Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

Tiến Bộ Về Khoa Học Thần Kinh Và Tâm Lý Học


Cập nhật hiểu biết tiến bộ về khoa học thần kinh – neuroscience và tâm lý học – psychology

( tiếp theo bài hệ gen biểu sinh đã lên mạng trang Blog The Gift  tháng 6 năm  2010 )

      Tính trạng chống lại Số phận
                         G s Tôn thất Trình



            Darwin và Freud gặp nhau ở quầy bán rượu ( bar ) .

           Quán rượu này ở thủ đô Madrid – Tây Ban Nha  nơi  có cuộc thảo luận quốc tế tại trung tâm nghiên cứu sinh học thần kinh - neurobiology hàn lâm lâu đời nhất là Viện Cajal Institut . Moshe Szyf , một  nhà sinh học phân tử và di truyền học của viện đại học McGill – Montreal, Canada , chưa bao giờ nghiên cứu  tâm lý học hay khoa học dây thần kinh  cả, nhưng đã nghe một đồng nghiệp khuyên nên tham dự, vì công trình ông có thể có vài ứng dụng. Tương tự, Michael Meaney, một nhà khoa học dây thần kinh cũng được đồng nghiệp khuyên là các khảo cứu của Meaney  về các  mô hình động vật các bà mẹ lơ đảng,  cũng có lợi theo nhãn quan của Szyf.   

         Kể từ thập niên 1970, các nhà khảo cứu đã biết  là bên trong nhân mỗi tế bào  là những  cuộn quấn khít nhau  DNA  đòi hỏi một cái gì phụ thêm,  để nói chính xác với chúng  gen ( es ) nào cần  phiên mã – transcribe , dù đó là một tế bào tim, tế bào gan hay tế bào nảo. Yếu tố phụ thêm này là nhóm mê til ( methyl), một thành phần  cấu tạo thường thức của những phân tử hửu cơ.  Nhóm mê til   như thể  một kẻ có địa vị - placeholder trong một sách dạy nấu ăn, dính vào DNA  bên trong mỗi tế bào, hầu tuyễn chọn những thực đơn, là những gen (es ) cần thiết cho các protein  của tế bào đặc biệt. Vì các nhóm mê til dính vào gen( es ), cư ngụ bên cạnh nhưng tách rời xóan ốc kép làm mã số DNA,  phạm vi họat động này được gọi tên là di truyền  biểu sinh  học– epigenetics, phát nguyên của tiền tố - prefix epi ( theo tiếng Hy lạp có nghĩa là trên, bên ngòai, phía trên …) .

         Nguyên thủy, những thay đổi biểu sinh này chỉ được xem là chỉ xảy ra khi phát triễn bào thai. Nhưng những nghiên cứu  tiền phong cho thấy  rằng đồ hàng cũ linh tinh  có thể chêm thêm vào DNA lúc trưởng thành,  làm ra một thác lũ thay đổi tế bào tạo thành ung thư. Đôi khi các nhóm mê til dính vào DNA nhờ thay đổi chế độ ăn uống ; vài khi khác, phô bày  trên vài hóa chất tuồng như cũng là nguyên nhân nữa. Szyf cho thấy  là sửa sai các thay đổi biểu sinh với thuốc men có thể chửa lành vài lọai ung thư trên động vật.

         Các nhà di truyền học đặc biệt kinh ngạc tìm thấy là thay đổi biểu sinh  có thể  truyền lại từ cha mẹ xuống con cái, thế hệ  này đến thế hệ kế tiếp.  Một nghiên cứu của Randy Jirtle viện đại học Duke trình bày là khi các chuột cái được nuôi bằng một chế độ  giàu các nhóm  mê til, sắc tố các bộ lông con cháu sẽ thay đổi  vĩnh viễn. Dù không làm  bất cứ một thay đổi DNA nào, các nhóm mê til có thể cọng thêm vào hay trừ đi, và những thay đổi sẽ  di truyền không khác gì mấy một đột biến trong một gen.

           Bài học vỡ lòng biểu sinh học 101

         
         Một dạng thay đổi biểu sinh  xảy ra khi các cơ cấu phân tử tỉ như các nhóm mê til, dính vào gen ( es ) thay đổi mức biểu hiện chúng. Số lượng các nhóm mê til( methyl ) có thể tăng hay giảm vì lây nhiễm, phơi bày trên môi trường hay kinh nghiệm đời sống.  Một nhóm mê til ( Me ) là một hợp chất hửu cơ gồm có một nguyên tử carbon  nối kết với 3 nguyên tử hydrogen ( CH3 ). Khi một  nhóm mê til dính vào một baz nucleotide cytosine, khi đó DNA đã được mê til hóa – methylated.  Các nhóm mê til  có thể  dính vào DNA suốt đời, làm thay đổi  họat động bất cứ gen nào liên hệ. Các tính trạng cư xử  liên quan tới các gen này cũng thay đổi như vậy và cũng có thể di truyền qua nhiều thế hệ. Các nhóm mê til  dính vào DNA, vấn quanh một cuộn phân tử tên gọi là histone. Histones là những đơn vị  làm ra chromatin ; chromatin cũng gồm luôn cả DNA và các proteins không- histone nữa.  Khi  chromatin đóng kín, phiên mã DNA - transcription  nghỉ luôn  và sản xuất protein cũng chấm dứt. Khi chromatin mở ra, tổng hợp protein làm lại.




          Khắc sâu một bản phác họa – Etch A Sketch

        
           Ở quầy rượu thủ đô Madrid, Szyf và Meaney  duyệt xét một giả thuyết vừa không chắc sẽ xảy ra, vừa sâu sắc. Nếu chế độ  ăn uống và hóa chất có thể gây ra những thay đổi biểu sinh, vậy chớ vài kinh nghiệm - tỉ như  trẻ em  bị bỏ rơi, lạm dụng  ma túy  hay các căng thẳng nặng nề khác -   có thể nào gây ra những thay đổi biểu sinh cho DNA bên trong nơ ron – dây thần kinh ở nảo một người nào đó không ? Câu hỏi này trở thành căn bản của một lảnh vực mới, gọi là biểu sinh học cư xử - behavioral epigenetics, nay đã sinh động đến nổi đã sinh ra vài tá nghiên cứu và gợi ý làm ra nhiều chửa trị mới, giúp nảo lành mạnh lại.

         Chiếu theo những hiểu biết sâu sắc về ngành di truyền học biểu sinh cư xử- behavioral epigenetics , các kinh nghiệm chấn thương quá khứ chúng ta hay quá khứ  gần đây của tổ tiên, để lại  những vết sẹo phân tử dính vào DNA chúng ta.  Các dân Do Thái mà ông bà cố bị đuổi  khỏi các làng xưa ở Nga Đông Âu ; dân Trung Hoa ông bà đau khổ vì Cách Mạng Văn Hóa,  các di dân  trẻ tuổi từ Phi Châu cha mẹ sống sót  sau những cuộc tàn sát thảm khốc, các người trưởng thành của mọi sắc tộc sinh trưởng với cha mẹ nghiện rượu hay đối xử tàn tệ;  tất cả đều mang theo không phải duy nhất là trí nhớ. Tỉ như các trầm tích đất thịt  ở những vấu ( răng ) một máy móc điều chỉnh tốt đẹp sau khi nước biển  một sóng thần – tsunami rút lui, những kinh nghiệm chúng ta, và của tiền nhân chúng ta, không bao giờ mất hẳn đi, dù chúng ta đã quên bẳng chúng.  Chúng đã trở thành các thành phần  chúng ta, một sót lại - cặn bả  phân tử  dính chặc vào  giàn giáo  di truyền chúng ta. DNA vẫn như cũ, nhưng các khuynh hướng tâm lý và cư xử đều là di sản thừa hưởng. Bạn có thể được thừa hưởng, không phải chỉ là đầu gối đầy bướu  của bà ( nội , ngọai )  mà luôn cả tổ bẩm ( khuynh hướng ) trầm kha gây ra, vì  bà bị bỏ rơi đau đớn  lúc bà mới sinh.

           Hay không phải như vậy. Nếu bà của bạn được cha mẹ nuôi chăm sóc, bạn có thể   thích thú thụ hưởng phần bổ sung bà nhận được từ tình yêu và hổ trợ của họ. Các cơ chế  di truyền biểu sinh cư xử đặt dưới, không phải chỉ những thiếu thốn và yếu kém mà cả luôn sức mạnh và độ dai dẳng- đàn hồi nữa. Và những ai không đủ may mắn thừa kế từ ông bà khốn nạn hay dấu diếm  trổi đây sau các chửa trị ma túy, cũng có thể đặt lại không những tâm trạng mà luôn cả các thay đổi biểu sinh di truyền nữa đó!  Giống như bộ áo dài kiểu cỗ của bà, bạn có thể mặc hay sửa đổi. Hệ gen từ lâu đã được biết là bản vỗ của đời sống, thế nhưng hệ gen biểu sinh- epigenome lại là khắc sâu một bản phác họa : lắc nó đủ mạnh là bạn có thể giủ sạch  lời nguyền rũa của gia đình rồi. 

          Di truyền học yêu thuật


         Hai mươi năm sau khi giúp làm nổi bật một cuộc cách mạng, Meaney ngồi sau một bàn gỗ hồ đào óc chó  làm bàn việc cho ông. Một giông tố tháng giêng chất đầy ngòai cửa sổ  gần 15 cm tuyết  ở Viện Douglas, bệnh viện thần kinh thuộc McGill. Ông có một cái nhìn tốt nhưng gồ ghề và bộ tóc bù xù  muối tiêu của ai đó  trên sườn núi trượt  tuyết - ski, nơi ông dự tính sẽ đến cuối tuần.  Ở sàn nhà, trải ra những trái banh helium theo nhiều giai đọan xẹp hơi. “ Mừng ông thọ 60 tuổi “ , ai đó tuyên bố.

     Ông nói : “ tôi luôn luôn  thích thú về những gì làm người này khác người kia. Cách nào  chúng ta hành động, cách nào chúng ta cư xử, vài người lạc quan, vài người bi quan. Vậy cái gì đã sản xuất các biến thiên này ?  Tiến trào lựa chọn độ biến thiên  nào thành công nhất, nhưng cái gì sản xuất ra hột nghiền cho máy xay ?”

        Meaney đeo đuổi câu hỏi về khác biệt cá nhân bằng các nghiên cứu cách nào những thói quen nuôi nấng của chuột mẹ đã gây ra những thay đổi suốt đời con cái chúng. Khảo cứu từ thập niên 1950  đã cho thấy là  chuột  do người gìn giữ chừng  5 đến 15 phút một ngày trong ba tuần lễ đầu mới sinh,  tăng trưởng bình tĩnh và ít phản ứng với các môi trường căng thẳng hơn, so sánh với các  chuột cùng lứa tuổi không được người giữ.  Meaney và những người khác thiết lập là lợi ích không phải do người giữ đem lại.  Mà vì người giữ đơn giản khiến các chuột mẹ  liếm và làm sạch sẽ các chuột con hơn, và thường có một cư xử  tên gọi là nuôi dưỡng còng lưng – arched –back nursing, trong đó chuột mẹ  cho chuột con thêm nhiều khỏang trống để bú  dưới bụng mẹ. Meaney nói :  Đây hòan tòan là kích thích  xúc giác – tactile stimulation.

        Ở một bài bản cột mốc năm 1997 ở tập san Khoa Học – Science, ông trình bày là các biến thiên thiên nhiên trên số lượng liếm và làm sạch sẽ nhận vào thời niên thiếu, đã có một ảnh hưởng trực tiếp  cách nào hormone căng thẳng gồm cả corticosterone, đã được biểu hiện  khi trưởng thành.  Bé em càng được liếm nhiều, các hormone căng thẳng càng ít đi khi khôn lớn.  Tuồng như chuột mẹ đã liếm mất đi ở một nút làm mờ điện di truyền – genetic dimmer switch  vậy đó. Nhưng bài báo không giải thích cách nào điều này lại có thể xảy ra.  Meaney tiếp : “ điều chúng tôi đã làm đến điểm này theo thời gian  là đã  xác định các săn sóc của mẹ và ảnh hưởng nó trên các gen (es )  đặc biệt.  Nhưng lúc đó di truyền biểu sinh học là một đề tài tôi không biết gì nhiều cả. Rồi ông gặp Szyf.

                   Di hưởng sau khi sinh 


         Còn Szyf  cười nói: “ tôi đang cố gắng trở thành nha sĩ” .  Gầy gò, tái nhợt và sói đầu, ông ngồi trong một phòng làm việc nhỏ đàng sau la bô ầm ỉ, một phòng mộc mạc  đến nổi chỉ có một  hình chụp duy nhất, một ảnh của hai  phôi trong tử cung.  Vì cần viết vào cuối thập niên 1970 cho bằng tiến sĩ răng ở Viện đại học Do Thái – Hebrew University ở thủ đô Jerusalem,  Szyf  lân la gặp một giáo sư trẻ tuổi tên là Aharon Raxin,  mới rạng danh khi đăng tải những nghiên cứu đầu tiên  của Razin  trên vài tạp chí khoa học hàng đầu thế giới.  Cách nghiên cứu này cũng là lần đầu tiên trình bày là  họat động các gen(es ) cũng có thể mô đun hóa- biến điệu  bằng các cơ cấu tên gọi là các nhóm mê til, một đề tài Szyf  không biết gì hết. Nhưng ông lại cần  một cố vấn  làm tiến sĩ và đó là Razin.  Szyf  bị hướng qua tiền tuyến của khoa mới mẽ là  di truyền biểu sinh và không bao giờ  bỏ lảnh vực này nữa.

         Trước khi có những nhà khảo cứu như Razin,  đường hướng căn bản câu chuyện cách nào các gen được phiên mã trong một tế bào  rất rỏ ràng và đơn giản. DNA là mã số chủ yếu , nằm bên trong nhân của mọi tế bào. RNA phiên mã  mã số, xây đắp bất cứ  những protêin nào  tế bào cần. Rồi vài đồng nghiệp Razin  cho thấy là các nhóm mê til  có thể dính vào cytosine, một baz  hóa học ở DNA và RNA. Nhưng chính Razin, họat động cùng nhà sinh hóa học Howard Cedar   đã trình bày là những mối dính này không phải là chuyện ngắn ngủi, vô nghĩa.  Các nhóm mê  til  có thể hợp hôn vĩnh viễn  với DNA, được sao chép song song ngay với  DNA,  xuyên qua một trăm thế hệ.  Hơn nữa, cũng như trong mọi hôn nhân tốt đẹp, việc các nhóm mê til dính vào  thay đổi một cách có ý nghĩa  hành vi của bất cứ gen nào chúng hợp hôn, ức chế phiên mã  nó, không khác chi mấy một kẻ ghen tuông. Nó làm như vậy, theo Razin và Cedar trình bày, bằng cách thắt chặc sợi DNA khi sợi này vấn quanh cuộn phân tử, tên gọi là histone, bên trong nhân tế bào. Càng vấn chặc bao nhiêu  thì lại càng khó khăn sản xuất proteins từ  gen liên hệ.

          Hãy xét đến điều này nghĩa gì :  không có đột biến của chính mã số DNA , các nhóm mê til dính vào gây ra thay đổi dài hạn, di hưởng được chức năng gen.  Các phân tử khác gọi là các nhóm acêtil  cũng cho thấy là chúng đóng vai trò đối nghịch lại, mở vấn  DNA ra  quanh cuộn  histone, và như thế giúp cho RNA  làm phiên mã dễ dàng hơn  cho một gen nào đó.

           Lúc Szyf đến McGill vào cuối thập niên 1980,  ông đã trở thành một chuyên viên  về cơ chế của thay đổi di truyền học biểu sinh .  Mãi cho đến khi gặp Meaney, ông chưa bao giờ nghe  được bất cứ ai đã gợi ý những thay đổi như thế,  có thể xảy ra ở nảo bộ, đơn giản vì săn sóc của mẹ.  Szyf công nhận : Đây, trước tiên tuồng như là yêu thuật. Đối với một  nhà sinh học phân tử,  bất cứ điều gì  không theo lối mòn phân tử rỏ rệt thì  không phải là khoa học nghiêm túc.  Nhưng càng nói chuyện lâu dài, tôi càng nhận thức là săn sóc của mẹ có thể đủ khả năng gây ra thay đổi trong việc mê til hóa chuyện này,  có vẽ điên cuồng.  Cho nên tôi và Michadel quyết định là chúng tôi phải thí nghiệm thêm để tìm cho ra .

         Thực tế,  họ đã làm một lọat thí nghiệm phức tạp. Với sự trợ giúp của các nhà khảo cứu hậu tiến sĩ , họ bắt đầu lựa chọn các chuột mẹ , những con hoặc rất chú tâm  săn sóc hoặc những con rất lơ là. Một khi chuột con trưởng thành, nhóm quan sát  hippocampus ( phần nảo hình cá ngựa ) , một vùng bộ nảo khẩn thiết cho việc điều hòa phản ứng căng thẳng. Ở các  chuột con các bà mẹ lơ là – không chú tâm , họ tìm thấy những gen điều hòa  sản xuất các chất nhận – receptors glucocorticoid,  chất điều hòa mức nhạy cảm với các hormon  căng thẳng, đã được mê til hóa cao. Ở các chuột con  của  chuột mẹ rất chú tâm , các gen  cho chất nhận glucocorticoid  rất ít mê til hóa.

  Mê til hóa chỉ làm hồ vải – gum up cho công trình mà thôi , vì thế  càng ít mê til hóa càng tốt  khi cần  phiên mã gen bị liên hệ.  Trong ca này , mê til hóa liên quan đến các chuột mẹ khốn nạn  ngăn ngừa  số lượng  bình thường chất nhận  đựợc phiên mã ở hippocampus  chuột con. Vì thiếu không đủ số các chất nhận glucocorticoid, các chuột con lớn lên  trở thành những  sụp đổ thần kinh.
  Hầu chứng minh là những ảnh hưởng  này thuần túy do cách cư xử của  bà mẹ ,  chứ không phải là các gen mẹ, Meaney và các đồng nghiệp  thực hiện một thí nghiệm thứ hai . Họ lấy chuột con sinh từ các chuột mẹ lơ là và đưa chúng cho các  chuột mẹ chú tâm  và ngược lại.  Như họ tiên đóan, các chuột con sinh từ các  chuột mẹ chú tâm , nhưng lại do chuột mẹ lơ là nuôi dưỡng, đã lớn lên với những mức chất nhận glucocorticoid thấp ở vùng hippocamous và cư xử  rất dễ hỏang sợ. Tương tự, những chuột con sinh từ các chuột mẹ xấu xa, nhưng lại được các chuột mẹ tốt nuôi dưỡng, lớn lên  thì lại bình tĩnh, can đảm và chứa các chất nhận glucocorticoid ở mức độ cao.

      Trước khi đăng tải khám phá, Meaney và Szyf  làm thêm một thí nghiệm  khẩn thiết thứ ba, hy vọng làm tràn ngập các kẻ hòai nghi đang đứng dậy đặt câu hỏi cho các thành quả.  Xét cho cùng, có thể biện chứng rằng, nếu như  thay đổi di truyền biểu sinh   quan sát ở nảo chuột không phải trực tiếp  do các  thay đổi cư xử ở chuột trưởng thành gây ra , nhưng chỉ  đơn giản là cùng xảy ra ? Freud  chắc chắn là đã  biết rỏ  sức mạnh dai đẳng của các  mẹ xấu xa để làm hư hết mọi đời sống con cháu.  Rất có thể các ảnh hưởng   xúc động đã không liên hệ gì đến thay đổi di truyền biểu sinh cả.

         Để thử nghiệm khả dĩ này , Meaney và Szyf   dùng một  lứa  đẻ chuột khác  do các chuột mẹ xấu xa nuôi dưỡng. Lúc này,  sau khi tai hại thường lệ  đã xảy ra,  họ  truyền vào các bộ nảo  chất trichostatin A, một lọai thuốc có thể lấy đi các nhóm mê til. Nhưng chuột này không còn trình bày  những thiếu thốn cư xử thường thấy trong con cái và bộ nảo chúng cũng không trình bày một thay đổi di truyền biểu sinh nào cả. Szyf nói: “  thật là điền rồ nghĩ rằng tiêm nó thẳng vào nảo bộ, lại có thể thành công, nhưng  nó đã thành công thật sự . Không khác chi mấy khởi động lại máy computer.”

            Dù có chứng cớ rành rành như vậy, khi hai ông viết ra bài bản, một kẻ duyệt xét ở trên một tạp chí khoa học hàng đầu thế giới  từ chối không chịu tin, nói rằng ông ta chưa bao gìờ thấy chứng cớ là cư xử của mẹ , lại có thể gây ra thay đổi di truyền biểu sinh .Szyf trả lời:  Lẽ dĩ nhiên là ông ta chưa thấy . Chúng tôi sẽ không hòai công  báo cáo nghiên cứu,  nếu nó đã được chứng minh rồi.

         Cuối cùng , bài bản cột mốc “ lập trình di truyền biểu sinh  do cư xử mẹ “ đã được xuất bản tháng 6 năm 2004 ở tạp chí “Khoa học Dây Thần kinh  Thiên nhiên – Nature neuroscience”.

          Meaney và Szyf đã chứng minh một điều không thể tin nổi. Gọi đó là di hưởng hậu sinh- postnatal heritance:  không có thay đổi mã số di truyền , các chuột bé con tuy vậy đã thêm các dính di truyền do cách nuôi nấng duy nhất, nghĩa là các cộng thêm di truyền biểu sinh của các nhóm mê til, dính như dù che ở các cửa thang máy  các histones chúng,  hồ vải các công trình và sửa đổi chức năng nảo bộ.   

              Công trình tiếp theo


           Hai ông Meaney và Szyf  tiếp tục xuất bản  thêm chừng 12  tá bài bản , tìm ra các chứng cớ  dọc theo cách thay đổi di truyền biểu sinh  cho rất nhiều gen tích cực trong nảo .   Chẳng hạn năm 2008 , họ đã so sánh  những bộ nảo của những ai đã tự tử với  nảo bộ những ai chết bất ngờ vì nhũng thừa tố khác tự tử.   Họ tìm thấy là  ở hippocampus các nảo người tự tử , quá thừa mứa mê til hóa các gen (es ). Hippocampus là một vùng cực trọng cho thu nhận trí nhớ và phản ứng căng thẳng. Nếu các nạn nhân tự tử đã  bị hành hạ khi còn là trẻ em,  họ tìm thấy là bộ nảo của chúng được mê til hóa nhiều hơn.

          Lẽ dĩ nhiên là thường không thể làm mẩu các nảo bộ  các người đang sống. Nhưng khám xét các mẩu máu của  con người là thủ tục thông lệ và Szyf đã cố tìm kiếm dấu chuẩn – makers cho mê til hóa di truyền biểu sinh. Năm 2011, ông báo cáo là một phân tích các mẩu máu làm hệ gen rộng rải,  lấy từ 40 đàn ông  gia nhập một nghiên cứu  Anh  Quốc cho ai đã sinh ra năm 1958.  Mọi người này đều có những cực đoan kinh tế xã hội, hoặc qúa giàu hay quá nghèo, ở một điểm nào đó trong đời sống họ, kéo dài từ thuở nhỏ dại sớm sủa  đến trưởng thành. Szyf đã nghiên cứu tất cả là chừng 20 000 gen của họ. Trong số này,  6 176 gen ( es )  thay đổi có ý nghĩa , căn cứ trên nghèo khổ hay giàu có. Đáng ngạc nhiên nhất  là khi tìm thấy những gen này, tuồng như  cho thấy thay đổi mê til hóa hai lần nhiều hơn căn cứ trên lợi tức gia đình vào tử thời trẻ em sớm sủa, chống lại tình trạng kinh tế vào lúc trưởng thành.

      Nói cách khác, tính theo thời gian đáng lưu ý. Cha mẹ bạn thắng xổ số hay bị phá sản  khi bạn mới 2 tuổi,  sẽ  ảnh hưởng đến hệ gen biểu sinh – epigenome  ở nảo bạn và các khuynh hướng xúc động thành quả, mạnh hơn  là tiền của rơi bao nhiêu vào túi, lúc bạn trung niên. …

         Dấu vết của Cain 


        Thông điệp là tình thương của mẹ  có thể làm ra khác biệt ở đời sống con trẻ  không có gì là mới mẽ cả.  Nhưng khả năng thay đổi di truyền biểu sinh  tồn tại xuyên qua nhiều thế hệ  vẫn còn là một đề tài tranh cải.  vậy chớ mê til hóa truyền trực tiếp qua một trứng thụ tinh, hay là trẻ em sơ sinh được sanh ra rất thuần nhất, nghĩa là một trinh nữ đã được mê til hóa, với các  nhóm mê til dính vào, tiêu phí vô tội  duy nhất do các cha mẹ  sau khi sanh?

           Eric Nestler , nhà khoa học dây thần kinh trường y khoa Icahn ở Mount Sinai- thành phố Nửu Ước,  đang cố tìm giải đáp nhiều năm nay . Trên một nghiên cứu , ông phô bày  các chuột đực   bị những chuột lớn hơn , năng nổ hơn, hiếp đáp 10 ngày . Cuối thí nghiệm, chuột bị hà hiếp có vẽ bị đắm mình xa lìa xã hội. Hầu thử nghiệm xem là những ảnh hưởng này   có tuyền qua thế hệ kế tiếp không, Nestler  dùng một nhóm chuộc khác bị hà hiếp và cho chúng giao cấu với chuột cái, nhưng giử không bao giờ cho chúng gặp con cái .  Dù không bao giờ tiếp xúc với các cha chúng mắc bệnh trầm kha, con cái lớn lên rất nhạy cảm với căng thẳng. Ông nói: “ đây không phải là một ảnh hưởng tế nhị; con cái một cách đáng kinh ngạc , lại dễ bị phát triễn các dấu hiệu trầm kha.”

             Ở những thử nghiệm sau đó , Nestley lấy  tinh trùng của các chuột đực bị đánh bại và cho  thụ tinh chuột cái qua thụ thai nhân tạo ơ ống nghiệm . Con cái không phơi bày ra đa số các bất bình thường, gợi ý rằng truyền đi di truyền biểu sinh học, có thể không phải là ở căn nguyên . Thay vào đó, Nestler đề nghị: chuột cái  có thể biết là đã làm tình cùng một kẻ thua cuộc. Nó  biết là đã làm tình cùng một chuột đực  có vết dơ , cho nên nó đã săn sóc chuột con một cách khác”  , để tính tóan các thành quả .

           Mặc dù khám phá này, không một nhất trí  nào trổi dậy . Chứng cớ cuối cùng nhất , đăng tải ngày 15 tháng giêng năm 2013 ở tạp chí Khoa Học, gợi ý rằng những thay đổi di truyền biểu sinh trên chuột thường bị xóa bỏ, nhưng không luôn luôn như thế.  Xóa bỏ có thể không hòan tòan , và đôi khi các gen (es ) bị  ảnh hưởng có thể  xóa bỏ đi ở thế hệ kế tiếp, đặt ra một giai đọan truyền đi các tính trạng  sửa đổi trên con cháu nữa.

                Điều gì kế tiếp đây ?


           Các nghiên cứu tới tấp . Một đường hướng  khảo cứu  theo dấu mất trí nhớ lúc về già vì các sửa đổi di truyền biểu sinh trên các nơ ron nảo.  Một đường hướng khác nối kết  rối lọan căng thẳng hậu chấn thương  vì mê til hóa gen làm mã số cho một thừa tố kích thích dây thần kinh – neurotrophic, một protein  điều hòa tăng trưởng các nơ ron nảo . Nếu những thay đổi di truyền biểu sinh thành các gen tích cực  ở vài vùng nảo làm ra thông minh tri thức và xúc động của chúng ta - nghĩa là khuynh hướng chúng ta  tỏ ra bình tĩnh hay sợ hải, khả năng chúng ta học hỏi hay quên đi- là đúng sự thật, thì sẽ nêu lên một câu hỏi :  Tại sao chúng ta lại không dùng thuốc thang để rửa sạch các nhóm mê til không mong muổn?  như một thanh xà phòng Cô Ba xa xưa ?

      Săn bắt đang tiếp diễn . Các công ty dược phẩm khổng lồ hay các hảng kỷ thuật sinh học nhỏ hơn đang cố tìm kiếm các hợp chất di truyền học biểu sinh tăng cường học hỏi và trí nhớ.  Không một ai không biết là các thuốc chửa trị di truyền biểu sinh  có cơ thành công chửa trị trầm kha- phiền muộn, lo âu và biến lọan căng thẳng hậu chấn thương mà các thuốc men bệnh tâm thần hiện nay đã thất bại.

        Nhưng đó phải là một bước nhảy vọt . Tại sao  chúng ta lại có thể chắc chắn là các thuốc men  di truyền học biểu sinh   chỉ có thể cào sạch những dấu chuẩn nguy hiểm, chừa lại nguyên vẹn các nhóm mê til ích lợi, có khi rầt cần thiết ? Và khi chúng ta có thể tạo ra một viên thuốc đủ  uy vũ  rửa sạch  lớp diệp thạch di truyền biểu sinh tòan lịch sử đã viết ra  ?Nếu như một viên thuốc này có thể  làm tự do, giải thóat các gen(es ) bên trong bộ nảo chúng ta về những rác rưới di truyền biểu sinh do các chiến tranh,  các hiếp dâm , các từ bỏ và  lừa đảo  thiếu thời của tổ tiên chúng ta gây ra, bạn có thể nuốt viên thuốc này không ?  

         (Chiếu theo Dan Hurley,  một cộng tác thường xuyên của Khám Phá – Discover số tháng 5 năm 2013 .  Sẽ xuất bản tháng 12 /2913 sách  Thông minh hơn : Khoa học mới Mới của Thông Minh Lõng – Smarter : The New Science of Fluid Intelligence.”

            ( Irvine , Nam Ca Li – Hoa Kỳ ngày 30 tháng tư năm 2013)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét