanh lọc của tâm hồn nghệ sĩ, để trở thành một cái gì thuộc về Hồn Nước. Song không phải chỉ có thế ! Giai điệu Văn Cao với những Bắc Sơn, Làng  tôi, Trường Ca sông Lô, Tiến về Hà Nội v.v… đã đi theo  tuổi trẻ Việt Nam   suốt chiều dài  cuộc  kháng chiến  chống thực dân Pháp, trở thành một mảnh  đời  của họ, cùng họ  qua mọi thăng trầm  đất nước. Đáng tiếc là những  nhạc phẩm trử tình, đầy thơ mộng êm dịu trước đó, lại bị Miền Bắc cấm trình bày, từ năm 1956 đến năm 1987, vì nghi  Văn Cao tham gia chương trình “Nhân Văn Giai Phẩm” . Nhiều người  nói: trong âm nhạc,Văn Cao  sang trọng  như một ông hoàng. Và họ cũng nói : Văn Cao là  khách hành hương về mọi nẻo đường  của văn chương nghệ thuật. Văn  Cao là  nghệ sĩ nhiều chiều : nhạc sĩ , họa sĩ , thi sĩ …   Với Nàng Thơ , ông đã làm  quen từ thuở đôi mươi. Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc , nói lên chết  chóc vì nạn đói khủng khiếp 1945- 46 đã đi vào sách giáo khoa. Tiếp theo  là Cửa Biển  những năm 1960 và Qui Nhơn những năm 1980. Triết lý Văn Cao là hào hoa, sang trọng. Văn Cao đúng là một  bậc tài hoa đất Việt ( chiếu theo Trần Quốc Vượng- 2000 )

                 Phần II : Lạm Bàn về Phát triển Nam Định 


Tuy có nền văn hiến lâu đời , dân cư đông, nguồn lao động trẻ , dồi dào có kiến thức và trình  độ kỹ thuật khá cao ở đất nước  và một nền  kinh tế  phát triễn tương đối sớm , nhưng Nam Định chuyễn dịch theo xu hướng chung cả nước , phù hợp với xu thế  thế giới, trong đó tỉ trọng  các ngành sản xuất vật chất phải giảm và các ngành  phi vật chất- tri thức phải tăng. Trong nội bộ các ngành sản xuất vật chất, xu hướng là  phải giảm tỉ trọng nông lâm ngư nghiệp,  và tăng tỉ trọng của khu vực công nghiệp, xây dựng. Thế nhưng  đến năm 1997,  khu vực công nghiệp - xây dựng chỉ   mới  chiếm  18.7% GDP. Còn khu vực nông lâm ngư nghiệp, tuy có gia giảm đôi chút  từ 46, 1 % năm 1993 xuống 43, 1 % năm 1997 GDP , nhưng vẫn  còn đứng hàng thứ nhất trên hẳn  dịch vụ  chiếm  38.2% năm 1997. Qui hoạch năm 2010 Nam Định dự trù tăng  9% hay hơn nữa GDP mỗi   năm ( theo giá năm 1994 )  và năm 2010  nông lâm ngư  chỉ còn tăng theo sác xuất 2-2.5 %  mỗi năm , tỉ trọng giảm  xuống 29.8 % GDP , công nghệ và xây dựng  36.0% và dịch vụ  34.2%.

                                                                       
      * II - A :  Nông nghiệp Nam Định cần chú trọng  hơn nữa về lúa lai đời F1 và phát triễn nuôithủy sản: nước mặn, nước lợ lẫn nước ngọt.
         
              1- Lúa lai ưu thế lai đời F1,  tiếp nối  lúa kiểu cao năng Thần Nông

          Nam Định là một tỉnh trọng điểm  lương thực  toàn miền Bắc. Sản xuất cây lương thực lẽ dĩ nhiên,  đặc biệt là trồng lúa  chiếm ưu thế, diện tích lúa năm 1998 chiếm  88% tổng diện tích cây trồng ( năm đó là  105 437.7  ha, hay  63 % diện tích đất tự nhiên của tỉnh). Diện tích lúa từ lâu, hầu  như không thay đổi  khoảng 164 000 ha ( diện tích cả ba vụ , đông xuân , hè thu , vụ mùa) từ năm 1995 đến năm 2002, thậm chí còn  giảm đôi chút so với năm  2000, năm diện tích lúa Nam Định  trên 166 000 ha. Trái lại năng xuất tăng đều từ 4. 82 tấn lúa ( thóc )/ha năm 1995 lên đến 5.96 tấn/ha năm 2002 . Sản lượng lúa cả năm của Nam Định cũng tăng từ 787 000 tấn năm 1995 lên trên 978 000 tấn năm 2002.  Giúp tỉnh an toàn  về lương thực và bình quân đầu người  trên 500kg qui thóc /người /năm,  cao hơn cả nước 18.8% và cao  hơn vùng đồng bằng sông Hồng  25.7 % .  Sản lượng lúa cả năm ở Nam Định đã hơn hẳn ở Hà Tây (  978 000 tấn so với  966000 tấn năm 2002 ) , đứng hàng thứ hai  các tỉnh Đồng Bằng sông Hồng, chỉ sau tỉnh Thái Bình (  1066 000 tấn năm 2002 ) .
           Sở dĩ như vậy là nhờ tỉnh Nam Định đã trồng nhiều lúa lai ưu thế lai - hybrid riceTheo bộ Nông Nghiệp Việt Nam, diện tích trồng lai ưu thế lai ơ/ Việt Nam  đã tăng từ 11 094 ha năm 1992 lên đến 584 000 ha năm 2006  ( 346 000 ha  vụ đông xuân và  238 000  ha vụ  hè thu . Có phần ít hơn đôi chút  so diện tích lúa thế lai đạt năm 2003 là 600 000 ha( theo  Grain - 2005 ).  Diện tích lúa ưu thế lai Nam Định năm 2006 là 36 000 ha, chỉ thua Ninh Bình  ( 84 000 ha năm  2006, giảm bớt 10 000 ha so với năm 2000) ở đồng bằng sông Hồng. Diện tích lúa ưu thế lai Việt Nam, từ năm 1997,  đã trên hẳn  Ấn Độ , đứng hàng thứ hai  trên thế giới,  chỉ sau Trung Quốc ( 17 708  000 ha năm 1997 và  năm  2003 là 15  210 000 ha ) .
          Nhắc lại là phương pháp tạo hột giống lúa ưu thế lai ( đời F1  )  và sản xuất đại trà  thành công đầu tiên  ở Trung Quốc vào giữa thập niên 1970 , ở Việt Nam  và Ấn Độ giừa thập niên  1990 như đã kể trên và ở Phi Luật Tân  vào những năm đầu của thế kỷ  thứ 21. Trong khi đó bắp lai ưu thế lai  đã bắt đầu trên thế giới từ thập niên 1930.  Vì đặc tính lúa là tự thụ tinh, nên trước tiên  chuyên gia phải  áp dụng cách lai tạo giống riêng biệt dùng các dòng bất dục đực thuộc tế bào chất - cytoplasmic male sterile lines hay  CMS và dòng phục hồi - restorer lines hay R  của phương pháp bắp lai , nhưng họ thất bại.  Mãi cho đến khi hai chuyên viên tuyễn chọn di truyền  Trung Quốc là  Li Bi Hue và Feng Keshau, năm 1970, tìm ra  được cây lúa hoang dại  với phấn hoa bị thoái hóa ở trại lúa Nan Hong , đảo Hải Nam. Nhờ  đó  phương pháp lai 3 dòng , gồm dòng  bất dục đực, dòng bảo tồn - maintainer lines hay B và dòng  phục hồi được áp dụng.Trong số những  dòng bất dục đực đầu tiên  Erjiu Ai Ya,   Zhenshean  97 A, V20A, V41 A ở Trung Quốc , chỉ dòng  V20A thông dụng hơn  hết. Những  dòng phục hồi đầu tiên tuyễn  chọn là các giống Thần Nông IR như IR 24 , IR6, IR 661 và Thai Yin.  Đến cuối năm  1974,  các chuyên viên lúa Trung Quốc mới hoàn tất  phương pháp sản xuất lúa lai ưu thế lai 3 dòng . Tưởng cũng nên kể lại giai thoại chánh chuyên viên Việt Nam  của Lúa Gạo Quốc Tế FAO được phái sang Hoa kỳ cuối thập niên 1980  quan sát chương trình lúa lai ưu thế lai Mỹ đang  khảo cứu cùng hai chuyên viên Trung Quốc là Viên hay Doãn(  Yuan ) Long Bình  và Li Bi Hue, tại các trung tâm khảo cứu lúa đại học Texas  A&M và Louisiana; khi về đề xướng kỷ thuật mới sản xuất lúa lai ưu thế lai Trung Quốc , nối tiếp cách trồng lúa cao năng IR ( VN mệnh danh là lúa Thần Nông từ năm 1967 ) các thập niên 1960-70- 80 của IRRI , bị IRRI phản đối kịch liệt ( tuy IRRI sau đó giảng hòa và cũng chấp thuận cộng tác khảo cứu thêm kỷ thuật lúa ưu thế lai ). Nhưng may mắn được ông nguyên Tổng giám đốc  FAO thông hiểu, đồng ý  bảo trợ  cho Việt Nam phát triễn, chẳng hạn qua  FAO /TCP / VIE/ 2251( 1992- 93 ) và sau đó là FAO/TCP/Vie / 6614 ( 1996-98 ).Những tổ hợp lai đầu tiên của Trung Quốc như Wei you2  Wei you 3, Weiyou 6 , Shan you 3,  Shan you  6 , Nam You  2,  Nam you 3,  Si you 2, Si you  3,  và Siyou 6, càng ngày càng bị  các tổ hợp lai đa dạng hơn thay thế, nhờ tạo ra những  dòng( A ) CMS đa dạng hơn, cũng như các dòng bảo tồn B và dòng phục hồi R thích ứng hơn. Ngay tại Việt Nam , các  tổ hợp lai HYT -56 (từ cha - mẹ IR8025A/ 242 R),  phóng thích năm 1998 hay các tổ hợp (? ) phóng thích năm 2000  từ cha- mẹ AMS 24A/ Quế 99  hay từ AMS24A/IR9761  đều đã bị các tổ hợp lai  VL20 , VL  24,  TH3-3 , TH 3-4,  HYT 83 , và HYT92 thay thế, cũng như  các dòng cha- mẹ  tân tạo đa dạng hơn như 103S, TIS-96, T4S ,  T70S, T100 , AMS 27S   ( Trần ĐứcViên và Nguyễn thị Dương Nga,  đại học Nông Lâm Hà Nội, năm 2008 ). Một kỷ thuật lúa lai ưu thế lai khác  là lúa lai 2 dòng , căn cứ trên  những giống lúa  trở nên bất thụ đực  vì nhiệt cảm - temperature  sensitive genic male sterility( những nơi nào  nhiệt độ hơi thấp từ 280 C trở xuống )  TGMS hay vì quang cảm  - photoperiod sensitive ( những nơi nào   trồng lúa ngày dài hơn  14 giờ) PGMS .  Diện tích trồng lúa ưu thế lai 2 dòng ở Trung Quốc năm 2000 đã  là 2 triệu ha ( Yuan - 2000 ).                    
Lúa Lai
                 Lúa lai ưu thế lai - hybrid rice ( như các  giống Nhị Ưu 838 n và TH 3-3 )  ở Việt Nam  ( Luật 1994 )  ở các thí nghiệm cho năng xuất cao hơn các giống nội phối - inbred rice (như các giống Thần Nông IR ngày nay ở miền Nam hay các giống  Bắc Thơm 7, Kháng dân, Q5 miền Bắc) khoảng   18-45 % . Yuan Long Ping cha đẻ của lúa lai ưu thế lai ở Trung Quốc cho biết là ở Trung Quốc lúa lai có năng xuất trung bình cao hơn 20% các giống lúa nội phối.  Tuy nhiên theo  Viên và Nga  ( 2008 ), nông trang miền đồng bằng sông Hồng không đạt đến mức mong đợi, 15- 20% cao hơn  các giống lúa nội phối.  Sở dĩ như vậy là vì nhiều khó khăn trở ngại phát triễn lúa lai chưa giải quyết :
             thiếu  giống lúa lai  cao phẩm, tuy rằng  các tổ hợp lai phóng thích ở Việt Nam cũng như ở IRRI , ở Phi Luật Tân …tương đối  chất lượng đã khá  ( Virmani IRRI - 2003 ) . Các giống lúa lai cao năng- siêu năng tân tuyễn  trong nước  như TH3- 3, VL20 , HYT 83  , HYT 92…,   ngon cơm  hay cao năng hơn  vài giống nội phối, vẫn chưa  hoàn toàn thích hợp  với  mọi loại đất đai, khí hậu địa phương
               * thiếu hẳn sản xuất các hột giống lúa lai cao phẩm ( hiện còn phải nhập khẩu  gần 80 %  hột giống lúa lai Trung Quốc,  từ số lượng đến phẩm giá, loại lúa lai và vì giá rẽ hơn.  Cấm nhập khẩu  hột giống lúa lai Trung Quốc  vụ đông xuân 2005 và vụ hè 2008 đã  tăng hơn gấp đôi giá cả hột  giống lúa lai  Trung Quốc, trong khi  đó thi nông  lại tìm mua không ra các hột giống lúa lai VN  như TH3-3 và VL 20 . Phẩm giá hột giống lúa lai sản xuất ở nước nhà  thường bị nông dân  chê,  không chịu mua vì  hột phai - đổi màu ,  kích thước không  thuần - không đồng nhất,  nhiều hột đổi dạng- “ lạc dòng” -off types, tỉ lệ nẩy mầm kém  cỏi ( Tùng - 2008  ) Năm 2002,  nông dân không mua hột giống lúa lai hợp tác xã huyện Vụ Bản   sản xuất bán ra chỉ 12 000 đồng VND, trong khi đó lại đi mua hột giống Trung Quốc với giá 20 000 VND.  Trong nhiều trường hợp,  nông dân không biết rỏ  là chính họ đã mua hột giống sản xuất trong xứ  nhưng lại dán  nhãn hiệu Trung Quốc.  Bộ Nông nghiệp đã cố gắng  cải thiện chương trình sản xuất hột giống lúa lai trong nước,  đặt chỉ tiêu là tự túc đến mức 70 % ( thay  vì chỉ mới 20% hiện nay ) về loại hột giống lúa lai vào năm 2010 , nhưng không biết rỏ năm 2011 đã thực hiện được mấy chục phần ?. Vì  Việt Nam vẫn chưa có được một doanh nghiệp tư nhân  mạnh mẽ tư nhân sản xuất hột giống lúa lai,dù rằng đã cố gắng  khuyến khích  các  công ty, doanh nghiệp có trên 100 ha   sản xuất hột giống lúa lai, huấn luyện   họ và nông dân phát triễn kỷ thuật sản  xuất thiết yếu  như  cải thiện  di truyền độ thuần nhất - purity  và nở hoa đồng bộ - flowering synchronization,  tài trợ họ trang bị  cơ sở, tăng cường khảo cứu và khuyến nông R&D  tân tạo mỗi ngày mỗi tốt hơn các giống lúa lai và các dòng cha- mẹ cao năng cao phẩm hơn,  khỏi phải phụ thuộc vào các dòng cha mẹ Trung Quốc v.v….

          Tuy năng xuất trung bình   lúa lai ở Việt Nam  từ năm  1992 đến  năm  2006, theo bộ Nông nghiệp phần lớn trên  6 tấn /vụ/ha . Trong khi trung bình năng xuất giống nội phối là từ 3.33 năm 1992 đến  4.77  tấn/ ha/vụ  năm 2006 , năng xuất lúa lai hần như đứng yên tại chỗ ( Vụ  Xuân 2006 năng xuất lúa lai là 6.391 tấn /ha và vụ hè là 5.389 tấn/ ha , theo Viên và Nga ở Nam Định ) , trong khi năng xuất lúa nội phối lại có khuynh hướng  mỗi ngày mỗi tăng gia (vụ xuân là 6,194  và vụ hè là 5.166  ). Vì phải thay đổi hột giống mỗi năm  ( còn phải mua nhiều hột giống lúa lai của Trung Quốc như đã nói trên) và trung bình  một ha /một vụ  phải dùng thêm khoảng 30 kg phân bón hóa học, đặc biệt là phân đạm - nitrogen, chương trình lúa lai Việt Nam sẽ không còn mấy  hấp dẫn cho nông dân. Nếu không có ổn định giá cả sản xuất hột giống trong nước, không có phân hóa học tương đối rẽ tiền từ kỷ thuật mới và từ khí dầu thay vì từ than đá theo kỷ thuật lỗi thời xưa cũ. Đặc biệt là hy vọng các chuyên viên khảo cứu tuyễn chọn di truyền  lúa gạo nước nhà mau thành tựu các dòng cha mẹ, các tổ hợp lai cao năng, cao phẩm, như đã có ở Trung Quốc lúa lai năng xuất trên 12 tấn /ha /vụ và lúa lai thơm cao phẩm.  Khuynh hướng giảm bớt trồng lúa lai ưu thế lai dã bắt đầu  ở đồng bằng sông Hồng đã ló dạng, từ năm 2000 đến 2006, bớt đi 1.07 %, diện tích trồng từ 221 650 ha trụt xuống 207 800 ha. May thay, tỉnh Nam Định trong thời gian này, diện tích lúa lai vẫn còn gia tăng; trong khi tỉnh Ninh Bình năm 2000 trồng nhiều lúa lai  nhất đồng bằng  sông Hồng 94 800 ha, năm 2006 chỉ còn trồng 84 000 ha.

           2-   Cần phát triển mạnh hơn nữa nuôi trồng thủy sản  - aquaculture.
            
             Tuy có bờ biển khá dài , nhưng khai thác  thũy sản sẽ khó khăn thêm, vì lẽ  Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam , lập các quận biển phía Nam Hải Nam, nới  rộng vùng  hải phận Vịnh Bắc Bộ  thuộc Trung Quốc, quanh Hoàng Sa và Hải Nam .  Cho nên khó cho Nam Định, tăng quá  25 000 tấn hải sản đánh bắt , tuy năm 2002 đã đạt 23 000 tấn  đưa Nam Định lên hàng đầu các tỉnh đánh bắt hải sản  vùng Đồng Bằng sông Hồng có bờ biển ( Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình ). Như vậy Nam Định  phải chú trọng nhiều hơn  về nuôi trồng thủy sản  nước biển , nước lợ cũng như nước ngọt.  Năm 1995, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ở Nam Định ( 9500ha )  đã trên Thái Bình( 9100)  nhưng vẫn còn thua Hải Phòng (  12 500  ha ). Năm 2002, diện tích nuôi thủy sản  ở Nam Định là 12700 ha , chưa đuổi kịp Hải Phòng  13990ha.  Năm 2010 diện tích này là  15  739 ha, gồm có 6214 ha thủy sản nuôi nước mặn  và nước lợ và 9520 ha nuôi  nước ngọt. Sản lượng thủy sản nuôi trồng Nam Định đã trên 64 000 tấn , 4 lần hơn thủy sản đánh bắt.  Đáng kể ra là  xuất cá rô phi đơn tính đực - monosex male tilapia tằng từ 3.6 tấn / ha lên 4.4 tấn /ha . Năng xuất tôm càng xanh nước ngọt - giant fresh water prawn  Macrobrachium  rosenbergii  2.17 tấn /ha tăng thêm 1.04 t/ha so với năm 2009 , và năng xuất cá tra - snake head ( loài ở đây là Hemibagrus guttatus ? ) là 18.2 tấn, tăng thêm 5.3 tấn /ha. Nuôi tôm  sú - black tiger shrimp Panaeus monodon dễ bị hư hại vì thời tiết , khí hậu và môi trường thay đổi cho nên Nam Định đã khuyến khích nuôi tôm chân trắng- white leg shrimps  ở vùng nước mặn và nước lợ . Năng xuất tôm chân trắng trung  bình đã  đạt 11 tấn/ ha; trước đó chỉ là 3,1 tấn / ha theo thể thức thâm canh- intensive  và 1.5 theo thể thức bán thâm canh- semi intensive.  Các hồ nuôi tôm sú cũng được cải thiện bằng cách thả thêm  các loài khác như cua bơi, cá đé - sleeper ( ? ) … khiến tôm sú ít nhiễm bịnh hơn . Nam Định đã trở thành một tỉnh xuất khẩu tôm đông lạnh. 
           Phát triễn mạnh nuôi trồng thủy sản năm 2010  ở Nam Định là nhờ  giá cả thủy sản  tăng nhiều năm 2010,  từ tôm sú, tôm chân trắng đến  cá vược - perch, cá mú ( cá song ) - grouper cua  bơi (hay ghẹ)  - swimming crab tông Portunidae … Nhờ vậy, lợi tức nuôi thủy sản  đã cao 1.5 lần hơn  năm 2009.   Nông dân  3 huyện nuôi trồng nhiều  thủy sản là Giao Thủy, Nghĩa Hưng, Hải Hậu rất lấy làm hứng khởi. Lý do  chánh cho sự thành công này  là nhờ đột khởi  sản xuất con giống- juveniles.  Năm 2010,  gần 3  tỉ rưỡi - 3 423 triệu  con giống đủ loài  đực sản xuất ngay trong tỉnh nhà , tăng 63 % so với năm ngoái ; trong sô này  nhiều loài  cao giá như nghêu sò - clam, cá vược , cá mú  và cá đé  vùng  nuớc lợ và nước mặn.  Sản xuất con giống cá vược leo - climbing perch , cá tra - cat fish Hemibagrus guttatus , cua  bơi đang  được sản xuất  và thể thức phổ biến đại trà  sẽ thực hiện nay mai. Riêng về nghêu ( ngao ) sò - clam  trên 1.8 tỉ con giống  đã được sản xuất ở tỉnh Nam Định, tương đương với 2.1 lần hơn tổng số con giống  cho các vùng nước lợ và nước mặn. Tuy nhiên ngành nuôi sò hàu- oysters , một loài sò điệp 2 mảnh vỏ, Việt Nam kiểm kê được 26 loài, đặc biệt là hàu sông Ostrea rivularis và hàu sú Ostrea glomerata. Nam Định là nơi sản xuất nhiều sò hàu nhất nước, năm 2004 đạt đỉnh cao nhất 30 000 tấn. Nhưng sau đó sản lượng bớt đi và năm 2010, Nam Định chỉ sản xuất được 20 000 tấn. Sở dĩ như vậy là vì Nam Định vẫn còn phải nhập con giống sò hàu các tỉnh lân cận tỉ như từ trại  sò hàu giống đảo Cát Bà, đang được  chuyên viên Úc giúp đở cải thiện. Con giống  sò hàu cho Nam Định hiện nay là 1 tỉ con,  nhưng hơn 300 ha của 100 trang trại con giống chỉ mới cung cấp chừng10%  yêu cầu. Nam Định cần ngay kỷ thuật sinh sản vô tính - axexual reproduction tăng thêm  con giống sò hàu tân tiến nhất thế giới  hiện nay của Tây  Ban Nha và phát triễn thêm trại giống vô tính này ở các vùng  đầm lầy thủy triều thích hợp  tai 2 huyện Giao Thủy và Nghĩa Hưng. Đồng thời Nam Định cũng cần thiết lập một nhà máy chế biến sàu hào xuất tỉnh hay xuất khẩu.  Giá cả con giống cũng đã hạ nhiều. Sản xuất nông trại nuôi cá tập trung , năm 2010 đã chiếm 2880 ha.  Và  36 dự án khác về nuôi trồng thủy sản đã được xúc tiến trong tỉnh. Nông dân Nam Định đã sử dụng các sản phẩm vi sinh học thay cho hóa học để  khử nước diệt trùng, hầu giảm chi phí và cải thiện nước nuôi thủy sản. Năm 2010, tuy còn thấy vài  tôm cá nhiễm bịnh, nhưng không có dịch  bịnh nào xảy ra cả.                                                                                                        
        Diện tích 6 huyện vùng trũng  Nam Định chiếm  trên 92 000ha . Diện tích ba huyện đồng bằng ven biển chiếm  75 000 ha. Cho thấy khả năng nuôi trồng thủy sản Nam Định  còn nhiều tiềm thế .  Nếu nâng cao thêm  năng xuất lúa gạo cả lúa lai lẫn lúa nội phối cao năng, cao phẩm,  có thể  bớt vụ trồng lúa mà vẫn duy trì an toàn lương thực,  chuyễn qua trồng hoa màu cao năng chăn nuôi( đặc biệt là heo ) và làm thực phẩm nuôi thủy sản, hay rau hoa xứ lạnh - xứ nóng(  Nam Định đã có làng Vị Khê  huyện Nam Trực trồng hoa nổi tiếng)  cung cấp cho hai đô thị là Hà Nội và Hải Phòng chăng ?

            II- B : Công nghệ hóa nhiều tri thức hơn

         Nam Định là tỉnh có ngành công  nghiệp phát triễn sớm. Ngay dưới thời  Pháp thuộc, Nam Định đã là một  trung tâm phát triễn công nghệ nhẹ miền Bắc. Từ năm 1897 , thực dân Pháp đã   xây dựng một công ty tơ tằm  ở Nam Định và năm 1920  ngành dệt đã được xây dựng ở đây. Sau năm 1954 , công nghiệp Nam Định vẫn  tiếp tục theo hướng chuyên môn hóa của một “ thành phố dệt”.  Nhưng  lúc tiến vào cơ chế thị trường,  ngành công nghiệp Nam Định bộc lộ nhiều yếu kém : đầu tư chấp vá, kỷ thuật lạc hậu, cơ chế quản lý bao cấp kéo dài,  các doanh nghiệp lúng túng  khi tiếp cận cơ chế mới,  sản xuất kinh doanh chao đảo, nhiều doanh nghiệp đứng trên bờ phá sản, đời sống người lao động giảm sút nghiêm trọng.

1-       Thăng trầm và  thách thức ở ngành tơ sợi và dệt may

Thật sự thì ngành  tiểu công nghệ dệt may đã có mặt trước cả ngành công nghệ này. Tỉ như  thêu - embroidery, dệt lụa - silk weaving. Nhiều triều đình Việt đã phải triều cống  Trung Hoa  nhiều loại vải vóc  đáng giá trị.  Hiện nay,  ngành tiểu công nghệ  truyền thống vẫn còn tồn tại và phát triễn  như làng Vạn Phúc tỉnh Hà Tây, làng Triệu Khúc ở Hà Nội, làng Mẹo tỉnh Thái Bình,làng sản xuất tơ tằm   ở Phương Dinh (, huyê Trực Ninh tỉnh Nam Định.  Sau 1954, ở miền Bắc  đã tái lập tại Nam Đinh nhà máy sợi, nhà máy  tơ sợi, công ty quần áo- Nam Định Garment Company  cũng như vài làng tiểu công nghệ dệt và may mặc.  Ngành  công nghệ  khởi sự xuất khẩu qua khối kinh tế Comecon năm 1976 ; trước tiên qua Liên Bang Sô Viết  dưới hình thức cộng tác hợp đồng phụ - subcontracting  cooperation.  Việt Nam nhận bông vải của Nga Sô và gửi lại Nga Sô thành phẩm  cuối cùng.  Năm 1979, thể thức cộng tác này nới rộng  với Hung Gia Lợi,Tiệp Khắc  và Đông Đức. Năm 1986, Việt Nam ký kết với Nga Sô  một thỏa hiệp lớn gọi là thỏa hiệp 19 tháng 5, theo đó  Nga Sô cung cấp đủ mọi vật liệu ,  họa kiểu thời trang  và Việt Nam chế biến, gửi lại áo quần may sẳn  và nhận các hàng hóa tiêu thụ. Trong thời gian  1987-90 ngành công nghệ dệt may phát triễn mạnh mẽ  đem lại hàng trăm ngàn công ăn việc làm  trong nước và ở tỉnh Nam Định, đóng góp nhiều vào ngân sách quốc gia. Như đã nói trên, sau khi Nga Sô và các nước Đông Âu sụp đổ, ngành công nghệ bị khủng hoảng lớn,  không bán được thành phẩm  cũng như   không mua được vật liệu và thiết bị sản xuất. Có thể xem thời gian 1990- 92 là thời gian khó khăn nhất cho ngành công nghê, tơ sợi  và dệt may ở nước nhà hay ở  Nam Định.  Vài năm sau,  trên cơ bản ngành công nghệ đã thoát khỏi  cơn nguy biến và đã đầu tư   thêm nhiều thiết bị hiện đại,  nâng cao chất lượng sản phẩm .  Năm 1997 , ngành tơ sợi và may mặc đã  chiếm 9.9 - 10. 2%  giá trị tổng sản xuất công nghệ Việt Nam .  Năm 1997, ngành dệt may Nam Định  là ngành công nghệ lớn nhất tỉnh : chiếm  48 %  giá trị  sản xuất công nghiêp toàn tỉnh  với   2 944 900 lao động , nghĩa là 40%  tổng số lao động công nghiệp toàn tỉnh . Năm 1996 , theo Vinatex , ngành chỉ sợi- thread  sản xuất cả nước gần 60 000 tấn   ( sợi bông vải , Pe/co . … )  ;  ngành dệt vải  265 triệu mét vuông, ngành dệt kim  - kinitting products    20 000 tấ , khăn tắm  bông vải 15 000 tấn . Phần Nam Định năm đó là 13.3 triêu mét vải,  quần áo dệt kim là   trên 2 triệu cái, quần áo may sẳn  là 5.1 triệu cái . Nam Định cũng sản xuất nhiều mùng- mosquito nets bông vải .
Cơ cấu  Công nghệ may mặc và tơ  sợi ở Việt Nam cũng như ở Nam Định chia ra 3 lãnh vực :   lảnh vực thượng nguồn - up stream  là sản xuất sợi - fiber, trung nguồn là sản xuất  vải vóc- fabric và   nhuộm - dyeing,  hạ nguồn là  áo quần may mặc - garment manufacturing.  Dù rằng  lảnh vực  vải  vóc cần nhiều tư bản hơn là  lảnh vực áo quần may mặc, lảnh vực này  vẫn cần nhiều lao động - labor intensive. Sản xuất sợi cần nhiều tư bản - capital intensive .  Công nghệ Việt Nam tỏ ra  yếu kém bất lợi so sánh ở  thượng nguồn và  trung nguồn, vì Việt Nam thiếu tư bản đầu  tư lớn vào hai lảnh  vực này.  Thật sự , Việt Nam   chưa sản xuất được sợi và vải  cao phẩm trong nước. Nếu có đi nữa , Việt Nam mới  chỉ sản xuất được sợi phẩm giá thấp, dùng tiêu thụ trong nước mà thôi. Công nghệ sợi và may mặc áo quần ViệT Nam   dùng những vật lieu như  bông vải - cotton, sợi tổng hợp,   len - woolen, chỉ sợi và tơ tằm.   Ngành sản xuất bông vải và tơ tằm Việt Nam  hiện chỉ mới thỏa mãn  10 %  yêu cầu công nghệ. Sau giai đoạn an toàn thực phẩm và sản xuất thực phẩm chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản,  các ngành cây cây công nghệ  nước nhà có ưu thế so sánh ( cao su , cà phê, hột điều , tiêu … ) , nước nhà cần lưu tâm  cải thiện hơn nữa ngành trồng dâu, nuôi tằm ( năm 1996 không biết lý do gì  diện tích ruộng dâu trụt xuống  21 586 ha so với   1 534 ha năm 1994 . Đáng lưu tâm hơn nữa là  phẩm giá tơ tằm Việt Nam  phần lớn không được xếp hạng hay liệt vào hạng C hay E ,  không nhiều ở hạng A là hạng xuất khẩu được,  chỉ chiếm 22. 5 % năm đó  ở vài vùng Lâm Đồng và Hưng Yên, thua kém tơ tằm Trung Quốc nhiều  và thường bị chê là thiếu bền bỉ và rất khó nhuộm ) và trồng bông vải cao năng- cao phẩm ( 1.5- 2.0 tấn bông vải /ha theo kỷ thuật  hột giống mới bông vải lai ? Hiện năng xuất bông vải ở tỉnh Đồng Nai là  0, 69 tấn/ ha , Sơn La là 0. 84 ).  Ngành vải vóc  hiện dùng phần lớn  là bông vải và vải pha trộn bông vải và  polyester . 90%  vật liệu  phải nhập khẩu qua thể thức  khế ước phụ.  Thi trường thương mãi  gọi thể thức này là CMT (  cut , make  and trim- cắt , may và tô điểm , trang trígiá trị tăng thêm  thấp kém - low value added . Theo UNIDO, giá trị tăng thêm  cho mổi lao động, tính  bằng đô la Mỹ năm 1998, Việt Nam tuy đã vượt  Inđô nêxia ( 1770 đô la  so với 1100 ),  đuổi kịp ngang hàng  Trung Quốc  , nhưng còn thua xa Mã lai Á ( 7980 ),  Singapore ( 15 560 ),  và nhất là Hàn Quốc - South Korea ( 20510) và Đài Loan ( 21 100 ).
Việt Nam cần   phải  tân tiến hóa mau lẹ  hơn thập niên 1990 về kỷ thuật sản xuất ,   đặc biệt thiết bị và máy móc ở công nghệ tơ sợi và áo quần , mới mong tiếp tục tăng trưởng và  cạnh tranh thắng lợi tương lai xuất khẩu .  Không rỏ năm 2010, Việt Nam đã đạt mấy  chục phần  chỉ tiêu là sản xuất chỉ sợi  dự trù 100 000 tấn,  ngành dệt vải  601 triệu mét  vuông,  khăn tắm bông vải  40 000 tấn , quần áo dệt kim 45 000 tấn v.v…  Mức gia tăng   là 14 % một năm so với mức 13 % một năm trung bình cho  các năm 2000 - 2005, thoã mãn yêu cầu  ăn mặc của gần 90 triệu  dân chúng , áp dụng kỷ thuật tiến,  tiến ít nhất là đúng trình độ Thái Lan và Singapore, đạt mức xuất khẩu  khoảng 4 tỉ đô la Mỹ  ( so với  750 triệu năm 1995 và 3 tỉ năm 2005) . Trong đó  xuất khẩu áo quần may mặc là 3 tỉ  ( so với  500 triệu năm  1995 và 2.2 tỉ năm 2005)  và tơ sợi  là 1 tỉ( ? ) ( so với 250 triệu năm 1995 và  800 triệu năm 2005) . Ở Nam Định mọi tài chánh đầu tư phần lớn trông cậy vào  Tổ hợp ngành dầu lữa và khí dầu Việt Nam - PetroViêtnam hay PVN , cùng  Nhóm  Tơ Sợi và  Áo quần May mặc  Việt Nam  National  Textile and Garment  Group và  Công ty Hửu Hạn Thiên Trường Co Ltd .                                                        
Năm 2000 lợi tức mỗi đầu người tỉnh Nam Định chỉ mới đến 200 đô la Mỹ. Sở dĩ thấp kém vì  phần lớn lao động   làm việc trong  lĩnh vực  nông lâm ngư  nghiệp (  83.6 % ), đất đai trồng tĩa thiếu thốn, nhỏ hẹp, nhắm tự túc lúa gạo, an toàn lương thực ( nghiên cứu  từ năm 1993 đến 2003   về “ Hợp tác Xã ”  Cốc Thành, Xã Bạch Cốc cho thấy Xã chú trọng phân phối  đất đai  theo kiểu xã hội chủ nghĩa  không khác mấy  lề lối phân phối đất công điền truyền thống thời xưa :  để  trồng” tập thể” cây lương thực lúa , ngô , khoai … làm kinh tế để ăn ,  và chỉ để  một vườn nhỏ cho phép gia đình “ tư nhân” làm kinh tế  lấy tiền, đào ao nuôi cá,   nuôi heo và  rau hoa , trái cây đem bán ).  Mục tiêu kế hoạch phát  triễn Nam Đinh, từ năm   2003 đến năm 2010  là cố gắng tăng GDP mỗi đầu người lên trên 1000 đô la Mỹ năm 2010 (   sác xuất tăng 9 % một năm theo giá GDP 1994 )   bằng cách chuyễn đổi cơ cấu kinh tế : giảm nông lâm ngư xuống mức  29.8% ( dù giữ mức gia tăng là  2-2.5 % một năm) ,   công nghệ và xây dựng lên 36 %( tăng mỗi  năm 17 % hay hơn nữa ) và dịch vụ  34. 2 % vào năm 2010 ( tăng 9.5 % mồi năm hay hơn  nữa. 
 Chuyễn đổi cơ cấu từ thuần nông qua  công nghệ và dịch vụ  chậm chạp và khó khăn ngay cả vào thời kỳ “ đổi mới”.   Nhưng đến năm 2005,  đã mau lẹ hơn: nông lâm ngư nghiệp chỉ còn chiếm  41 % GDP,   công nghệ và xây dựng 21.5 % và dịch vụ   38%.
 Bằng cách cũng cố các  khu - công viên công nghệ  như cung cấp đầy đủ điện ( có lẽ nên  xúc tiến  trước năm 2016 việc  xây cất hai tua bin số 1 và số 2  nhà máy nhiệt điện than đá và khí dầu ( ? ) Nam Định trị giá 4.5 tỉ đô la Mỹ với công ty  Hàn Quốc theo thể thức BOT, công xuất tổng cọng 4 tua bin là  2 400 MV) nước sạch ( từ các tầng nước ngầm ) , giải quyết kịp thời các công nghệ thải nhiều ô nhiễm  ( tránh kéo dài dây dưa như vụ nhà máy Veđan chế tạo bột ngọt trong Nam ),  giải quyết mau lẹ hơn khiếu nại bồi thường đích đáng đất trưng dụng làm công nghệ. Cuối cùng   nâng cấp huấn nghệ giáo dục các thanh niên học xong lớp 10 , và các cấp đại học kỷ thuật , tuy rằng Nam Định   từ nhiều năm qua  đã là một trong  những tỉnh đứng đầu  về chất lượng dạy và học,  nhưng chương trình dạy và cách huấn luyện chưa cập nhật thích nghi, chưa đủ tri thức cho  các lảnh vực dịch vụ và công nghệ , tỉnh nhà muốn thành lập  và ngoại quốc muốn đầu tư  chế xuất, xuất khẩu. Các khu công nghệ Nam Định đáng kể là:
-  khu công nghệ Hỏa Xá ở  ngay thành phố Nam Định, rộng 327 ha, đã có  86 dự án đầu tư ước lượng  18.8 tỉ đô la . 
Một co6ng ty trong khu Hỏa Xá Nam Định
- Công viên công nghệ Mỹ Trung  ở huyện Mỹ Lộc và phường Lọc Hạ tỉnh lỵ Nam Định, gần quốc lộ số 10, đang xây dựng, diện tích 190 ha  và hy vọng sẽ có đầu tư khoảng 19 triệu đô la.
- Công viên Thành  An ở   vùng Nam Định thuộc địa Pháp xưa cũ và  Tân Thành thuộc huyện Vụ Bản,  cũng  bọc quốc lộ 10, đường tỉnh nối  Quốc lộ 10 và tỉnh lộ 21.  Diện tích dự trù  là 150 ha, nay đã thu hút  trên 20 triệu đô la đầu tư .              
 Công viên Bảo Minh  thuộc   huyện  Vụ Bản, phía Nam  quốc lộ 10, cách thị xã Nam Định  khoảng 10 km . Diện tích  200 ha  và đã thu hút  trên 21 triệu đô la đầu tư
- Công viên Hồng Tiến, cách thị xã Nam Định chừng 25 km, ở huyện Ý Yên, bên cạnh quốc lộ số 10, cách Binh Bình ( gần cảng Ninh Phúc ). Diện tích 250ha.  Đây  là   đầu tư thiết lập hạ tầng cơ sở đầu tiên  của PetroVietnam ở tỉnh nhà .
Công viên Ninh Cơ ở sông Ninh Cơ. Diện tích gần 500 ha, gồm  xưởng đóng tàu, kỷ thuật công nghệ , khu chế xuất xuất nhập khẩu ,  dịch vụ chuyên chở và du lịch  dọc  sông tại hai huyện Hải Hưng và  Nghĩa Hưng . Do VINASHIN  hoạt động, nay không rõ có tiếp tục tiến hành không ?
Sông Ninh Cơ 
 Ngoài hoạt động của công ty dệt  liên hệ chặc chẻ với công ty may mặc , ngành  chế biến thực phẩm  dùng  nguyên liệu tại chỗ cũng khá phong phú ( cuối thế kỷ thứ 19 , thực dân Pháp  đã xây dựng ở Nam Định  các cơ sở  chế biến thực phẩm đầu tiên ),  tập trung ở thành phố Nam Định  và một số  huyện ven biển  như Hải Hậu , Xuân Trường; chủ yếu là thịt đông lạnh , rau quả hộp, rượu bia, bánh kẹo, gạo, nếp,  bắp ( ngô ) xay  xát.   Sản phẩm của ngành đã được  xuất khẩu sang các nước Tây Âu, Nhật Bổn . Sản phẩm ngành cơ khí - điện và điện tử chủ yếu là  các sản phẩm từ kim loại, lưới thép, lưới mạ (mạ điện ), nhà máy động  cơ, nhà máy đóng tàu, ti vi, rađiô, thiết bị truyền thông. Ba huyện  ven biển ( Giao Thủy , Hải Hậu , Nghĩa Hưng  chủ yếu là   công nghiệp  đánh bắt, nay thêm nuôi trồng ,chế biến hải sản , ngoài các ngành sản xuất muối , vật liệu xây  dựng ( gạch ngói) , dệt cói. Các huyện nội đồng  chủ yếu  sản xuất  tiểu thủ công nghiệp  trong các làng nghề dệt - may, đan tre mây, chạm khảm đồ gỗ, chế biến thực phẩm …  

 ( Irvine , Ca Li , Hoa Kỳ  ngày 25 tháng tư , năm 2011 )             


                            

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét