Thử nhìn xem họ đang làm gì cho tương lai
phát triễn Hoa Kỳ?
10
nhà khảo cứu khoa học xuất sắc, năm
2011, ở các la bô Hoa Kỳ
Gs Tôn
thất Trình
Sau đây là những lảnh vực những nhà khoa
học xuất sắc, tương đối trẽ tuổi dưới
40, đang khảo cứu đầy sáng tạo ở các la
bô Hoa Kỳ, chiếu theo số tháng 10 năm 2011 nguyệt san “ Khoa học phổ thông –
Popular Science”:
1- Jaap de Roode, 34 tuổi,
nhà Dược sĩ Bướm, viện đại học Emory :
Quan sát cách nào các sâu bọ-côn
trùng dùng cây cỏ - thực vật cho thấy là
tự chửa thuốc – self medication không phải chỉ dành riêng cho các động
vật phức tạp. Nhà sinh học tiến trào
Jaap de Roode nói : tôi không bắt đầu họat động với bướm chúa - monarchs vì tôi thích lọai bướm này. Tôi đến với chúng
vì chúng chứa một ký sinh trùng thật sự lạnh nhạt. Ký sinh trùng này tên gọi là Ophryocystis elektroscirrha , thường xoi lỗ trong da
bướm, làm chúng thất thóat những chất
lỏng thân thể bướm. Nhưng de Roode nhận xét là bướm ăn cây cỏ sửa – milkweed nhiệt
đới thì không bị ký sinh trùng lây nhiễm
như thể các bướm chúa ăn cây cỏ sửa
đầm lầy – swamp milkweed ôn đới.
Điều này đưa ông tới gợi ý cho các bạn đồng nghiệp là bướm chúa tự cứu chửa mình. De Roode nhớ
lại: một nhà duyệt xét khảo cứu cho là ý kiến đáng nực cười. Không có cách gì
các bướm có thể làm như vậy cả. Cho đến
lúc đó, tự chửa thuốc được xem như thể một tính trạng văn hóa
phức tạp. Chỉ một vài động vật, tỉ
như tinh tinh – chimpanzee và voi, đã dược quan sát sử dụng y khoa.
Để thử nghiệm giả thuyết, thọat tiên de Roode nhìn xem các ấu trùng lây nhiễm có thích gặm trệu trạo các lòai cỏ sửa nhiệt
đới giết ký sinh trùng hơn là cỏ sửa đầm lầy không. Chúng không gặm như vậy, cho nên ông kết luận là các ấu
trùng không dùng các cỏ sửa nhiệt
đới làm thuốc. Nhưng khi ông so sánh hành
vi các bướm cái trưởng thành lành mạnh với các bướm cái trưởng thành bị lây
nhiễm, truyền ký sinh trùng khi đẻ trứng qua con cái, một khác biệt mau lẹ
hiện ra. Các bướm cái bị lây nhiễm thích
đẻ trứng trên cỏ sửa nhiệt đới, cho thấy là chúng ưu đải – lụa chọn chửa trị con cái. Theo Roode,
các bướm mẹ, cách nào đó, đã biết lựa
chọn những gì tốt nhất.
Khám phá của ông thách thức quan
điểm cho rằng chỉ có những động vật có nhận thức phức tạp – cognitive
complexity mới sử dụng y khoa. Nếu
các bướm, động vật chỉ có hệ thống thần
kinh đơn giản và không có cơ cấu xã hội, cũng có thể
dùng y khoa ưu đải, có lẽ tự chửa đã lan khắp vương quốc động vật và các
nhà khoa học hiện chưa có cơ hột tìm ra được.
2-Eitan
Grinspun, 36 tuổi, nhà vặn vẹo điện tóan, viện đại
học Columbia :
Đã làm cho các vật thể thực tiễn hơn trở thành phức tạp, đòi hỏi
một lọai hình học – geometry mới .
Khi cố vấn cho Eitan Grinspun ở Viện Kỷ thuật California hỏi ông giúp
đở phát triễn một phương cách tốt hơn làm kiểu mẩu cách nào lon bẻ cong
lại khi bị nghiền nát, nhà tóan học trẻ tuổi
không nghĩ rằng đây là một dự án chánh.
Grinspun nói: ông ta lừa tôi
vào một cái gì sẽ kéo dài, năm này qua
năm khác. Thế nhưng hành trình làm kiểu
mẩu một lon Coca cola bị nghiền nát, lại có thể cuối cùng tạo ra một lảnh vực hình học mới.
Hình học vĩ
phân – differential geometry cách nào các đường cong và mặt bằng –
surfaces của một vật thể nào đó
sẽ bị cong và nhăn nhúm. Grinspun nói : hình học vĩ phân này được xây đắp cho những mặt bằng phẳng lì với chi tiết vô
hạn.
Các máy computer chỉ có thể xử
lý một số lượng chi tiết có hạn. Chẳng
hạn, muốn mô tả một vònh tròn, các máy computer phải chia vòng tròn ra một lọat
những cạnh ngắn nối nhau , số
cạnh càng nhiều thì vòng tròn càng phẳng lì hơn. Mô tả tất cả đường cong và nhăn nhúm ở một lon bị nghiền nát có thể
chính xác, phải dùng một số lượng đồ sộ sức
lực xử lý. Cho nên Grinspu , một người của một cặp duy nhất nhà tóan học ở
lảnh vực có căn bản về khoa học computer , đặt mình vào địa vị chuyễn dịch các định lý – theorems thành một bộ
chỉ thị thanh lịch hơn cho computer, giúp các vi xử lý –
processors hiện hửu phá vỡ
vô hạn thành những đơn vị phân lập ( tách biệt ) hiệu quả hơn nhiều.
Phương pháp
Grinspun họat động bằng cách tập trung ở những nơi mà di chuyễn sẽ xảy ra và
trong ca của các lon côca côla là nhữ ng nơi lon xếp lại, khi bị vò nhàu. Theo Grinspun, có rất nhiều
vùng phẳng dẹt không có gì nhiều xảy ra. Nếu computer trải dài chú ý đều như nhau , máy sẽ không đi tới những phần thích thú, nơi các lằn nứt thành hình. Một
khi Grunspun và các đồng nghiệp thiết
lập thể thức mới mẽ này, họ gọi là hình
học vĩ phân phân lập – discrete, thắc mắc từ các nhà vật lý học, kỷ sư và cổ
vũ bắt đầu đến. Disney và
Weta Digital dùng định lý của
ông làm cho vải vóc và tóc di chuyễn một cách thuyết phục hơn. Các nhà vật lý hộc viện
MIT đã tạo ra origami từ các miếng
plastic nhỏ và các giọt nước. Các kỷ sư
nay đã tiên đóan chính xác hơn nhiều, cách
nào dây cáp sẽ rơi xuống đáy - sàn biển.
Ông nói : đối với tôi, lảnh vực là một sân chơi. Tôi lấy một vấn
đề vật lý thích thú , tỉ như các sợi mì
spaghetti di chuyễn. Quẳng chúng lên không khí, chúng rơi xuống đất và chúng vặn
tréo và cuộn lại. Tại sao chúng lại di chuyễn như vậy?
3- Tobias Ritter, 36 tuổi, viện đại học Harvard, ngành cơ học hóa học :
Đang cố cột fluorine vào y khoa, làm y khoa
hửu hiệu hơn. Sau 1200 cố tâm thất bại làm một việc gì, đa số sẽ bỏ
đi. Nhưng nhà hóa học Tobias Ritter,
viện đại học Harvard vẫn kiên trì. Ông
nói: khảo cứu hóa học là 90 % thất bại .
Nhưng thành công khi nó tới có
thể rất to lớn. Ca Ritter có nghĩa là những dược phẩm hửu hiệu hơn.
Ritter sinh quán ở Đức , đã nghiên cứu phối hợp
fluor – fluorination , một tiến trình nối dính các nguyên tử fluor
–fluorine với carbon từ năm 2007.
Các nhà chế tạo dược phẩm đã biết
từ lâu là fluor làm cho thuốc vững bền, uy vũ và xuyên mạnh ; nhưng
các phương pháp tiêu chuẩn cột fluor không
đáng tin cậy và thường làm tổn hại
thuốc. Cố tìm ra một kỷ thuật phối
hợp fluor là một trong những thách thức khó khăn nhất
trong y khoa cận đại, theo lời Robert Grubbs nhà hóa học đọat giải Nobel ở đại học
Caltech. Nhưng Ritter vẫn tiếp tục.
Một
cách tốt đẹp cột fluor vào một hợp chất hửu cơ là sử dụng một xúc tác – catalyst. Ritter và các đồng nghiệp bắt đầu thí
nghiệm với các xúc tác kim lọai, điều
chỉnh các thành phần và thử lại sau mỗi phản ứng , khỏang 1200 cố gắng trong một năm. Cuối cùng khi sử dụng palladium làm xúc tác, nhóm Ritter đã thành công lần đầu tiên. Lượng thuốc được phối hợp fluor chỉ ít
ỏi, 1%
sản xuất lý thuyết của phản ứng. Họ
tiếp tục vặn vẹo các điều kiện phản ứng
chuyễn qua xúc tác oxid bạc và cải thiện năng xuất phản ứng lên 90%. Ritter nói : khi đặt chân
được vào ngưỡng cửa , mọi chuyện đều dễ dành hơn.
Phương pháp phối hợp fluor của ông có thể làm
cho các thuốc chống trầm kha –
depression và ung thư trở nên tốt
đẹp hơn, bằng cách cột thuốc vào các mục
tiêu ( ông đã khởi sự sáng lập một công ty thử nghiệm kỷ thuật ),
đồng thời cũng sẽ giúp các nhà khoa học
nghiên cứu cách nào thuốc họat động. Những
phân tử phối hợp fluor được sử dụng
để buộc thẻ các hợp chất ở các máy rà
dò phát ra positron cắt lớp tia –X-
positron emission tomography (
PET ) scans . Vì chưng kỷ thuật Ritter buộc thẻ fluor vào giai đoạn cuối của tổng hợp thuốc, các
nhà khoa học có thể đủ khả năng theo dõi
lối đi các phân tử này, xuyên qua thân thể chúng ta.
4- Hashim M. Al – Hashimi, 37 tuổi, nhà
vật lý sinh học,
đại học Michigan
Cố chận bắt
những phân tử vĩ mô – macromolecules di động, sẽ giúp các nhà khảo cứu làm ra những
thuốc chống HIV tốt hơn. Mỗi sáng tinh
sương, trước bình minh nếu được, Hashim Al- hashim chạy bộ gần 10 km dù mưa hay nắng, dù nóng hè hay đông lạnh ngắt bang Michi gan, Hoa Kỳ. Con đường ông lựa
chọn sẽ là đồi núi, có lý do: chính trên
đỉnh đồi, khi cơ bắp đau nhức nhiều nhất và thân thể muốn rời bỏ, thì trí óc ông
mới minh mẫn nhất. Ông nói: đa số suy
nghĩ của tôi là ở trên đỉnh đồi .
Và chính ngay ở một lúc chạy bộ
đến đỉnh đồi, đã đưa ông tới sáng kiến to lớn nhất về hình dung phân tử . Sử dụng một algorithm
computer ông phát triễn và máy chụp hình cộng hưởng từ tính hạt nhân
– nuclear magnetic resonance imaging, Al –Hashimi ghi chép những uốn éo
kích thước nguyên tử của RNA và DNA, từ lâu được xem ở ngành sinh học là những cơ cấu tương đối không uốn nắn được.
Thay vì nắm chặc một dạng chủ yếu, Al-Hashimi tìm thấy là RNA cong lại và ngọ nguậy thành một lọat hình dáng đóan được,
khi những nguyên tử của nó xoay tròn quanh các mối nối. Mỗi dạng là một mục tiêu tiềm thế cho các thuốc tấn công RNA. Dùng
phương pháp mới mẽ này, Al- Hashini đã xác định một phân tử gọi là netilmicin, có thể làm ngưng sao chép HIV
bằng cách cài then vào RNA, nơi một
trong những protêin thiết yếu của virus cũng cài then vào đó .
Ngay cả Al – Hashimi cũng luôn luôn di động. Ông
sinh ra ở xứ Li băng ( Lebanon ) trước khi nội chiến và gia đình ông trốn
ra nước Hy Lạp sau đó.
Rồi họ sang sinh sống ở Ý, Jordan, Wales và Anh Quốc. Ngay sau khi ông làm PhD ở đại học Yale ,
một bạn đồng nghiệp la bô hình dung một protêin, tên gọi là myoglobin, không thể
khít vào bất cứ một hình thể DNA đơn
giản nào cả thảy. Theo Al- Hashimi, tuồng như rỏ rệt là protêin này đang di động - mọi sự ở sinh học đều di động - nhưng lúc đó
đa số các nhà sinh học không nhận thức được là phân tử vĩ mô sinh học đi động bao xa. Rồi ông nhận thức là làm tiết lộ di động phân tử sẽ là đề tài ông tụ điểm.
Nay
ông đã sống 9 năm ở thành phố Ann Arbor , lâu hơn mọi thành phố khác, cố vấn
những nhà khoa học ở hảng công nghệ sinh học Nymirum vừa mới bắt đầu và cố gắng nhìn xem những vùng lớn hơn của những phân tử DNA . Ông nói rằng, ngừng chân là một cái gì có vẽ lạ lùng và ông vẫn còn
chạy bộ mỗi buổi sáng. Tốt nhất là khi
trời còn tối om. Ông nói thêm: rồi có một cái gì cần nhìn xem. Và chỉ có bạn
và trí óc của bạn !
5- Susannah Tringe, 38 tuổi, nhà đào mỏ bùn cặn Hệ Gen học,
Liên Viện Hệ Gen Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ
Đang rà dò những hệ gen của toàn thể
một hệ thống sinh thái- ecosystems, có cơ giúp các nhà khoa học hiểu
biết tịch thu tạm thời carbon. Susannah
Tringe dùng đa số thời gian họat động ở đất đầm lầy – wetlands hiển
nhiên, u ám Châu Thổ Sacramento- San Joaquin,
miền Bắc bang Ca li – Hoa Kỳ. Những
cộng đồng vi trùng phồn thịnh ở đó, có thể là
chìa khóa để hiểu rỏ cách nào các
đất đầm lầy làm dịu bớt hay gia tăng các mức khí nhà kiếng trong khí quyễn chúng ta. Tringe đã làm liệt kê dấu tay di truyền tòan thể vi trùng hệ thống sinh thái, hầu qui định cách nào các đất đầm lầy này
họat động và chúng ta có thể nào may mặc chúng
trong lúc phục hồi các đất đầm lầy thóat thủy ( tháo nước ) để hấp thu
nhiều khí nhà kiểng hơn là chúng phát thải khí ra.
Bà là một nhà vật lý sinh học theo
huấn luyện và là một tay ác ôn chơi trò ô chữ khi rảnh rỗi.
Tringe tụ điểm gần gũi nhất trên các vi trùng đất đầm lầy, và đất dai ,
cây cỏ vi trùng sống trên chúng. Nghiên cứu sinh học tập thể hệ thống sinh thái, theo lời bà, sẽ giúp bà hình dung là các đầm lầy có kéo ra khỏi khí quyễn carbon không hay , như trong một vài ca, chúng sản xuất ra thặng dư methane và các khí
nhà kiếng khác ? . Nhưng thủ tục này
đặt ra nhiều vấn đề chuyễn vận. Một chén bùn đục có thể chứa hàng ngàn
lòai vi trùng và thật khó lòng cách ly mỗi một lòai và liệt kê các genes cá
nhân của chúng.
Thay vào đó, Tringe trích chiết
DNA của mọi vi trùng tòan cả mẩu,
qui định xem genes nào hiện diện. Bà nói: nếu nhiều sinh vật trong môi trường có gen(e) , đây có thể rất
quan trọng . Khi bà tìm thấy nhiều genes
ở một mẩu vi trùng làm mã số cho những
tiến trình hướng dẫn tồn trử carbon
chẳng hạn, thì đó là một chỉ dẫn tốt là các vi trùng, không phải đám cây cỏ -thực vật, mới quan trọng cho việc
tịch thu tạm thời carbon dioxide.
Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ mới đây, đã thưởng cấp không 2.5 triệu đô la Mỹ để bà tiếp tục klhảo cứu các hệ thống sinh thái đất đầm lầy, mục đích
cố tìm phương cách tốt nhất phục hồi
chúng. Tule, một cây thường dùng để phục
hồi đất đầm lầy chứa đựng ở rễ những vi
trùngsản xuất methane , như bà đã khám
phá ra. Thay Tule bằng một cây khác có thể giảm bớt được rò rĩ
khí nhà kiếng. Nếu chúng ta phục hồi được mọi đất đầm lầy đã tháo nước ở
châu thổ Sacramento, theo lời bà, thì
cũng không khác chi thay mọi lọai xe SUV
ở bang Ca Li bằng các xe ô tô lai (chạy điện và chạy xăng ) – hybrids
vậy đó !
6- Hatice Altug, 33 tuổi,
quang tử học nanô, nhà ngang bướng ánh
sáng, viện đại học Boston :
Khảo cứu sử dụng những chip kim
lọai và ánh sáng, sẽ giúp các bác sĩ lâm sàng thêm khả năng dò ra virus ngay cả ở nhừng
bệnh viện nông thôn. Một trong những
thách thức thực thi y khoa ở các nước
chậm tiến- đang mở mang là chẩn bệnh mau lẹ đáng tin cậy các bệnh lây nhiễm. Đem tới cách chẩn bệnh virus mau lẹ cho dân gian còn qúa thiếu giúp đở, kỷ sư Hatice Altug
và nhóm khảo cứu của bà ở viện đại học Boston đã tạo ra và thử nghiệm một máy dò
sinh học – biosensor, dò được những sinh vật gây bệnh với ánh sáng trực tiếp chính xác.
Thành phần trung ương của máy
dò sinh học Altug là một miếng
kim lọai đục hàng triệu lỗ kích thước 300 nanômét. Altug phủ đầy trên tấm kim lọai các kháng thể
và chiếu trên chúng ánh sáng , có làn sóng đặc thù. Các electron trên tấm kim lọai tương tác với ánh sáng và cọng hưởng (dội tiếng, vang âm ), rồi tái
phóng xạ ánh sáng cùng một màu sắc phía
mặt sau của tấm kim lọai. Sơn
phủ bằng các kháng thể đứng đắn, tấm kim
lọai sẽ chụp bắt các hạt tử virus của một mẩu huyết thanh – serum máu,
khi nó chảy qua những lỗ bé tí ti.
Một khi đã kẹt, các virus sẽ thay
đổi tần số vang âm các electron của tấm
kim lọai ,đủ cho ánh sáng nhìn được tái phóng xạ thay đổi màu sắc. Tháng 7 năm
2011, các Viện Y tế Quốc Gia Hoa Kỳ tưởng thưởng cho không nhóm Altug 5 triệu đô la Mỹ trong 5
năm, để kiện tòan dùng các máy dò sinh
học này tại bệnh viện.
Sinh học là mới mẽ cho
Altug. Bà rời bỏ nước bà sinh trưởng là Thỗ
nhĩ Kỳ - Turkey năm 2000, để theo học viện đại học Stanford và chỉ khi
bắt đầu ở viện đại học Boston năm 2007 , bà mới ứng dụng
ngành công nghệ chuyên môn của bà vào các vấn đề sinh học. Theo Moskovits , nhà khảo cứu vật liệu và phó viện trưởng viện đại học City College ở New York, bà là một người hội nhập – integrator. Bà lấy những
kỷ thuật phát triễn riêng rẽ và nung
nấu chúng lại với nhau thành những linh
kiện lạ lùng này.
7
– Gaby Maimon, 36 tuổi, nhà khoa học dây
thần kinh, viện đại học Rockefeller
Quan sát nảo bộ của ruồi trái cây có thể làm rỏ thêm mối nối giữa các gen và cư xữ của
chúng. Gary Maimon có thể đọc trí óc của
ruồi trái cây. Khi các cánh ruồi vo vo
dưới kính hiển vi, ông xem xét những dây thần kinh, nơ ron – neurons bốc cháy trong óc nhỏ như hột cây thuốc phiện. Làm như vậy, ông có khả năng
biết rỏ cách nào vài nơ ron bốc
cháy tương ứng với vài cư xữ.
Mục đích của ông là gỡ rối chính
xác cách nào họat hóa gen( es ) và nơ ron kích động các rối lọan cư
xử , tỉ như bệnh vùi mình vào cảm
nghĩ mình – autism và ADHD .
Hầu hòan thành những nhìn sâu xa này,
cần đủ khả năng nghiên cứu nơ ron ruồi ,
khi ruồi còn tỉnh giấc, và cư xử như lúc ruồi bình thường khi đập cánh. Ông dựng lên một bệ plastic,
giữ các đầu ruồi bất động trong một bồn nước mặn – nơi ông có thể
nhét các điện cực khi mỗ xẽ nảo chúng- giúp cánh vẫn khô và đập tự do, khi chúng «
bay » xuyên qua một môi
trường bắt chước. Ghi chép họat động nơ ron của ông, những ghi
chép lần đầu tiên của những sâu bọ họat
động, còn sống thay vì đã bị thuốc
mê, giúp ông nhìn được tế bào nào đang họat động, như khi ruồi làm những quyết định đơn giản, chẳng hạn quay phải hay quay trái lúc bay.
Maimon, sinh trưởng ở Israel, luôn luôn tỏ ra tò mò về những cư xử phức
tạp. Tại trường cao học ông họat động với khỉ, nhưng ông thất vọng về bước tiến họat động chậm chạp cho nên khi đậu xong tiến sĩ, ông quay sang sâu bọ. Ông đã biết ruồi trái cây có 100 000 nơ ron và thao tác di truyền được dễ dàng, có cơ
giúp ông liên hệ họat hóa gen với chức
năng dây thần kinh và các cư xử phức
tạp.
Ở dự án kế tiếp, Maimon sẽ ghi chép họat
động của những nơ ron này ở nhiều con ruồi khác nhau, hầu xem thử biến thiên tế bào, có làm chúng cư xử khác biệt
nhau không ? Sau đó, ông sẽ tìm trong hệ gen chúng những mã số xây dựng
lên các tế bào này . Khảo cứu có thể tiết lộ cách nào chúng – và chúng ta – làm ra các lựa
chọn. Khảo cứu sẽ cần nhiều bàn tay vững chắc và nhiều cuộc mổ xẽ kích
thước ruồi và ông nay đã có các thủ tục mỗ xẽ rồi. Mưu mẹo ? « bạn không
được uống cà phê sáng hôm
đó ! » .
8- Justin Kasper, 33 tuổi, thợ lặn mặt trời, Trung tâmVật lý Thiên văn Harvard
Smithsonian :
Một máy dò thăm - probe kháng
nhiệt lượng bay gần mặt trời, sẽ
tiết lộ vật lý học của plátma – plasma mặt trời . Tháng 7 năm 2010, một đồng nghiệp chạy lẹ vào phòng sở Justin Kasper tại Trung tâm Vật lý Thiên văn – astrophysics
Harvard – Smithsonian tại Cambridge, bang Massachusetts- Hoa Kỳ . Ông trình bày
cho Kasper một viđêô viễn vọng kính, một
cái gì chưa từng thấy: một sao chổi đâm
sầm vào mặt trời. Quan sát thật đáng ngạc nhiên. Nhưng điều gì đã khiến Gasper chú ý trước khi
đụng độ là khi một hơi thở đám mây
lạ lùng chỉ dẫn là sao chổi
đụng nhằm một vật liệu chưa bao
giờ được quan sát cả.
Để giải đáp, trong nhiều câu hỏi cái
gì đã gây ra hơi thở đám mây, Gasper họa ra kiểu một dụng cụ, sẽ đến gần mặt trời hơn trước. Chén Thăm dò Mặt trời - Solar Probe Cup sẽ múc từng mảnh quầng – corona và gió mặt trời, liên tục đo lường tốc độ,
nhiệt độ, tỉ trọng mặt trời. Thông tin
này sẽ giúp các nhà vật lý học thiên văn
điều tra tại sao plasma quầng
lại nóng đến như thế - đến 1 triệu
độ - và tại sao plasma lại trở
thành gió mặt trời một triệu dặm Anh ( trên 1.6 triệu Km ), và
hơi thở bí hiểm là gì đây ? Kasper nói:
Ai biết điều chúng ta không làm
ra được, vì lẽ chúng ta ở xa
quá ?
Chén Thăm dò Mặt trời sẽ bay
ở sứ mệnh đầu tiên của NASA gọi
là Solar Probe Plus, năm 2018.
Khí nó đến Mặt Trời, nó sẽ phải chịu đựng những nhiệt độ đến 2550o F . Kasper và nhóm của ông đã
bắt đầu nâng cấp một máy dò –
detector ion qui ước bằng cách làm
co rúm lại chén thu thập plasma (
để nó sẽ hấp thu ít nhiệt lượng hơn )
và và khắc ăn mòn những mạng lưới
cứng cáp hơn, trên tungsten và sapphir
kháng nung chảy.
Một khi Chén đã cất cánh, cuộc gặm
nhắm dữ liệu khởi sự. Kasper có nhiều lý thuyết về những di chuyễn plasma máy dò của ông có thể bộc lộ. Nhưng đôi khi
ngay cả những lý thuyết hay nhất cũng không đóan trước được tình trạng hiện tại của plasma sẽ như thế nào. Kasper nói tiếp: chúng
tôi cố gắng dựng lên những khí cụ đầy
khả năng, theo sức mình, vì lẽ rất ít
khi chúng tôi tìm ra những gì chúng tôi
chờ đợi. Đây là một phần cuộc vui.
9 – Alessandra Luchini, 34
tuổi, nhà chụp bắt hóa học , khoa học
vật liệu , viện đại học George Mason
.
Sập
bẩy và bảo tồn các dấu chuẩn sinh học
– biomarkers sẽ giúp các bác sĩ y khoa dò ra ung thư sớm hơn. Khi Alessandra Luchini còn là một cô gái đang
lớn lên ở nước Ý, cô thăm viếng viện Bảo Tàng Galileo ở thành phố Florence ( tiếng Ý là Firenze ),
nơi cô nhìn thấy viễn vọng kính Galileo
sáng chế ra 4 thế kỷ trước, năm 1610. Cô
kinh ngạc về tính chất đơn giản của viễn
vọng kính này. Tuy nó chỉ là một cặp 2 miếng kính cong, bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy
được những thế giới mới.
Nam 2005, bà Luchini, nay là một kỷ sư, sang Mỹ học, nhờ một trợ cấp của Sở
Y tế Quốc gia Ý, để nghiên cứu những
phương cách dò ra các dấu hiệu phân tử
của ung thư. Vài bệnh sớm giải
tỏa ra những ám chỉ về sự chúng hiện
diện trong các chất lỏng thân thể. Những
dấu chuẩn sinh học này rất phù du – enzymes của chúng ta sẽ nhai hết chúng trong vài phút- cho nên phần lớn
các la bô không dò ra được chúng.
Nếu các bác sĩ có cách nào chụp bắt và
ổn định những dấu chuẩn sinh học này, họ sẽ dò ra các bệnh mau lẹ hơn và khởi sự chửa trị ở những giai
đọan mà cơ hội phục hồi cao hơn nhiều. Giải pháp Luchini là xây dựng một bẩy hạt tử
nanô –nanoparticles trap . Luchini nói: nó tương tự một bẩy bắt cá hết sức nhỏ. Hạt tử nanô tròn vo này, cần đến 2 năm mới
hòan tất, dùng hydrogel làm xương sống. Bên trong, một lưới polymer
đan chéo nhau sẽ giữ mồi bẩy, tỉ như acid hay chất nhuộm, hút dẫn những
dấu chuẩn sinh học khác nhau. Khi các cán sự la bô pha trộn những hạt tử
nanô trong mẩu máu tươi, nó sẽ bẩy sập những dấu chuẩn và bảo vệ chúng khỏi bị
enzymes phá hủy. Rồi mẩu có thể thử nghiệm khi rảnh rỗi. Cho đến nay, Luchini đã dùng bẩy
hạt tử nanô để sản xuất chẩn đóan sớm
các bệnh lây nhiễm tỉ như bệnh
Lyme và bệnh lao. ( Bẩy cũng có thể
tiết lộ sự hiện diện của hormon
tăng trưởng con người trong nước tiểu,
và như vậy cống hiến một cách mới làm hiện ra những cách các lực dùng thuốc kích thích bất
hợp pháp ). Bà và nhóm bà cũng đang dùng
các bẩy nanô, hầu tìm kiếm những dấu chuẩn sinh học ung thư da hiện diện trong mồ hôi người.
Bước tiếp tục của Luchini là sửa đổi các hạt tử nanô để chúng có thể bẩy sập những dấu chuẩn sinh học trong thân
thể, giúp các bác sĩ một cái nhìn đúng
thời gian, việc gì đã xảy ra bên trong các bệnh nhân.
10 – Chad Jenkins , 37 tuổi, nhà huấn luyện rôbốt , viện đại
học Brown
Nguồn đám đông giúp cho
rôbôt học làm những nhiệm vụ phức tạp như
con trẻ làm vậy đó. Khi
còn là trẻ em nghiện Atari, mọi điều Chad Jenkins ước muốn là ngày nào đó sẽ trở thành một nhà họa kiểu trò chơi viđêô. Nhưng khi vào học ban cao học đại học, ông chuyễn tham vọng qua
rôbôt.
Jenkins nhắm làm lập trình các rôbôt
để chúng học cách các trẻ em làm : ngang qua bắt chước và lặp lại.
Để dạy cho rôbôt ảo dạng người đầu
tiên của ông cách nào làm Cabbage Patch, ông lập trình nó
để nghiên cứu nó di chuyễn và lặp lại. Nay ông chuyễn chú tâm vào những nhiệm vụ phức tạp hơn, tỉ như dọn bàn
ăn hay sửa sọan bửa cơm. Then chốt là lặp
lại. Càng quan sát và thể thức càng
lớn hơn cho một nhiệm vụ nào đó rôbôt quan sát, thì rô bôt lại sẽ càng có khả năng tốt hơn, hiểu biết tính
chất nằm dưới chính hành động mình.
Cách dạy này chứa nhiều lặp lại.
Thay vì múa nhảy mọi điều hay tự dọn bàn, Jenkins đã hình dùng một cách làm nguồn
đám đông – crowdsourcing công trình
. Những kẻ sử dụng chọn lọc trước sẽ ghi vào trang web la bô Brown của ông và
xuyên qua những bấm phím đơn giản, hướng dẫn một rôbôt, chẳng hạn PR2, một rô
bôt dạng người do hảng Willow Garage tại Thung Lũng Silicon
Valley làm ra, suốt cả công việc. Thay vì
quan sát người đó, rôbôt sẽ học hỏi bằng
cách quan sát chính mình, ghi chép mọi
di chuyễn và hành động mình, và sử dụng algorithm học hỏi để khám phá cách nào
hửu hiệu nhất hòan thành nhiệm vụ.
Cuối cùng, sau khi ai đó chứng minh cho PR2 cách nào lượm và đặt yên một cốc rượu vang,
rôbôt sẽ đủ khả năng chủ trì nó.
La bô huấn luyện của Jenkins cũng sẽ
được thử nghiệm những ứng dụng và nhiệm
vụ mới cho các rôbôt. Đa số rôbôt chạy bằng những mã số đặc thù, nhưng Jenkins
làm các rôbôt của ông chạy theo một ngôn ngữ Web chung ; thế cho nên nhiều
nhà phát triễn sẽ có khả năng lập trình chúng. Theo nhà rôbot học- robotics Brian
Gerkey của Willow Garage, Jenkins đã dân chủ hóa đường vào cho rôbôt. Dù
cho Jenkins chưa chắc chắn là ứng dụng nào các khối quần chúng cắt tiết –
geek masses sẽ họa kiểu ra sao, cha sinh của 3 rôbôt, đã có ý nghĩ nhiệm vụ cho chính ngay nhà mình : tôi
muốn có một rô bôt lựa chọn các đồ chơi và đem chúng đi xa .
( Irvine , Nam Cali ngày 18
tháng 10 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét