Thử
cập nhật, lạm bàn ngành công nghệ dầu
lữa và khí dầu Việt Nam :
Tương
lai ngành dầu - khí Việt Nam có bị Trung Quốc ngăn cản, uy hiếp ?
G S Tôn Thất Trình
Vị-trí các lô dầu khí Việt-Nam |
Năng lượng quốc doanh chủ trì và nông thôn vẫn còn
dùng nhiều năng lượng sinh khối không
thương mãi hóa.
Khu vực năng lượng Việt Nam vẫn do quốc
doanh chủ trì. Tuy nhiên các lực lượng
thị trường đã bó buộc khu vực đổi thay vài hình thức và tham gia tư doanh đang mở rộng. Từ năm 1995, các
họat động khu vực năng lượng nước nhà đã
chia ra ba tập đòan – tổ hợp công ty, cả ba đều là những hảng lớn ở Việt Nam . Đó là Tập đòan dầu khí
Việt Nam – PetroVietnam ,
Tập Đòan than đá và kim lọai
–Vinacomin ( nguyên là Tập đòan
Than Đá – Vinacoal ) và Tập đòan Điện lực Việt Nam –EVN. May mắn là Việt Nam có nhiều tài nguyên năng lượng,
đặc biệt là dầu lữa, than đá và thủy điện. Từ năm 1990, Việt Nam đã là một nước siêu xuất –
net exporter năng lượng. Sản xuất cả
3 ngành đã tăng trưởng mạnh mẽ cũng như tiêu
thụ năng lượng tương xứng với công nghệ hóa xứ sở và hội nhập với kinh tế tòan cầu. Tiêu thụ
năng lượng căn bản, ngọai trừ sinh khối - biomass , đã tăng gia
10.6% mỗi năm, trong thời gian
2000- 2005. Dù vậy một phần lớn dân gian
nông thôn vẫn phải trông cậy nhiều vào
các nguồn năng lượng sinh khối không thương mãi hóa , ước lượng lên đến gần phân nữa tổng số năng lượng tiêu thụ
.
Nhìn
qua thị trường công nghệ dầu khí Việt Nam
Như chúng ta đã biết công nghệ dầu khí Việt
Nam đã thiết lập hơn 30 năm nay , sau
khi đào tìm thấy dầu lữa đầu tiên ở gần Côn Sơn năm 1974, thời Việt Nam Cộng
Hòa. Thật ra thám hiểm dầu khí đã khởi sự ở trũng Hà Nội, từ thập niên 1960,
dưới sự thúc đẫy, hổ trợ kỷ thuật và tài chánh
của Nga Sô Viết và năm 1969, Tổng cục Địa chất miền Bắc đã đào một giếng sâu 3000m . Sau đó nhiều giếng sâu khác cũng được
đào, thành quả là khám phá ra khí dầu
thiên nhiên ở mỏ Tiền Hải C, tỉnh Thái
Bình năm 1975 , và bắt đầu phát triễn khai thác khí dầu ở huyện Tiền Hải
năm 1981. Cho đến tháng 6 năm 2009, nước ta đã sản xuất trên
205 triệu tấn-Million Metric
tons, BBM dầu thô – crude oil và
30 tỉ mét khối khí dầu thiên nhiên- natural gas , trị giá tổng
cọng 40 tỉ đô la Mỹ, góp 25 tỉ đô la vào ngân sách quốc gia. Một tiến bộ đáng
kể, đặc biệt trong thờì gian 1990- 2000
, nếu chúng ta so sánh năm 1990, Việt Nam
chỉ mới sản xuất 2. 7 triệu tấn dầu thô và 0.5 tỉ mét khối khí dầu. Một
cách tổng quát, có thể chia ngành này ra làm 3 dòng: dòng thượng nguồn- up stream, trung nguồn-
midstream và hạ nguồn – downstream
Thượng nguồn :
Thám hiểm và khai thác
Thềm lục địa
– continental shelf Việt Nam bao phủ
khỏang 1 triệu cây số vuông, gồm
7 lưu vực chánh thời kỳ Đệ Tam ( Thứ Ba) – Tertiary basins và nhóm lưu vực : lưu vục Sông Hồng, Phú Khánh ( Phú Yên và Khánh Hòa ), Cửu Long, Nam
Côn Sơn, Malay- Thổ Chu và các nhóm Hòang Sa ( Trung Quốc chiếm đọat năm
1974 gọi tên là Tây Sa – Shisa) và Trường
Sa ( Trung Quốc chiếm đọat một vài đảo hay đảo san hô ngầm thuộc Việt Nam từ lâu , và sau
năm 1988 hầu như toàn thể quần đảo
Trường Sa, Trung Quốc gọi là huyện Nam
Sa ). Thềm lục địa Việt Nam là một hệ thống lưu vực thời kỳ Đệ Tam ở bờ biển và ngoài khơi –
offshore, bên trong vị trí một vùng
chuyễn tiếp từ vỏ - crust lục địa
của Craton Đông Dương đến vùng vỏ phụ
đại dương vùng biển sâu của Biển
Đông. Chúng thảy đều là vết lưu vực
nứt rạn - rift basins và có một lich
sử phát triễn, hình thành tương tự nhau. Vùng đặc hửu kinh tế- Exclusive Economic Zone của Việt Nam trước đây được
chia ra hơn một trăm (100) lô – blocks, trung bình mỗi lô rộng 5000 km2 để thám hiểm , khám phá, khai thác, sản
xuất dầu thô và khí dầu .
Việt Nam
hiện đứng hàng thứ ba ở Đông Nam
Á về tài nguyên dầu lữa. Tháng 6 năm 2006, Việt Nam
hy vọng có dầu và khí dầu trên gần 50
lô, với trử lượng 4.5 tỉ thùng dầu –
billions barrels of oil và 23 ngàn tỉ bộ khối – trillion cubic feet
khí dầu – gas. Mới gần đây vào tháng 6 năm 2009 , trữ lượng bờ biển và
ngòai khơi Việt Nam ước lượng đã tăng lên đến 6.5 -8.5 tỉ thùng dầu ( chừng 600
triệu tấn- MMT) và 75- 100 ngàn tỉ bộ
khối – tcf( chừng 644 tỉ mét khối –BCM ) khí dầu . Số mỏ dầu- fields là 51, trong số này, 21 mỏ đã khai thác thương mãi, 8 mỏ sản xuất dầu
lữa thô trung bình 450 000 thùng dầu thô mỗi ngày.
Kể từ khi ký khế ước đầu tiên năm1978, đến tháng 6 năm 2009, 57 khế ước đã được ký kết ( phần lớn ở độ sâu dưới 200m )và 27 khế ước này đã
thực thi ( 15 ở giai đọan thám hiểm – exploration, 12 ở giai
đọan phát triễn và sản xuất –
development and production stage . Năm
1994 chỉ mới ký kết được 28 khế ước liên doanh ( ghi từ số 1 ở lưu vực
sông Hồng xuống đến lưu vực Malay- Thổ
Chu số 25 – 26 ở Biển Tây và lưu vực Nam
Côn Sơn đánh số 27- 28 ở Biển Đông . Năm 2008, 5 khế ước thám hiểm mới đã được
ký kết, như MVHN với Arrow , lô 123 với
Santos, lô 109-104 /05 với Premier Oil, MVHN-02KT với
Keeper Resources và lô 129- 132
với GazProm. Hơn nữa Tập Đòan Dầu khí Việt Nam-PetroVietnam cũng đã gia tăng tốc độ thám hiểm tìm dầu ở ngoại quốc mục đích gia tăng mức sản xuất dầu quốc gia. Gồm có các khế ước với Lào ở các tỉnh Champasak, Saravan và Savannakhet, lô E1và E1 ở Tunisie,
lô Marine XI ở Cộng Hoà Congo, lô Danan ở Iran, lô M2 ở Myanmar và lô Junin -2 ở Venezuela hy vọng sẽ
khai thác dầu năm 2012, và ở Inđônêxia,
Algeria, Iraq, Cameroon, Mongolia, Cuba, Peru, Nicaragua và Kazakhstan. Đặc biệt Việt Nam
đã bơm thùng dầu thô đầu tiên ở một
giếng hải ngọai năm 2006 , mỏ Cendor D30
,lô SK 305( ? ) ở Mã Lai Á thuộc tỉnh Balingian, ngoài khơi Sarawak ,
mỏ sâu 150m . PetroVetnam chiếm 30 % cỗ phần , Petronas Mã lai Á 40 % , phần
còn lại thuộc Pertamkina - Inđônêxia. Tính đến 31 tháng 7 năm 2011, giếng dầu này đã sản xuất trung bình 4 730 thùng dầu/ ngày và 7.83 triệu m3 khí dầu/ngày
; tổng cọng là 174 340 thùng dầu và 282 triệu
m3 khí dầu.
Tàu khoan dầu khí ngòai khơi |
Trên phương diện sản xuất, năm 2008 sản xuất dầu thô đạt 15 triệu tấn- MMT chưa đến đỉnh cao nhất năm 2004 là 20 triệu
tấn, nhưng trử lượng dầu lại tăng thêm 127 triệu tấn, nhờ khám phá ra 5 mỏ
dầu mới. Mặt khác mức sản xuất khí dầu
tăng thêm từ 7.08 tỉ mét khối- BCM đến
7.94 tỉ mét khối. Trong lúc đó xuất khẩu chỉ còn chưa đến 14 triệu tấn dầu thô, kém đỉnh xuất
khẩu là 15 MMT trước đó. Chánh quyền
đã dự tính giảm xuất khẩu dầu khô hầu
bảo tồn tài nguyên cho các nhà máy lọc dầu tương lai; chẳng hạn nhà máy
lọc dầu của PetroVN khai trương ở Dung Quất – Quảng Ngãi ngày 6 tháng giêng năm 2009 và từ tháng giêng
đến tháng 11 năm 2009 đã sản xuất 936 000 tấn sản phẩm lọc dầu (bán ra
803 000 tấn ) và làm giảm bớt gần 50%
xuất khẩu dầu thô quí đầu năm 2010. Tuy nhiên nhờ giá dầu cao trên thương
trường quốc tế, trị giá xuất khẩu dầu VN vẫn gia tăng lên đến 10 – 45 tỉ đô la Mỹ tùy năm trong
khỏang thời gian này. Tháng chạp 2010, hảng Định lượng Doanh nghiệp vụ Quốc
tế - Busines International Monitor ( BIM ) ước lượng sản xuất dầu thô của
Việt Nam sẽ trụt từ đỉnh 400 000 thùng dầu mỗi ngày năm 2010 xuống 365 000 thùng / ngày năm 2015 và 310 000 thùng/ngày năm 2020. Và mức
tiêu thụ trong nước cũng sẽ tăng đến
660 000 thùng /ngày vào năm 2020. Trong khi đó, mức sản xuất khí dầu
Việt Nam sẽ tăng gia từ 8.9 tỉ mét khối BCM
năm 2010 đến 22.0 tỉ mét khối năm 2015, đến 25 tỉ mét khối năm 2020
. Mức tiêu thụ khí dầu là 9.1 tỉ BCM năm 2010, sẽ lên đến 18 tỉ BCM năm 2015.
Sau đây là tóm tắt các huyện - tỉnh Việt Nam tích cực
hay tiềm thế dầu và khí, tính đến năm 2005:
các vùng trầm tích và các lô khai thác dầu khí tiêu biểu |
·
Lưu vực Sông Hồng: ước lựợng chiếm 10 % tài
nguyên tổng thể hydrocarbon đất nước ( 2. 5 tỉ tương đương thùng dầu thô ). Thám hiểm
cho thấy khí dầu là tiềm năng chánh
của lưu vực này. Ngay bây giờ cũng chỉ mới có một vùng
khí dầu biên tế bờ biển được khai thác mà thôi. Tiên đóan là có thể sẽ khám phá ra 2 hay 3 mỏ khí dầu – gas fields mới, đặc biệt
ngòai khơi phía Nam
lưu vực ( nếu Trung Quốc không ngăn trở
thám hiểm thăm dò ). Năm 2010, ở lưu vực sông Hồng , Việt Nam sẽ tập
trung thám hiểm và sản xuất các lô mới :
104, 105, 110, 113, 114, 115 - 122 cũng
như mỏ Hàm Rồng thuộc lô 102- 106. Tính đến năm 2010, lưu vực dã khám phá ra 13 bồn- reservoir chứa khí dầu, trử lượng là 1.3 tỉ mét khối.
·
Lưu vực Phú Khánh : Biển sâu lưu vực này ước lượng chứa 15 % tổng số tài nguyên năng lượng hydrocarbon ( 3.5 tỉ tương đương
thùng dầu thô ). Một môn bài thám hiểm
đã được cấp để thám hiểm 9 lô ở lưu vực Phú Khánh. Sau đó ký kết thêm 2- 3 khế ước nữa và hy vọng sẽ khám phá ra 3 – 4 mỏ dầu và khí dầu sau 5 năm thám hiểm.
Năm 2010 , sẽ tập trung nổ lực vào các lô
41- 45.
·
Lưu vực Cửu Long. Đây là mục tiêu chính
sản xuất dầu lữa ở Việt Nam .
ước lượng lưu vực chứa 30%
tổng số tài nguyên dầu khí nước nhà ( 7-8 tỉ tương đương thùng dầu thô ) . Hiện đã có 5 mỏ
song hành, sản xuất vừa dầu thô vừa khí dầu, 95% tổng số dầu thô trong số này 85 % từ một
nền nứt rạn- fractured basement , bồn dự trữ dầu lớn nhất biết
được ở Việt Nam. Đang phát triễn 2 mỏ
dầu mới và một mỏ khí dầu. Hy vọng sẽ khám phá thêm hai mỏ dầu lữa nữa ở khu vực.
Năm 2010, sẽ tập trung công tác ở các lô
25- 31.
· Lưu vực Nam Côn Sơn:
chứa 20%
tổng số tài nguyên dầu và khí dầu
của Việt Nam
( khỏang 4. 5 tỉ tương đương thùng dầu
thô ) . Hiện đã khai thác sản xuất một
mỏ dầu và 2 mỏ khí dầu. Tuồng như tài
nguyên chánh lưu vực này là khí dầu thiên nhiên. Ngòai nhữing mỏ dầu , một lọat mỏ khí dầu đã được
phát triễn . Hy vọng là sẽ có thêm 2-3 mỏ dầu và khí dầu sẽ được khám phá.
Năm 2010, sẽ tập trung vào các lô 04.1 , 04.2, 05.B, 18-24 .
·
Lưu vực Malay – Thổ Chu. Đây là phần Việt Nam
của lưu vực Malay ( Mã Lai Á ) , chứa 10
tổng số tài nguyên dầu và khí dầu nước nhà (
2.5 tỉ tương đưong thùng dầu thô ). Ngòai một nhóm mỏ dầu đã sản xuất , một lọat mỏ khí dầu đã được phát
triễn . Hy vọng sẽ khám phá thêm 2-3 mỏ
dầu và khí dầu trong vùng . Năm
2010 , tập trung công ác vào các lô 36- 40 .
·
Lưu vực Vũng Mây Tu Chính, biển Đông, phía Đông Nam
lưu vực Nam Côn Sơn, tiếp cận các nhóm
lưu vực HoàngSa ( Paracels )và Trường Sa ( Spratlys ) . Năm 2010 sẽ tập trung nổ lực ở các lô 135,
136. Lưu vực này là một trong những lưu
vực biên cương dầu, khí tương lai nước nhà, gồm luôn một phần cả hai nhóm
lưu vực Hòang Sa và Trường Sa đã, đang bị Trung Quốc xâm chiếm, chiếm đóng hay đe dọa nặng nề. Ước
lượng các lưu vực này chứa 15% tổng số tài nguyên dầu - khí Việt Nam
( 3.5- 4 tỉ tuơng đương thùng dầu thô) .
Tháng chín năm 2006, Petro
Việtnam và PetroChina hội hợp điều đình ở Bắc Kinh chủ quyền thám hiểm, khai
thác dầu – khí Biển Đông ( Trung Quốc
gọi là Nam Hải ). Petro China
có 20 lô – blocks ở Biển Đông. Chúng chiếm 127 000 km2
ở các lưu vực Kỳ Hồng (? ) Đông Nam
-Qiongdongnan, Vịnh Beibu - Bắc
Bộ, Nam Vệ Tích- South WeiXi,
Bắc khang –Beikang. Một số lưu
vực này như vậy nằm trong vòng tranh chấp
giữa Trung Quốc, Việt Nam ( sau khi Trung Quốc đã cưỡng chiếm toàn thể quần đảo Hòang Sa năm 1974 và một số đảo quần đảo Trường Sa , nên lúc này Truờng Sa Việt Nam chỉ còn 24 đảo ( ?
), Việt Nam đã lấy lại trong tay Trung Quốc năm 1988 ) và Mã
Lai Á. PetroChina đã ngưng
lại các dự tính khoan dầu tại Trũng
Hoa Quảng- Hua Guang Trough ở lưu vực Qiongdongnan - Trường Sa để tránh Việt Nam phản đối .Giếng
dầu Hoa Quảng 1 cách mũi Sanya cuối
tỉnh đảo Hải Nam – Hai Nan Trung
Quốc 230 km ( ? ) về phía Nam và cách thành phố Đà Nẳng 240 km ( ? ) về phía đông. Nghiên cứu
địa chấn – seismic survey
cho thấy có 10 bẩy dầu ở vùng giếng này, 5 bẩy lớn hơn 100 km2 . Năm 2008, các công ty
dầu lữa Trung Quốc cũng đã họat động
chậm lại các công tác về dầu lữa ở quần
đảo Trường Sa, hầu bảo đảm thành công tổ chức Thế Vận Hội Bắc Kinh. Tuy vậy,
trước đó, năm 2007, PetroChina hảng chóp bu công nghệ dầu lữa thượng nguồn
Trung Quốc, một mặt tuyên bố phát triễn
chung ở vùng đảo tranh chấp với
PetroVietnam, mặt khác lại tự tài trợ thám hiểm vài lô “chồng chất”, Việt Nam
cho là hòan tòan thuộc chủ quyền Việt
Nam. Tháng tư 2007, Bộ Ngọai Giao Trung Quốc phản kháng quyết định Việt
Nam phát triễn hai mỏ
khí dầu Hải Thạch và Mộc Tinh ở lưu vực
quần đảo Trường Sa và xây dựng một ống dẫn khí cho hai mỏ này, tố cáo là Việt
Nam xâm phạm chủ quyền và cai trị Tàu ở vùng này. Việt Nam
lờ hẳn tố cáo, vì rằng các mỏ nằm bên
trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ,
đã được công luật biển quốc tế 1982 công nhận. Tháng 3 năm 2011 , như chúng ta
đã biết, hải quân Trung Quốc đã cắt các cáp nghiên cứu địa chấn tàu Bình Minh
thám hiểm dò các bẩy dầu – khí tại thềm lục địa và vùng kinh tế biển đặc hửu
của Việt Nam .
Trung nguồn- Ống dẫn dầu khí
Ở
trung nguồn ngành công nghệ dầu khí nước nhà,
đã thực hiện, họat động những dự án sau đây : Ống dẫn khí Rạng Đông-Bạch Hổ, khả năng chuyên chở 2 BCM/năm ,
dài 150 km , đường kính 16 ngón Anh ( 40.6 cm), bắt đầu họat động năm
1995, khách hàng là nhà máy điện, nhà máy phân đạm hóa học, các nhà máy làm khí
lỏng -LPG ; Ống dẫn khí
Nam Côn Sơn, khả năng 7
BCM/năm chia ra 2 giai đọan, dài 398 km,
đường kính là 26 ngón ( hơn 66 cm ), bắt đầu họat động năm 2002, khách hàng
là nhà máy điện và các nhà máy
làm khí đặc – condensate gas ; Ống
dẫn khí áp xuất thấp Phú Mỹ- Gò Dầu
khả năng 1 BCM / năm, giai đọan 1,
không biết rỏ kích thước - chiều dài ,
bắt đầu họat động năm 2003, khách
hàng là 5 vùng công nghệ; Ống dẫn PM3-
CAA- Cà Mau, khả năng 2 BCM
/năm, dài 316km, đường kính 18 ngón Anh ( 45. 7 cm );
bắt đầu họat động tháng chạp năm 2008, khách hàng là nhà máy
điện và nhà máy phân đạm hóa học ; Ông
dẫn khí Phú Mỹ- Nhơn Trạch – Hiệp Phước
, khả năng 2 BCM/năm, một phần dài 26 km, đường kính 22 ngón ( 55.9 cm)và một phần dài 13 km,
đường kính nhỏ hơn 12 ngón( 30,5cm ); đang xây cất ống dẫn
khí Ô Môn chuyên chở khí từ lô B và lô
52/95 của lưu vực Malay – Thổ Chu đến Ô
Môn – Trà Nóc, khả năng 6.5 BCM/năm,
dài 400 km ( 246 ngòai khơi đến bờ biển
và 152 km ở đất liền ), đường kính 26
ngón ( 66cm ), bắt đầu thực hiện tháng 9 năm 2009, khách hàng là các nhà máy
điện Ô Môn và Trà Nóc cùng phân phối sử dụng địa phương; đang lập dự án ống
dẫn Đông – Tây miền Nam ( ? ).
Hạ nguồn : các nhà máy lọc dầu và hậu cần
Tháng hai năm 2009, khai trương nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam ở
Dung Quất – Quảng Ngãi, họa kiểu có khả năng lọc 6.5 triệu tấn- MMT dầu
thô. Nhà máy này sẽ dùng dầu thô trong ( ngọt ) - sweet crude oil của mỏ Bạch Hổ làm giảm ước
lượng xuất khẩu dầu thô Việt Nam năm
2009 xuống chỉ còn 11.6 triệu tấn. Tuy nhiên
nhà máy sẽ sản xuất sản phẩm dầu lữa
petroleum, LPG, và nhiều sản phẩm khác năm đầu tiên họat động và mức sản xuất
hy vọng thỏa mãn 30- 40% yêu cầu nội địa.
Như vậy, nhập khẩu nhiên liệu và dầu lữa sẽ giảm xuống chỉ còn khỏang 12
triệu tấn- MMT, nghĩa là giảm bớt 1 triệu tấn -MMT so với năm trước. Tuy nhiên
nhà máy Dung Quất chưa hoàn tất. Nhà máy
chỉ có khả năng lọc dầu trong- ngọt (
chứa ít sulphuric ) và cần đầu tư thêm 1 tỉ đô la nữa hầu lọc các dầu chua-
sour (chứa nhiều sulphuric). Ngòai ra
PetroVietnam dự trù đầu tư thêm 700 tỉ đồng VN xây cất một hệ thống tồn
trữ để tồn trữ và phân phối các sản phẩm Dung Quất. Song song với Dung Quất, PetroVietnam
đang xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi
Sơn-Thanh Hóa, dung lượng 7MMT/năm , đầu tư 3 tỉ đô la Mỹ. Hơn nữa PetroVietnam đang nghiên cứu xem có
nên xây dựng thêm một nhà máy lọc dầu thứ ba, có lẽ ở Long Sơn – Vũng Tàu, gần
các mỏ tích cực và các thị trường chánh ở miền Nam Việt Nam. Nhà
máy lọc dầu này được xem là một dự án thương mãi vững bền nhất. Nhưng phát triễn nhà máy lọc dầu thứ ba đang phải tạm hõan năm 2010, vì PetroVietnam không
muốn cạnh tranh mau quá với hai dự án đã
kể trên ( ? ) khi thị trường tiêu thụ
chưa phát triễn đầy đủ .
Ngành công nghệ dầu khí Việt Nam cần phải phát triễn thêm nhiều
dự án hậu cần - logistics khác
của hạ dòng. Tỉ như:
- Các ga chuyễn dầu đi xa-oil
terminal deport : ở miền Bắc 100 000 m3, ở miền Trung 20 000 m3, ở miền Nam
450 000m3.
- Các tàu thủy chở dầu
thô, dung lượng 1 triệu DWT.
- Nhà máy Ethylene và Polyethylene (PE ), dung tích
450 00 tấn một năm ở Bà Rịa – Vũng Tàu .
- Nhà máy
polyterephthalat ( PTA), dung tích 320 000 tấn một năm ở Thanh Hóa.
- Nhà máy linear
alkyl benzene ( LAB ), dung tích 30 000 tấn ở Dung Quất
- Nhà máy sợi tổng hợp
- PET , dung tích 300 000 tấn một năm ở miền Nam ( ? )
- Nhà máy olefin và plastics ( PE, PP,
EDC/VCN ), dung tích 600 000 tấn
một năm ở miền Nam và miền Trung ( ? )
- Nhà máy polystyrene, dung tích 100 000 tấn một năm ở Dung
Quất
- Nhà máy điện Cà Mau 505 MW
tháng tư năm 2007, 750MW tháng chạp 2007, 750 MW
tháng ba năm 2008.
- Nhà máy điện Nhơn Trạch 450MW
tháng 3 năm 2008, 750MW sau 2010
- Nhà máy điện Ô Môn 600MW năm 2008, 720MW năm 2009 và 1700 MW năm 2010
Sản phẩm dầu lữa ( hỏa )
Năm 2008, yêu cầu trong nước về sản phẩm dầu
lữa ước lượng là 13 triệu tấn, đa số phải nhập khẩu. Trên căn bản thị trường,
Việt Nam chia ra hai khu vực, miền Bắc và miền Nam với 2
trung tâm kinh tế là Hà Nội và Thành Phố
Hồ Chí Minh – Sài Gòn làm tụ điểm. Cả hai tập đòan PetroVietnam và tổ
hợp Dầu lữa Quốc Gia Việt Nam- Vietnam National Petroleum Corporation ( Petrolimex ) lập ra những chi nhánh khác nhau, họat động độc lập ở hai miền Nam –
Bắc. Ở phía cung cấp như đã nói, Việt Nam nhập khẩu 12,86 triệu tấn sản phẩm dầu lữa trị giá
10.98 tỉ đô la năm 2008, tăng 2.41 % so với các năm trước về thể tích, và giá trị lại
tăng cao hơn đến 15- 45%.
Ai là diễn viên thị
trường ?
PetroVietnam, hảng độc quyền
dầu- khí quốc gia, được trao đầy đủ quyền hạn
để làm quyết định thay mặt chánh
phủ Việt Nam lo liệu về chánh sách, qui
họach, chiến lược cho việc phát triễn ngành công nghệ, kể cả cộng tác với các
thể nhân ngọai quốc và ký kết các khế
ước dầu lữa cũng như thực thi, định
lượng, thanh tra và kiểm sóat mọi họat động dầu lữa.
Thật sự PetroVietnam đã cung cấp 70% dịch vụ cho ngành dầu lữa và khí dầu trong nước. Bất cứ họat động nào thám hiểm và sản xuất dầu khí các thể nhân ngọai quốc ở Việt Nam đều phải có sự cộng tác với PetroVietnam. Chẳng hạn , Vietsopetro , công ty sản xuất dầu lữa lớn nhất ở Việt Nam là một liên doanh –joint venture giữa PetroVietnam và Zarubezhneft của Nga. PetroVietnam cũng là một kẻ chung cổ phần với các công ty dầu lữa quốc tế - international oil companies ( OICs ) gồm BP, Conoco Phillips, Tổ hợp Dầu Quốc gia Hàn Quốc ( KNOC ), Petronas Malaysia, Nippon Oil Nhật, và Talisman Canada (? ). Năm 2008, luân chuyễn vốn - turnover của PetroViet Nam ước lượng là 280 ngàn tỉ đồng, tương đương 20% GDP cả nước.
Thật sự PetroVietnam đã cung cấp 70% dịch vụ cho ngành dầu lữa và khí dầu trong nước. Bất cứ họat động nào thám hiểm và sản xuất dầu khí các thể nhân ngọai quốc ở Việt Nam đều phải có sự cộng tác với PetroVietnam. Chẳng hạn , Vietsopetro , công ty sản xuất dầu lữa lớn nhất ở Việt Nam là một liên doanh –joint venture giữa PetroVietnam và Zarubezhneft của Nga. PetroVietnam cũng là một kẻ chung cổ phần với các công ty dầu lữa quốc tế - international oil companies ( OICs ) gồm BP, Conoco Phillips, Tổ hợp Dầu Quốc gia Hàn Quốc ( KNOC ), Petronas Malaysia, Nippon Oil Nhật, và Talisman Canada (? ). Năm 2008, luân chuyễn vốn - turnover của PetroViet Nam ước lượng là 280 ngàn tỉ đồng, tương đương 20% GDP cả nước.
Về phía sản phẩm dầu lữa, Petrolimex là
diễn viên chánh. Petrolimex hiện nắm giữ 60 % thị trường dầu lữa với 1500 tiệm bán lẽ và hơn 6000 trạm bán xăng khắp xứ
sở. Những năm gần đây, Petrolimex đã nhập khẩu mỗi năm 7-8 triệu m3 sản
phẩm đầu lữa . Trị giá luân chuyễn vốn riêng về xăng – petrol, năm 2008 lên đến 25 ngàn tỉ đồng VN.
Về
thị trường LPG, công ty PVGas,
chủ nhân nhà máy lọc dầu Dinh Cố,
là một hảng cung cấp đáng ngạc
nhiên nhất. Các diễn viên ở thị
trường LPG là PVGas North, PVGas South, Petrolimex Gas,
Saigon Petro, AnPha S.G và Total Gas.
Kỷ
thuật và phân phối : Dàn khoan tân tiến đúng trào lưu, hệ thống tồn trữ và
phân phối còn khiếm khuyết nhiều
Dàn Khoan PV drilling của VN |
Trên phương diện thị trường khoan - đào giếng dầu – drilling market, công ty PV Drilling một chi nhánh của
PetroVietnam có một sàn bệ khoan dầu- oil platform ( để khoan dầu
ngòai khơi - offshore oil drilling ) và một dàn khoan – drilling rig
( để đào khoan dầu trên đất liền ). Dàn
khoan PV Drilling 11 có khả năng
khoan xuống bề sâu 5700m
và có đủ hổ trợ cho 130 nhân công đã họat động khoan ở MOM-3, nước Algeria ,
Bắc Phi Châu. Sàn bệ dầu PV Drilling I là một họa kiểu cận đại, trang bị gồm có
Top Drive TDS 8SA, đúng khoa học kỷ thuật thời trang, 3000 mã lực HP
National Drawwork, VFD, 14-P-220 Bơm Bùn ( Mud Pump ) và Hệ thống Amphion
Drilling System. Sàn bệ dầu này có khả năng khoan sâu đến 7600m
và có đủ hổ trợ cho 110 nhân
công. PV Drilling II và PV Drilling III
đã được xây dựng và đã họat động cuối
năm 2009. Chúng thuộc hệ thống kỷ thuật cận đại nhất và có
khả năng khoang xuống bề sâu 9144m.
Trên phương diện thị trường dầu lữa, trái
lại hệ thống tồn trữ và phân phối thật còn rất khiếm khuyết. Petrolimex có hệ
thống tồn trữ khỏang 1.2 triệu m3 , nghĩa là chỉ thỏa mãn yêu cầu nội địa một tháng mà thôi. Nhiên liệu được cung cấp xuyên qua một hệ
thông trạm xăng chồng chất lẫn nhau trong đó Petrolimex đóng vai trò lảnh đạo ( 6000 trạm như đã kể trên
) cùng với Saigon Petro ( 1000 trạm ) .
Trên phương diện thị trường LPG , hệ thống bến tàu – wharf
system ở Việt Nam vào giữa năm
2009, chỉ đủ khả năng cho cập bến
các tàu nhỏ, trọng tải 1000- 1500
tấn. Thua
xa Thái Lan , nơi tàu 50 000 tấn cập bến
được.
Ở trung nguồn, năm 2008, hệ thống ống dẫn quốc gia – national pipe
line system cung cấp 6.98 tỉ m3 khí dầu , 70 000 tấn khí
làm đặc lại - condensate và 260 000
tấn LPG
( Irvine , Nam
Ca li – Hoa Kỳ, ngày 30 tháng 6 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét