(Tiếp theo lọat bài về Trung Quốc - Phần kết )
VI-B
Kết luận (cho đến năm 2005) :
Kết luận (cho đến năm 2005) :
Một Xã Hội Đổi Thay
GS Tôn Thất Trình
Kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường Trung Quốc |
Tuy
theo dòng lịch sử, chủ đề chánh
yếu là sự vươn lên, uy quyền tổ chức và sáng tạo của những hệ thống quốc gia mênh mông, nối
tiếp nhau theo thời gian, nhưng lại luôn luôn
liên kết nhất quán, kiên định liên tục xã hội và văn hóa. Cho nên, nếu muốn hiểu hệ thống quốc gia Trung Quốc hiện hửu, chúng ta ắt phải tìm hiểu những thay đổi kinh tế, xã hội, tôn giáo, văn hóa hiện đang ảnh hưởng tới thực thi quyền hành chánh trị.
Tăng trưởng và các vấn đề kinh tế
Như mô tả trong các chương trước,
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đã là thành quả
của những trình tự thực tiễn các chánh sách cải cách, thoạt tiên ở khu vực nông thôn với hệ thống hộ- gia cư
trách nhiệm, mở rộng đường cho thị
trường tư nhân và sự trổi dậy các thị trấn nhỏ và xí nghiệp làng xã, thôn
xóm. Rồi thì, một khi khu vực nông thôn thịnh vượng, những cải cách thử nghiệm ở
đô thị - thành phố, giúp cho các xí
nghiệp nhỏ tư nhân và tập thể phát triễn
. Nhờ thế, đến giữa thập niên 1980, kinh
tế đô thị đã tăng trưởng mau lẹ hơn là
khu vực nông nghiệp. Đầu tư ngoại quốc
được mời gia nhập các liên doanh -
joint ventures và các vùng kinh tế
đặc biệt. Sau một đình trệ tiếp theo vụ tàn sát Thiên An Môn năm 1989, kinh tế Trung Quốc đã tăng tốc lại như cũ. Năm
1992, Đặng làm một cuộc du hành thanh tra ở miền Nam
Trung Quốc, rêu rao ầm ỉ khi ông tuyên
bố là “ làm giàu là vinh quang”. Ở Đại
hội Đảng CCP thứ 14 vào tháng 3, Đặng được ca ngợi là kiến trúc sư chánh của “xây
dựng xã hội chủ nghĩa dưới những đặc
điểm Tàu” và ở Đại hội Nhân dân Quốc gia ( Quốc hội ) năm 1993 ,
Trung Quốc chính thức xác nhận mình
là “ một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa thị trường - socialist market economy”. Từ ngữ này mơ hồ trên ý niệm, nhưng có nghĩa
là nay Trung Quốc đã trở thành một nền kinh tế pha trộn - mixed economy qui
ước, khi chánh phủ xử ( quản ) lý
những công nghệ lớn và một số mỗi ngày mỗi tăng xí nghiệp nhỏ
chịu các lực lượng thị trường chi
phối, điều hòa. Ở Đại hội Đảng thứ 15, năm 1997, các xí nghiệp tư nhân được chánh thức hợp
pháp hóa là “ một yếu tố quan trọng” của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Các lực lượng thị trường bây giờ ngự trị nền kinh tế Trung Quốc, như chưa bao gìờ xảy
ra dưới sự cộng sản cai trị.
Nghị Vũ |
Hệ thống thị trường đã tăng thì lẽ dĩ nhiên các xí nghiệp quốc
doanh phải suy giảm. Các xí nghiệp quốc
gia làm chủ, năm 1978 còn chiếm 70 % sản
xuất công nghệ Trung Quốc , năm 2000 tụt xuống 24 % . Và quốc
gia chỉ làm chủ những công nghệ lớn
chiến lược. Khắp mọi nơi, tuồng như ai nấy
ở ngành công nghệ đều leo lên đầu
thang thịnh vượng từ cuối thang nghèo khổ. Ở thị trấn Nghị Vũ - Yiwu,
tỉnh Chiết Giang, một phụ nữ đã
trèo lên, trong 15 năm, từ bán rong ở phố xá đến làm chủ nhân một xưởng plastics có 50
công nhân, thảy đều đến từ các vùng nghèo hơn.
Thí dụ này có thể kể ra hàng ngàn lần tương tự. Và trong 2 thập niên,
Nghị Vũ đã biến thành một đại đô thị sầm
uất với nhà chọc trời, các công
viên kỷ nghệ và một phi trường.
Xe búyt Volvo sản xuất tại Trung Quốc |
Triễn
khai liên tục và mau lẹ trong thập niên 1990, chưa bao giờ thấy. Năm 1997, khi khủng
hoảng tài chánh Á châu đem lại giảm sút kinh tế Á Châu và thế giới, trái
lại sác xuất tăng trưởng Trung Quốc không bị ảnh hưởng bao nhiêu cả, có lẽ
nhờ kích thước và dân số to lớn : 80 %
tăng trưởng do yêu cầu nội địa tạo nên. Đầu tư ngoại quốc là then
chốt cho phát triễn kinh tế Trung Quốc.
Lúc đó những cán sự cơ khí Tàu , lương 50 đô la Mỹ một tháng, đang ráp
những xe buýt Volvo và ráp đuôi phi cơ Boeing .
Các phần Boeing do TQ chế tạo. (Nhấp chuột hai lần để phóng to hình ra) |
Năm 2002, Trung Quốc đã sản xuất 110 000
xe hơi ( ô tô ) từ xe ô tô
gia đình nhỏ - subcompact family car
đến xe xêđăng - sedan ghế bọc da
cho dân điều hành cao cấp đi: lợi lộc biên tế ước lượng gấp đôi lợi lộc xe làm ở Hoa Kỳ. Toshiba, một hảng
điện tử Nhật khổng lồ đã thôi làm máy truyền hình - ti vi ở Nhật và cung cấp
cho thị trường Nhật các máy này , sản xuất ở Trung Quốc. Nhiều hảng Nhật khác tuyên bố dự tính nhập
khẩu xe đạp, xe gắn máy,xe buýt, máy chụp hình, điện thoại tế bào từ các xưởng
Trung Quốc. Khi Trung Quốc di chuyễn hướng
tràn ngập thế giới với các sản phẩm cao phẩm, gíá thấp, rẽ mình chế tạo,
sự hội nhập Trung Quốc vào kinh tế thế giới
tiến triễn rất mau lẹ.
Đầu tư ngoại quốc tăng
đã được thị trường hàng hóa liên
doanh Trung Quốc trỗi dậy thúc đẩy . Đến
năm 2003, trung bình lợi tức dân
gian miền Đông Trung Quốc đã đạt 1200 đô la Mỹ ( cao hơn mức trung bình toàn
quốc Việt Nam năm 2009 - 2010) tạo ra
một giới trung lưu dân số 450
triệu người. Đây là một thị trường lớn hơn mọi quốc gia trên thế giới, ngoại trừ Ấn Độ và đang tăng thêm hơn
nữa. Một thí dụ tốt đẹp là thị trường
xe ô tô , mà ở Trung Quốc đang tăng mỗi năm hơn 50%. (hình như năm 2010, xe Trung Quốc sản xuất đã đứng hạng nhất thế
giới vượt hảng xe sản xuất nhiều nhất thế giới là hảng Toyota ? ).
Trong quý đầu năm 2003, Volkswagen đã bán nhiều xe ở Trung Quốc hơn là ở Đức . Hảng Mỹ General Motors đã bán
nhiều xê đăng Buick xa xỉ cho các chức
quyền Đảng Cọng Sản Tàu và các viên chức điều hành các xí nghiệp quốc
doanh. Trung Quốc nhấn mạnh đến làm xa lộ hơn là xe lữa để mở rộng
các nội địa xa xôi miền Tây
sẽ giúp thị trường xe vận tải và xe buýt tăng gia . Năm 2003,
Trung Quốc đã có ¼ yêu cầu xe vận
tải trên thế giới . Chúng ta có thể đặt
câu hỏi là liệu triễn khai nóng bỏng như vậy có tiếp tục lâu dài đặng không ? Nhưng
ít nhất cái gọi là huyền thoại thị trường Trung Quốc, trước đây
làm thất vọng nhiều nhà đầu tư, nay không còn là huyền thoại nữa rồi.
Mức nhập cảng dầu của TQ |
Một cách khác để đo lường tiến
triễn kinh tế Trung Quốc là mức tiêu thụ
dầu lữa. Như đã kể , năm 1993, Trung Quốc vẫn còn phải nhập khẩu nhiều, nhưng
sau đó Trung Quốc đã trở thành nhà tiêu thụ
dầu lữa tăng mau lẹ nhất thế
giới. Cơ quan Năng lượng Quốc tế ở Ba Lê
- Paris ( Pháp ) ước lượng là đến năm
2030 Trung Quốc sẽ nhập khẩu dầu
lữa số lượng tương đương Hoa Kỳ
nhập khẩu hiện nay ( 8- 10 triệu thùng
mỗi ngày; nhắc lại là Việt Nam các năm 2005- 2009 xuất khẩu gần hầu hết nhập sản xuất mỗi ngày 400 000 - 500 000 thùng
). Để
giảm thiểu phụ thuộc vào dầu Trung Đông ( Á ) chánh phủ đã tăng
cường ố gắng tìm kiếm khí dầu và dầu
lữa dọc thềm lục địa Trung Quốc. Ở sa
mạc Tân Cương - Xinjiang, một tổ hợp các
hảng năng lượng nội địa cà ngoại
quốc đã tiêu 3.3 tỉ đô la Kỳ phát triễn
các bồn ( vùng mỏ) khí dầu và 5.2 tỉ đô la khác, thiết
lập một ống dẫn dầu khi từ Tân Cương về
Thượng Hải. Nhiều thỏa hiệp đã làm với Úc Châu, Inđônêxia và Nga
để có thêm dầu lữa và khí dầu. Năm 2003, công ty quốc
doanh dầu ngoai khơi Trung Quốc tuyên bố
sẽ mua 615 triệu đô la cổ phần khai
thác một bồn dầu lữa mênh mông biển
Caspian.
Khai thác dâu lửa ở Tân Cương |
Khu vực nông thôn rất khẩn thiết
cho tương lai kinh tế Trung Quốc. sau khi
thịnh vượng nông thôn nổ bùng lên
nhờ các cải cách của Đặng Tiểu Bình, tăng trưởng nông thôn chậm lại hẳn đi giữa
thập niên 1980 và những năm gần đây (
200)- 2005) ngưng trệ . Khôi hài
thay là Trung Quốc bây gìờ đã tăng đủ sản xuất nông nghiệp nuôi dân số
Tàu lớn lao ( nhắc lại là từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc tân tạo ra
kỷ thuật sản xuất hột giống và
trồng đại trà các giống lúa gạo lai
đời F1 - hybrid rice cao năng ( trên 1- 1.5 tấn? vụ ) hơn cả các giống IR- Thần Nông mới và cũ ở khí hậu “á nhiệt
đới Trung Quốc” - và ở Bắc Việt , miền Bắc Trung Việt; phổ biến kỷ thuật sản xuất giống các giống lúa lai này năm 1991- 93, nhờ sự
giúp đở cảa Lương Nông Quốc tế - FAO), nhưng
tăng sản xuất lại làm cho nhiều nông dân
thừa thải thóc lúa ( giống lai cao -
siêu năng, nhưng ít khi cao phẩm, giá
hạ) khiến hàng triệu nông dân di dời lên đô thị - thị trấn kiếm công ăn việc làm ngoài nông nghiệp. Không khác gì mấy, Việt Nam nay xuất khẩu 5-6 triệu tấn gạo thay vì nhập
khẩu 1-1.5 triệu tấn gạo vào thập niên 1990 mà nông dân trồng 2-3 vụ lúa cao năng ở đồng bằng Sông Cửu Long
vẫn còn là giới nghèo khổ nhất đồng bằng . Một khi nghèo khổ
nông thôn vẫn tiếp diễn, chánh phủ Tàu thấy cần phải tìm cách
xây cất hạ tầng cơ sở xã hội ( tỉ như trường học , các tiện nghi săn sóc
y tế ), hầu bảo vệ nông dân trẻ tuổi qua
cơn nghèo khó và sửa soạn huấn luyện họ
cho họ tìm được công ăn việc làm mới ngoài nông nghiệp. Đáng kể
ra là tháng giêng năm 2003, phiên họp
đầu tiên Đảng CCP định lại chánh sách
chánh yếu là một hội nghị về nghèo khổ nông thôn, do Hồ Cẩm Đào, tổng
thư ký mới Đảng chủ tọa.
Trung Quốc gia nhập WTO ngày 11 tháng chạp năm 2001, sau 15 năm thảo
luận , đàm phán với Hoa Kỳ và các thành
viên khác của WTO . WTO, nguyên là Thỏa hiệp Tổng quát về Quan thuế
và Thương Mãi - General Agreement on Tariffs and Trade , là một tổ chức căn bản luật lệ -rules
based đòi hỏi công khai - cởi mở và
trong sáng ở hệ thống thị trường toàn
cầu. Muốn thành hội viên, Trung Quốc đã phải giảm bớt quan thuế, đặc biệt trên các sản
phẩm kỷ thuật thông tin và rất nhiều
hàng hóa nông nghiệp. Các xuất khẩu Trung Quốc
sẽ được dễ dãi hơn đi vào các thị
trường quốc tế và ít bị kỳ thị bất công hơn. Hoa Kỳ nay
đã thừa nhận Trung Quốc địa
vị liên hệ thường xuyên- bình thường - thương mãi
- permanent- normal -trade relations (
PNTR ) .
TQ gia nhập WTO |
Đối với Trung Quốc, làm hội viên WTO đã hội nhập thêm Trung Quốc vào cộng đồng thế giới, nhưng cạnh tranh với ngoại quốc lại gia tốc. Công nghệ dịch vụ, tỉ như ngân hàng, bảo hiểm, và công nghệ viễn
thông đặc biệt dễ tổn thương nhất.
Một
khủng hoãng ngân hàng đang lấp loáng, chẳng
hạn, có lẽ nguy hiểm cho nền kinh tế Trung
Quốc 10 năm tới. 4 ngân hàng lớn nhất , cả 4 là quốc doanh, có nợ không đòi
được chiếm từ 19 đến 42 %, còn lớn hơn cả các ngân hàng Nhật bổn, nơi nợ
xấu cũng là một vấn đề.Theo các luật lệ WTO, các ngân
hàng ngoại quốc như Citibank và HSBC, nay có thể thu hút các người gửi tiền rút ra khỏi các
ngân hàng Trung Quốc, dù có nhiều nợ xấu trong sổ sách vẫn phải trả tiền lời
cao hơn cho người gửi tiền và cho vay lãi xuất nhẹ hơn đến lúc này. Thế cho nên
họ thấy khó khăn hơn cho vay những doanh
vụ đang phấn đấu, đặc biệt cho những xí
nghiệp tư nhân giàu sáng kiến mà tín dụng
là vấn đề chánh.
Các căng thẳng xã hội
Trung Quốc xây dựng một quốc gia công
nghệ mới, lẽ dĩ nhiên là căng thẳng tăng
thêm ở mọi lảnh vực xã hội. Hố cách biệt
giữa giàu nghèo, giữa thành thị và nông thôn,
giữa các miền bờ biển phát triễn và vào sâu nội địa bên trong,
giữa các làng xã giàu có và nghèo nàn,
những phân liệt - schisms chính kiểu mẩu, mô hình xã hội Mao muốn giảm đi. Tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc trong năm
2001 là 7.3 % , nhưng sác xuất đã chậm hẳn đi, mất cân đối ở những vùng ít phát
triễn. Đến năm 1999, 124 triệu dân Trung
Quốc vẫn sống dưới mức tiêu chuẩn của Ngân Hàng Thế giới, lúc đó là
1 đô la Mỹ một ngày cho mỗi đầu người.
Theo trật tự thời Mao, công nhân
tương đối được ưu đải với lương thấp nhưng ổn định, nhà cửa khỏi trả tiền
thuê, giáo dục và y tế miễn phí, và “
chén cơm sắt” là có công ăn việc làm
suốt đời. Thêm vào những khẩn thiết này là một uy tín
thuộc vào các giới lảnh đạo ( song song với nông dân và quân nhân ) đứng hàng đầu
tiến bộ xã hội. Mọi điều này đã bị tháo gỡ năm 1978, vì cải cách
sâu xa không lay chuyễn
được. Năm 1997, theo niên giám thống kê
( 1999 ) của Nghiệp Đoàn Thương Mãi Tàu,
11 triệu công nhân thiếu tiền lương
chưa trả - wage arrears trung bình 1900 yuan mỗi công nhân; trong khi nhà cửa, săn sóc y tế
và giáo dục quốc gia cung cấp, mỗi ngày một ít đi và giá đắt hơn. Giữa 1998 và năm 2001, theo bạch thư của Hội đồng Quốc Gia , việc triệt phá dần dần các xí nghiệp quốc doanh
đòi hỏi sa thải chừng 25 triệu công
nhân. Thất nghiệp theo lời một học giả,
trở nên không tính nổi, nhưng khối lượng to lớn. Hệ thống hưu trí ( nghỉ hưu ) trù liệu trả
cho công nhân quốc doanh 80-90 % lương
bổng khi về hưu, yếu kém hẳn đi. Các thành phố nay thành thị trấn lụp xụp
tồi tàn - shanty town trải dài, dân
gian trôi nổi khốn khổ chạy tìm công việc. Thủ tướng Chu Khổng Nghị (? )- Zhu Rongji nói vớiQuốc Hội năm 2002
“ cơ cấu công nghệ Trung Quốc là phi lý
và những vấn đề sâu đậm của hệ
thống kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được
giải quyết”
Tình trạng thị trấn không yên
ổn gia tăng khi thêm nhiều công nhân mất việc.
Năm 2002, hàng chục ngàn công nhân biểu tình ở các vùng dầu lữa Đại Thanh - Daqing
tỉnh Hắc Long Giang - HeiLong jiang, trước đây là một mô hình thành công
công nghệ quốc gia Tàu. Tiếp theo là
biểu tình của 10 000 thợ mỏ ở Phúc Thuận - Fushun . Ở Liễu Dương- Liaoyang, 5000
công nhân bốn xưởng máy phá sản biểu tình nhiều ngày và các công nhân ngành tơ sợi Tứ Xuyên cũng đình công. Mùa xuân năm 2003, biểu tình phản đối nổ bùng
thêm ở Hắc Long Giang ở vùng Đông Bắc xa
xôi. Tại riêng một thị trấn, cả hàng chục ngàn công nhân diễn hành các đường
phố, ngồi đầy trên đường rầy xe lữa để làm gián đọan các chuyến tàu và nằm ì
trên phi đạo để máy bay không cất cánh được. 80% nhân công ngoại tứ tuần mất việc.
Nhật báo The New York Times báo
cáo một không yên mới đưa tới những đám
cháy hoang dã phản đối khắp Trung Quốc
và bắt buộc chánh phủ phải hành
động.
Lo sợ những hậu quả chánh trị của những bất mãn rộng lớn như vậy, Chánh phủ
Trung Quốc đã phản ứng thận trọng hơn là trong quá khứ. Các tập san cảnh sát, công
an Tàu nay khuyến cáo “ xử lý” thay vì
“dẹp tan” phản đối. Một chức quyền công
an viết: một khi kinh tế đã phát triễn,
các sự cố to lớn vẫn thường xảy ra. Chánh quyền phải phản ứng “ cực kỳ cẩn
thận”. Các biểu tình không bạo động được phép tiến hành và chỉ nên bắt giam các đầu sỏ mà thôi. Đôi khi,
chức quyền gặp các kẻ phản đối,
thỏa mãn tối thiểu yêu cầu tiền bạc của họ.
Có thể là những phương cách mới
mẽ này, đã báo trước một đổi thay cách chánh phủ giải quyết các
vấn đề chánh trị uy quyền ở thị dân Tàu, tuy vẫn có rất ít chứng cớ là việc đã xảy ra như thế
vào năm 2003.
Cho những ai đã có công ăn việc làm, phí tổn nhân sự của kỳ diệu kinh
tế Trung Quốc đã tỏ rỏ. Hàng triệu
nhân công các xưởng máy và thợ mỏ
đã mệt nhọc làm việc trên những điều kiện khốn khổ, vọng
lại “Các xưởng đen tối quỷ Xa tăng” thời Cách Mạng công nghệ ở Hoa Kỳ và ở Âu Châu.
Như Châu Hải - Zhou Hai, một nhà nhiếp ảnh, đã ghi chép nhưng
viễn cảnh công nghệ Trung Quốc, nhấn
mạnh là xã hội đang phát triễn Trung Quốc hơn 15 năm trước đây “ quá nhiều công nhân bị biên tế hóa - loại ra
ngoài lề xã hội và càng ngày càng ít
người chiếu cố đến họ” .
Công Nhân ở Châu Hải |
Công nhân bụi bặm
trên những bức ảnh ngơ ngác nhìn
vào ống kính,nhẫn nhục mệt mỏi. Họ là một thành phần của
cuộc tiến ầm ỉ về tương lai,
nhưng bộ mặt họ cũng nhắc lại những thời quá khứ khó khăn xa xưa của
Trung Quốc .
Thành công hay thất bại của Đảng CCP
trong những thập niên tới có thể tùy thuộc cách nào
Đảng thỏa mãn được yêu cầu của dân nông thôn Trung Quốc , năm 2003 vẫn
còn chiếm khoảng 75 % tổng số dân Trung Quốc ( con số của Việt Nam
hiện nay, tùy theo cách tính thế nào thị
trấn nhỏ được xếp là nông thôn hay thành thị ). Nhiều làn sóng nông thôn không yên tĩnh đã lan ra
khắp xứ sở, kể từ thập niên 1990, không
phải vì những khiêu khích đặc biệt mà vì
mài - nghiền xuống thấp dần của dân gian
Tàu , đã quen từ lâu với gian khổ cay
đắng. Thuế khóa- taxes trên nông dân
tuy không được quá 5% lợi tức năm trước, thường phải đóng cao hơn
nhiều vì các chức quyền địa phương tằng thêm lợi tức ở sổ sách kiểm kê . Nếu thuế không đủ, họ sách nhiễu thêm bằng bắt đóng thêm lệ
phí - fees. Nhiều tiền thu đặc biệt
để có điện hay nhập học và ngân khoản
thu được bị các chức quyền địa phương nhậu nhẹt hay đãi tiệc bạn bè. Oán giận chống lại chức quyền địa phương và tham nhũng
lan tràn, tỏa khắp nhiều vùng rộng lớn. Các
dân thôn xóm, làng xã cố gắng hoạt động
trong hệ thống, gửi nhiều phái đoàn đến Bắc Kinh đầu đơn kiện cáo, kiến nghị, kêu gọi điều tra các
chức quyền địa phương, nhưng những cố
gắng này phần lớn vô ích và đôi khi
bị đàn áp tàn nhẫn .
Tuy nhiên cũng có khuấy trộn
kiêu hảnh và nét riêng biệt địa
phương ở nông thôn Tàu, như đã thấy về
sự hồi sinh các truyền thống xưa cũ. Sau 40 năm
nước nhà Cọng sản Tàu cố tâm kiểm
soát kinh tế, định nghĩa địa vị xã hội, bải bỏ tôn giáo, phá tan mạng lưới
tình máu mủ nới rộng , kiểm soát phân
phối giàu có và định nghĩa tiêu chuẩn văn hóa, một hồi sinh nền tảng tự phát,
rộng rải và to lớn, các giá trị và cơ chế cũ, đã trổi dậy. Ở nhiều nơi,
dòng họ và cộng đồng địa phương
đã đoạt trở lại phần nào tính cách tự trị, đôi khi với sự ủng hộ chánh quyền địa phương,
đôi khi chống đối chánh quyền . Ngân khoản đà được thu nhận để phục hồi
các phòng ốc thờ phụng tổ tiên,
đền đài các thần thánh thổ địa, hay tái
lập các hàn lâm Khổng giáo. Gần thành phố Trường Sa- Chang sha ,
tỉnh Hồ Nam , Viện Hàn lâm Việt Lữ - Yue Lu thời vua Tống
Chu Tây - Zhuxi đã được
trùng tu với ngân khoản quốc gia, song song với một miếu thờ Khổng tử.
( nay là một trung tâm du lịch
đắt khách ). Như vậy, những mô hình xã hội xưa cũ được tái tạo,
để bù chì xói mòn, xé rách lan
tràn tấm vãi dệt xã hội dưới thời Mao Trạch
Đông .
Tội ác và tham nhũng
Mọi xã hội đều phải đối đầu với
tham nhũng. Nhưng tham nhũng ở Trung Quốc
đặc biệt có gốc rễ sâu xa . Nuôi dưỡng bằng liên hệ gia đình và cá nhân, nằm ngay giữa tâm can văn hóa truyền thống, không thể giải quyết
nếu không có thay đổi căn bản ngay trong chính văn hóa mình . Ở quá khứ thời đế chế phong kiến, liên hệ cá
nhân rất quan trọng khi thời thế trật tự.
Nhưng khi thời thế bất ổn, vô trật tự, đôi khi đời sống dân gian tùy thuộc vào “mạng lưới hổ tương - ( guan
xi ) networks of mutual support” triễn khai thành những bè phái - factions để thực thi quyền hành chánh trị. Những khuynh hướng này thật rỏ rệt lúc chớm
nở Cách Mạng Văn Hóa. Đầu thập niên 1980,
thiếu thốn mọi thứ: điện, than đá,
vé xe lữa, phòng khách sạn… lan
khắp nền kinh tế, vẫn còn được thư lại
điều hòa.
Ở đa số mức độ căn bản, một nông
dân khi muốn bán lên thị trấn vịt mình
nuôi hay rau cải mình trồng, phải được thư lại
đảng chấp thuận chuyên chở mua nhiên liệu cho chuyến đi, một giấy phép
vào thị trấn, và một thẻ đăng ký cho bán rong sản phẩm mình làm ra. ( tình
trạng tương tự xảy ra từ cuối năm 1975 đến
đầu thập niên 1990 ở Việt Nam
). Muốn thành công, anh ta cần bạn bè (
thường là công an ở Việt Nam ) chỉ đúng chỗ phòng sở chánh quyền hửu trách, anh nuôi dưỡng
bằng quà cáp - biếu xén ( ở Việt Nam sau
1975 là những gói thuốc lá Mỹ… ), gọi là đi ngã hậu- zou houmen ( back door)
.
Khi thị trường
tư nhân triễn khai, các xưởng máy
tư nhân hay liên doanh cần có nguồn năng lượng, nguyên liệu hay phương tiện chuyễn vận, thường bị các xí
nghiệp quốc doanh chánh phủ thiết lập kiểm soát . Hầu dễ dãi thương thảo thị trường, cần có những dấu ấn
ký của vô số chức quyền làm các tay
môi giới - brokers xuất
hiện, giúp cho cả người mua lẫn người
bán cho mỡ vào bánh xe. Thủ tục guan xi
trở nên phức tạp với chè chén, tiệc
tùng và quà cáp mỗi ngày mỗi phức tạp thêm. Một khi nền kinh tế thị trường lớn mạnh, hàng hóa các xí nghiệp quốc doanh trở thành rất dễ dãi cho chức quyền mua rẽ rề
và bán lấy lời nhiều ở thị trường. Rất nhiều chức quyền trở thành giàu
có bằng cách khai thác guan xi riêng
mình ở hệ thống chánh thức. Hầu chống lại
trục lợi - profiteering này,
Tham nhũng tại TQ |
Đảng CCP tung ra một loạt chiến dịch
từ giữa thập niên 1980, gồm luôn cả
chiến dịch lớn năm 1988, đóng cửa
42 xưởng mày do con cháu ( gọi là con
ông cháu cha- hoàng tử - princelings) các cán bộ cao cấp. Nhưng lúc này
tham nhũng đã trở thành đặc hửu -
endemic, cho nên chiến dịch rất ít
hiệu quả và chính sinh viên biểu tình ở Thiên An Môn mang theo cờ khẩu hiệu
đả đảo chức quyền tham nhũng.
Đặng Tiểu Bình khuyến khích tăng
trưởng các lực lượng thị trường năm 1992, nhưng phạm vi kích thước tham nhũng
tiếp tục nới rộng thêm và đạt những mức
độ đáng kinh ngạc. Các báo cáo chánh thức năm 1998 trình bày là mất mát các tài sản quốc gia
thời đó lên đến trên 10 tỉ đô la Mỹ ,
tương đương 2% GDP hàng năm của Trung
Quốc. Các nhà điều tra tìm thấy
là 7 tỉ dành riêng để mua ngũ cốc lương thực của nông dân Tàu, đã bị tiếp nhận phi pháp,
sai lầm trong hơn 6 năm trời. 9.6 tỉ khác được sử dụng vào những mục đích riêng tư, tư nhân.
Chánh phủ trừng phạt gay
gắt cuối thập niên 1990 tiết lộ vài chi
tiết cá biệt. Ca lớn và phổ biến nhất
xảy ra ở Hạ Môn , tỉnh Phúc Kiến, nơi một doanh nhân tên là Lai
Trường Hưng - Lai Changxing lập ra
một đế quốc buôn lậu khổng lồ. Trong 4
năm 1996- 1999, công ty của Lai nhóm Viên Hoa - Yuan Hoa group ,
Lai Changxing hình chụp tại Vancouver, Canada |
đã buôn lậu
ước lượng 6.38 tỉ đô la Mỹ hàng hóa vào Trung Quốc. Sản phẩm gồm có dầu lữa, xe hơi, và thuốc lá điếu.
Riêng dầu lữa lên đến 4.5 triệu
tấn ( tương đương với một tàu chở dầu trọng lượng 10 000 tấn vào hải cảng mỗi 3 ngày trong 4 năm ). 300 chức quyền trung ương và địa phương bị kết án, đặc biệt
gồm các chức quyền quan thuế và chức quyền
Nha An ninh Công cọng - Công An .
Lai không phải là trùm mafia như Al Capone và ở ca hoạt động to lớn này không có chứng
cớ hung bạo. Thật sự chức quyền bị lôi kéo vào hệ thống phức tạp quà cáp và hối lộ và một cảm bẩy ổ
ăn chơi hoan lạc ở Hạ Môn có tên là Dinh
thự Đỏ - Red Mansion, uốn nắn chức quyền
nhờ rượu chè và đàn bà quyến rũ. Địa vị Lai giống như một đại gia doanh vụ và một lảnh đạo cộng đồng hơn. Ông rất hào
phóng giúp nạn nhân bảo lụt và những
nguyên nhân quí hóa khác. Tham nhũng
phương cách Lai, thấm tận các
mức cao cấp nhất của chánh phủ Tàu
và cuối cùng có đến hơn 1000
người bị trừng phạt. Lai trốn sang Gia
nã Đại - Canada
( trường hợp trục xuất Lai vẫn chưa giải quyết xong năm 2005 ), nhưng nhiều
người ở Tàu bị xử tử và án tù lâu
năm. Cùng lúc một ổ lớn hoạt động tội ác được khám phá ở Thương( ? ) Giang - Zhanjiang, tỉnh
Quảng Đông và Thẩm Dương ở Mãn Châu. Không rỏ có còn nhiều nơi khác như vậy không.
Bạo động hung dữ luôn luôn gần kề . Hành động phi pháp của những băng đảng tội ác
có vỏ trang, từ lâu đã là một đặc điểm xã hội miền Nam Trung
Quốc. Càng ngày các băng đảng mua lậu súng ống từ Việt Nam ( ? , theo các tác giả sách ) hay
chế tạo ở cơ xưởng Tàu bất hợp pháp
càng phạm tội thêm mà không hề bị trừng
trị gì cả. Chánh phủ Trung Quốc đã phản ứng
thực thi vài tá chiến dịch bài trừ mạnh mẽ, nhiều lần xử tử tội nhân, để
khẳng định lại kiểm soát trên xã hội và trên dân gian Tàu đang di động mỗi ngày mổi lớn thêm. Chánh phủ Tàu lo ngại và có lẽ đúng lý rằng
những hoạt động tội ác có tổ chức
này, có thể biến thành những vùng không yên rộng lớn đang lên men ở Trung Quốc,
như những bạo động bè phái tiếp theo
Cách Mạng Văn Hóa.
Môi sinh
Cảnh l.ụt lội do sông Hòanh Hà gây ra |
Trung Quốc là một vùng đất
liền lớn nhất thế giới, nhưng đa số tài nguyên thiên nhiên của Trung quốc đã bị
cướp bóc nghiệt ngã trong 50 năm vừa qua. Mọi lảnh vực , trong lúc Trung Quốc cố tiến lên giàu có và uy quyền, đều bị suy thoái môi sinh ảnh hưởng nặng nề. Dân số tăng gấp đôi kể từ năm 1949 càng làm
cho các khuynh hướng đã tiến mau lẹ trước
khi Cộng Sản chiếm chánh quyền, càng mau lẹ thêm . Sử dụng hết nước, phá rừng, sa mạc hó , xói mòn đất đai và ô nhiễm
làm giảm các vùng có thể sinh sống được. Kiểm soát các sông Trung
Quốc đã là ưu tiên của chánh quyền kể từ
khi vua Vũ - Yu nhà Hạ - Xia dynasty dạy dân trị thủy và tưới ruộng
. Tiếp theo lụt là hạn
hán và đói kém luôn luôn làm hình
dáng lịch sử Trung Quốc. Trung Quốc đứng hàng thứ 6 trên thế giới về tài nguyên nước . Nhưng đã trên hơn một chục năm, Trung
Quốc thiếu nước tưới ruộng nghiêm trọng. Sông Hoàng ( Hà )- Yellow River có
khi gọi tên là “ Trung Quốc Đau xót - China Sorrow” vì các trận lụt khủng khiếp đã khô cạc ở vài khúc mỗi năm, kể từ năm 1985.
Động Đình Hồ |
Ở miền Bắc, hộ , hồ chứa và tầng ngậm mước - aquifers co rút lại hay khô ran. Thiếu nước
làm khổ sở phân nữa số 600 thành phố- đô thị Trung Quốc. Khai thác đất đai trồng trọt và phát triễn công nghệ, đặc biệt
vào thời “ Bước Nhảy Vọt” đã phá tan
hồ và các đầm lầy có cơ
hấp thu nước thừa thải mùa lụt
lội. Năm 1949, tỉnh Hồ Nam còn có tên là “Tỉnh của Ngàn hồ” đếm được 1066 hồ , nhưng đến năm 1981 chỉ còn
309 hồ mà thôi. Hồ Động Đình -
Dongting Lake tỉnh Hồ Nam, trước đây
là hồ lớn nhất Trung Quốc đã bị lấp đầy
60% tổng số diện tích hồ trong 30 năm qua và có lẽ sẽ tuyệt tích những
năm tới !
Lụt do sông dương Tử năm 1988 |
Trận lụt lớn
sông Dương tử - Yangzi năm
1998 là do rừng bị tàn phá trên thượng
nguồn , khiến chánh phủ trung ương đã phải cấm
khai thác gỗ ở Tứ Xuyên và Vân Nam . Nhưng quản lý rừng đã luôn luôn
tham nhũng và vô hiệu; các dự án tái lập
rừng luôn luôn kém hơn hẳn mục tiêu đặt
ra . cấm khai thác gỗ làm giá gỗ tăng mạnh, khích lệ các chủ nhân-
thủ trưởng rừng gỗ tư nhân đốn cây bất
hợp pháp, bán gỗ liếm lời. Khai thác đất
rừng địa phương kiểu đó,
dù chánh phủ cố ngăn ngừa đi nữa
, cũng tỏ ra là rất khó kiểm soát phá
rừng ngày nay.
Phá rừng đem đến xói mòn đất đai. Trong những nguyên nhân , phải kể ra chánh sách thập niên 1950, tạo đất trồng trọt làm nông trang trên sườn rừng dốc và ở chốn đầm lầy. Chức quyền đã làm những cố gắng muộn màng không cho trồng
trọt nữa trên đất quá dốc và buộc trồng lại rừng , nhưng dưới
hệ thống trách nhiệm của hộ -gia đình, nay nông dân có quyền xử lý -
quản trị lấy đất đai mình , thường không
chịu theo. Theo một nghiên cứu đất đai thổ nhưởng quốc gia
vào thập niên 1980, mức phì nhiêu đất
đai Trung Quốc đã hạ thấp đáng kể.
Nông dân nào muốn tăng gia lợi
tức trong một nền kinh tế nông thôn thị trường hóa đã để đất hoang -
fallow , không trồng trọt một thời gian ngắn ngủi hơn. Sử dụng phân hóa học tăng gấp đôi trong thập niên 1980 và sử dụng thuốc diệt trừ sâu -bệnh- cỏ
dại - pesticides không hề bị kiểm soát.
Sa mạc hóa , suy
thoái các đồng cỏ bán khô khan semiarid và khô khan -
arid và đất thả nuôi súc vật trở thành sa mạc không còn ích lợi gì nữa, cũng
xảy ra ở tốc độ cao hơn các năm trước. Trong các năm 1985- 95, sa mạc Trung Quốc tiến thêm theo sác xuất hàng năm là 2460 km2 ( 246 000 ha ) và từ đó sác xuất cũng
tăng cao thêm. Mùa đông, bụi từ các sa
mạc Trung Quốc thổi đến tận Hán Thành
Seoul và Đông Kinh - Tokyo .
Sa mạc Taklamancan ở tỉnh Tân Cương, nay đã tiến dần về phía Nam . Nhiều chứng cớ gợi ý rằng đa số hiện tượng sa mạc hóa là do
hoạt động con người gây nên. Trong
nhiều năm Trung Quốc tích cực khuyến
khích di cư về miền Tây Bắc. Các đất đồng cỏ được cày xới lên,
nông trang thành lập, khai thác gỗ và chăn nuôi theo đàn được thực thi đại
trà. Ước lượng không đáng tin cậy mấy,
vì lẽ sa mạc hóa là một tiến trình phức
tạp và biến đổi , nhưng chừng 1/7 tổng số đất đai Trung Quốc nay đã bị sa mạc hay vùng bán khô khan bao phủ và diện tích này mỗi ngày mỗi gia tăng.
Nước và
không khí ô nhiễm cũng rất nghiêm
trọng, dù có những cố gắng chống
trả. Nước ô nhiễm trầm trọng đặc biệt ở
những đông dân cư miền Đông Trung Quốc. Nước thải, đa số không lọc sạch mỗi ngày chảy
tăng thêm vào thẳng sông ngòi, hồ và nước bờ biển . Khi dòng sông khô
cạn , nước uống được, khan hiếm ở vài nơi.
¾ sông chánh ở Trung Quốc kể cả
sông Hoàng và sông Dương Tử ô
nhiễm đến nổi chỉ còn vài cá sống sót mà thôi. Nước dọc bờ biển thảy đều ô nhiễm ; biển Bố
Hải phía Bắc tỉnh Sơn Đông, nay hầu như
là một biển chết .
Ô nhiễm không khí phần lớn do việc đốt cháy mỗi năm 1 tỉ tấn
than đá không rửa sạch gì bao nhiêu và đốt cháy mà không có mấy bộ phận kiểm soát không khí, gây ra ( nhắc lại là than đá cung cấp 3/4 sản xuất toàn thể năng lượng Trung Quốc năm 2003. Năm 2001, trử lượng than đá Việt Nam
ước lượng 12 tỉ tấn phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh phía trên Hải Phòng;
năm 2006 dự trù sản xuất 36 triệu tấn
loại sạch ( ? ) xuất khẩu 21 triệu tấn, số còn lại để chạy 7 nhà máy điện than đá lớn là Mông Dương,
Nghi Sơn, Ô Môn, Vĩnh Tân, Trà Nóc, Sóc Trăng, Thái Bình trong số 17 nhà máy
điện than đá dự trù xây cất đến năm
2025). Trong số 10 thành phố ô nhiễm
nhất thế giới, 9 lại ở Trung Quốc! Sử dụng than đá ở Trung Quốc, từ năm 2003,
tăng 5% mỗi năm , ngay cả khi sử dụng dầu lữa và khi dầu gia tăng.
( ô nhiễm từ xe ô tô cũng gia tăng mạnh) . Tại tỉnh Thiểm Tây, một vùng sản xuất than đá , các khách dùng
đường xe lữa nhìn thấy hàng đống núi
than đá chất cao gần các trạm xe lữa đang chờ đợi chở đi khắp xứ sở .Thành quả
nhức nhối việc đốt cháy than đá ở Thiểm
Tây là các điêu khắc tượng Phật trong hang đá Vân Cảng- Yungang
, gần Đại Đồng - Datong phía Bắc
tỉnh nay đã bị bồ hóng bao phủ và chỉ còn chờ thời gian biến các bụi bặm than đá thành acid phá hủy
màu sắc đẹp đẻ các tượng.
Trung Quốc đã có những dự án tham vọng
giảm bớt dùng than đá. Đến năm 2030, , than đá sẽ cung cấp 62 %, dầu lữa 18%,
khí dầu 8%, thủy điện 8% và
hạt nhân 3% tổng số tiêu thụ năng lượng ở Trung Quốc. Nhưng cường điệu vẫn là sản xuất năng lượng ,
không phải là bảo tồn. Thế cho nên giá
cả xăng nhớt ở Trung Quốc không mấy thua kém giá cả ở Hoa Kỳ và thuộc vào nhóm
xăng rẻ nhất thế giới. Gía xăng các nước này năm 2005 chỉ bằng 1/3 giá xăng ở
Âu Châu ; các nước này đánh thuế mạnh vào dầu lữa nhập cảng.
Trong lúc đó, điện hạt nhân chỉ mới đóng
một vai trò nhẹ nhàng sản xuất năng lượng ở Trung quốc , ít hơn 2% so với 22 %
ở Hoa Kỳ, 33% ở Nhật bổn và 77 % ở Pháp. Năm 2005 , Trung Quốc có 8 nhà Máy điện hạt
nhân đang hoạt động ở Quảng Đông, Triết Giang và Giang Tô - Jiangsu. Những nhà máy khác dự tính là Sơn Đông và
Phúc Kiến. Trong ngắn hạn, ít nhất là
Trung Quốc tự túc được về uranium khai thác ở các mỏ Tân Cương . ( còn tình trạng uranium ở Phong Thổ - Lai Châu và ở Quảng Nam - Kontum ? ).
Một tai nạn xảy ra năm 1998 ở nhà máy Khiêm
Sơn -Qinshan , gây ra tranh
luận trong chánh phủ về chương trình hạt nhân, nhưng đề tài
thuộc bí mật trọng đại quốc gia, nên không đưa ra công chúng bàn cải công
khai.
Động chạm đến mọi điều bàn cải ở trên là
đập thủy điện khổng lồ và tranh cải, dự trù xây cất trên sông Dương Tử
gần vùng ngoạn mục Vu Sơn - Tam Điệp phía tây
tỉnh Hồ Bắc. 8 lần rộng lớn hơn Đập
Cao- Aswan High Dam ở Ai Cập-
Egypt , đập Three Gorge Dam tạo ra một hồ chứa dài 370 dặm Anh (595 km ) ,
phải di dời 1.3 triệu cư dân và phá hủy
800 vị trí khảo cổ. Đến năm 2009, nước sẽ dâng cao 575 bộ Anh ( 172.5 m ) trên
mức dòng sông cũ , và các cửa van 5 tầng
sẽ giúp cho các tàu trọng tải 10 000 tấn
đi tới Trùng Khánh. Các nhà đề xướng
đập tiên đoán là Đập sẽ cung cấp thủy điện bằng 18 nhà máy điện hạt nhân , nghĩa là 10 % năng lượng Trung Quốc cần
dùng … Các lụt tai họa không còn xảy ra
nữa. Đập dự trù khánh thành năm 2010 (
đã khánh thành rồi năm 2011) và phí tổn
lên đến 70 tỉ đô la Mỹ.
Các người chống đối gồm các nhà khoa học , kỷ sư , Các giáo sư
viện đại học nói lên vạn lời
quan tâm. Kiêm soát lụt lội sẽ giới hạn ở vùng ngay gần đập ( thật sự hai chức năng ngăn ngừa lụt và phát điện loại hẳn nhau, vì lẽ
hồ chứa cần đầy nước để sản xuất
thủy điện và hầu như hết nước ngăn ngừa
lụt lội ) cũng như bùn đọng ở thượng
nguồn laại có cơ tăng gia lụt lội hay có khi làm vỡ cả đập ; những máy phát
điện khổng lồ sẽ không mấy hiệu lực và
sẽ mất nhiều điện cho các đường dây dẫn điện cách xa quá ; tái định cư
dân gian của 150 thi trấn sẽ xài hết 1/3 ngân sách xây cất đập ( vài cư dân
phải di dời đến tận tỉnh Quảng Đông xa xôi ); nhiều đất đai phì nhiều bị ngận
tràn , hồ sẽ ô nhiễm, và nước đọng sẽ không tháo rữa
các hóa chất dầu lữa to lớn, plastic; các phế thải công nghệ , phân bắc
( phân người ) mỗi ngày bơm đến từ Trùng Khánh và các thị trấn khác, cọng thêm các hiểm nguy
động đất , phá hoại và bom thả.
Đáng
băn khoăn là phải làm ngập một di sản
văn hóa rộng lớn. Vài phát triễn sớm
nhất của văn minh Trung Quốc ở ngay trong vùng,
tỉ như tộc dân Ba , những nghệ
nhân và chiến sĩ giỏi gian, đã giúp lật
đổ triều đại nhà Thương - Shang
xưa cỗ. Các nhà khảo cỗ hy vọng sẽ tái thiết được văn minh tộc
dân Ba , nay bị phá tan tành. Ở vài làng
xã, dân gian sinh sống ở nhà cửa làm từ thời đại triều Minh, một viện bảo tàng sống động của những cấu trúc nghệ thuât nông thôn thời Minh Trung Quốc . Mọi cố gắng các học giả
Tàu, theo hai tác giả sách giáo khoa Mỹ
này, xin giúp đở để duy trì bảo tồn những
di sản này cũng như các di vật văn hóa
cỗ, thảy đều thất bại và nhắc nhủ chúng
ta là các nhà lảnh đạo Trung Quốc ngày
nay bị ngự trị bằng một trí óc thuần công nghệ. ( ? ) .
Đập Tam Điệp chỉ là một phần cuộc
chiến đấu kiểm soát nước. Kể từ khi Cọng sản nắm chánh quyền , rất
nhiều đập được xây cất trên sông Hoàng,
sông Hoài và sông Hải . Rất nhiều
đập sụp đổ, kể luôn cả hai đập trên sông
Hoài tháng 8 năm 1975 , giết chết đến
240 000 người. Phần tiếp theo của dự aán
là xây cất một số kênh ( kinh ) đào chuyễn nước từ Nam lên Bắc dài 1300 km qua miền Đông, miền Trung và miền Tây Trung quốc , cố tâm
đưa nức đến vùng khô khan , khô cằn phía
Bắc. Có lẽ hy vọng lớn nhất cho đập lớn
mới này là nó sẽ kèm theo những biện pháp sinh thái năng nổ : tái lập rừng, xử lý đất
đai, kiểm soát ô nhiễm
và giáo dục dân gian địa phương, để hổ trợ vai trò kiểm soát lụt lội ,
thủy điện và cải thiện chuyễn vận đường
sông.
Chức quyền ở mọi cấp bậc nay đã nhìn
nhận những nguy hiểm của việc phát
triễn kinh tế không kiểm soát hơn các bạn đối giá xưa cũ , cách dây một chục năm . Chi tiêu tư bản và bảo vệ môi sinh đang gia tăng , không phải
chỉ riêng có tiền bạc mà là như thể một
thành phần lợi tức quốc gia. Các cơ sở
công nghệ đã được nâng cấp với kỷ thuật cận đại. Không phải vì dân Tàu không biết đến hay lơ
là các vấn đề môi sinh, mà vì các vấn đề
này quá rộng lớn. Một chánh phủ bị các
cấp bách tăng trưởng kinh tế thúc đẩy , nhưng càng ngày càng thêm khó thực thi kiểm soát trung ương, đang phải
chạm mặt với những thách thức bực
mình !.
Các phần thay đổi kế tiếp của sách
không trich dẫn như chương : “Phụ nữ và gia đình” vì đã có nhiều bài viết tiếng Việt ở Hoa Kỳ
hay ở Việt Nam rồi về Trung Quốc hay đối
chiếu tình trạng VN tỉ như ở Hồi
ký Thời đại Của Tôi- Vũ Quốc Thúc, 2010, Nguyễn Hiến Lê , Sử
Trung Quốc 1983, tái bản ở Hoa Kỳ
năm 2000 , “Khủng hoảng AIDS và Y Tế” , “ Tôn giáo” , “Văn
chương và Nghệ thuật, Phim xi nê, nên không
bàn thêm ở phần VI - B này nữa .
(
Irvine ,
Ca li - Hoa Kỳ ngày 28 tháng 3 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét