Thứ Tư, 31 tháng 3, 2010

Nobel Sinh lý và Y khoa :James Black.

Tưởng nhớ  công trình một bác sĩ y khoa, đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1988  phát triễn ra thuốc tây chữa tim, và thuốc lỡ loét bao tử , vẫn còn bán chạy :
                       
                              G S  Tôn Thất Trình

            Bác sĩ James Black , nhà đoạt giải Nobel gốc xứ Tô Cách Lan - Scotland , nhà tiền phong họa kiểu dựa trên lý trí những loại thuốc tây  và đúng theo tiến trình này,  phát triễn ra  đầu tiên  những  loại thuốc  sử dụng rộng rải chửa trị  bệnh tim  và chận đứng  dạ dày  sản xuất  acid ( chất chua ) , đã qua đời  ngày 22 tháng 3 năm 2010. Ông hưởng 85 năm tuổi đời. Đại học Dundee đã xác nhận tin này, nhưng không cho biết nơi và lý do ông thất lộc.



            Black  phát triễn propanolol ( tên nhãn chánh là Inderal ) , thành viên đầu tiên của  hạng thuốc tây  có tên là  bêta  blockers - chận đứng bê ta ,  đã cách mạng hóa   cách chửa trị bệnh tim. Hiện nay, một trong nhóm  chận đứng bêta thông dụng ở Hoa Kỳ là  thuốc nhản hiệu chánh - brand name tenormin ( tuơng thích- chung genericatenolol ).   Xin nhắc sơ qua 4 nhóm thuốc tây  chánh dùng để trị cao  huyết áp - high blood pressure ngày nay  trên thế giới là : nhóm lợi tiểu - diuretics, nhóm  chận đứng bê ta,  nhóm ức chế ACE  inhibitors( chận đứng  một hóa chất  là  angiotensin thân thể làm ra để  tăng áp huyết), các chặn đứng kênh calcium channel blockers; và khi  sử dụng riêng rẽ hay phối hợp  thuốc 4 nhóm  chánh  này mà không thấy hiệu quả thì  có thể dùng những nhóm khác tỉ như  nhóm tác nhân   chận đứng   alpha  adrenergic agents (  sản xuất và ảnh hưởng của adrenalin,  giải tỏa khi thân thể  phản ứng với căng thẳng - stress làm tăng áp huyết ).  Rồi sau đó, ông cũng phát triễn  cimetidine (  nhãn chánh hiệu là tagamet ) cách mạng tương tự chửa trị chứng ợ nóng ( ựa chua )- heartburn  và acid chảy ngược - acid reflux. Cả hai propanolol và  cimetidine, vẫn còn được bác sĩ cho toa mua  rộng rải trên thế giới. Khám phá ra  chúng, theo lời các nhà chuyên môn, đem lại  an tâm, khuây khỏa cho nhân loại, nhiều hơn cả  một đạo quân đốc tờ  thực hiện chửa trị lâm sàng.
             Thuốc không  đem lại cho Black  lợi lộc tài chánh gì lớn . Nhưng ngoài giải Nobel , giúp ông chiếm  đoạt  tước Hiệp Sĩ - knighthood  và  phần thưởng  Bội  tinh Công Đức - Order of Merit, danh dự lớn nhất một quốc vương Anh  có thể ban thưởng.  Bội tinh Công Đức chỉ cấp  một lúc nào đó  cho 24 nhân vật còn sống. Black là người Tô Cách Lan đầu tiên  nhận danh dự này
                  Khi Black khởi sự   công trình khảo cứu  vào thập niên 1950,  phát triễn thuốc tây mới ở giai đoạn  đề nghị hú họa ( được chăng hay chớ ) mà thôi. Đa số thuốc tây tách ra  từ thực vật - cây cỏ  được xem là có  y dược tính hay bằng cách sửa đổi  các dược phẩm hiện hửu  và đem  các hợp chất này   ra những chương trình sàng lọc đại trà .
                 Công trình của Black  căn cứ trên  cảm hứng  của nhà khoa học Hoa Kỳ  Raymond Ahlqvist , năm 1948 , khám phá ra rằng  co hay giản mô cơ bắp ( bắp thịt ), kể cả cơ bắp trái tim, đều được điều hòa  bằng những chất nhận - receptors riêng biệt, Ahlqvist gọi là alpha và bêta.
            Các thuốc chửa tim thời kỳ đó  được xem là  tăng thêm  cung cấp oxygen cho tim . Black lý luận rằng rất có thể  giảm  bớt yêu cầu  oxygen cho tim, bằng cách chận đứng  các chất nhận  bêta, giúp cho tim khỏi phải hoạt động vất vã. Làm mô hình  những thuốc tiềm thế  đúng theo các hóa chất  dược biết là kết dính - bind  với chất nhận beta,  năm 1962, nhóm   Black phát triễn  một thuốc tây tên là pronethalol, làm tim thư giản. Nhưng những thử nghiệm  cho thấy thỉnh thoảng thuốc này có nhiều dị ứng - side effects, cho nên phải loại bỏ đi.
          Hai năm sau,  nhóm phát triễn  propanolol, hoàn tất mục tiêu của Black. Thử nghiệm lâm sàng  trình bày  là thuốc  ích lợi  chửa trị  chứng đau thắt ngực - angina pectoris , chứng  tim đập nhanh - tachycardia và  chứng loạn nhanh nhịp tim - tachyarrhythmia . Thuốc cũng còn hửu hiệu  chửa trị cao huyết áp  và giảm chết chóc vì đứng tim - heart attack .
             Sau đó Black chuyễn qua nghiên cứu histamines, đóng  một vai trò ở hệ thống miễn nhiễm và điều hòa  hoạt động sinh lý dạ dày. Nhũng loại  kháng antihictamines  đang thịnh hành,  chỉ thành công bán phần. Black lý luận, tương  tự các mô cơ bắp, là thật sự  có hai chất nhận histamine, ông mệnh danh là H1 và H2 . Những loại histamines đang có ,  chỉ ảnh hưởng đến  chất nhận thứ nhất.
             Theo cùng phương pháp ông đã dùng cho propanolol, nhóm Black  bắt đầu  tìm kiếm  những thuốc  có thể chận đứng chất nhận H 2 . Thuốc đầu tiên họ tìm ra là metiamide, hoạt động tốt, nhưng cũng  như pronethalol , sản xuất nhiều dị ứng không thể nào chấp thuận được. Năm 1975 , họ khám phá ra cimetidine, có ảnh hưởng lớn đến  ung nhọt ( loét ) ulcer peptic  và rất ít dị ứng.
            Tagamet thành công rực rở , trở thành thuốc đầu tiên  bán ra hơn 1 tỉ đô la Mỹ mỗi năm.
            Năm 1988, Black chia sẽ  Giải Nobel  Sinh lý và Y khoa  cùng các nhà khảo cứu Hoa Kỳ là Gertrude Elion và Goerge Hitchings , đã dùng những phương pháp  nhắm mục tiêu tương tự hầu phát triễn  thuốc chửa trị ung thư.
            James Black sinh ngày 14 tháng 6 năm 1924 ở Uddington , ngoại ô thành phố Glasglow, theo  lời ông nói là “ một cậu bé  vùng than đá Fife”.  Cậu bé thông minh tài ba  điển hình này, không được  ai  khích lệ,  đeo đuổi học vấn ở một ngôi nhà lụp xụp phải dùng cột kèo chống đở cho khỏi  phải rơi rụng  xuống hầm mỏ than.  Một thầy giáo  thuyết phục ông khi ông lên 15 tuổi,  đi thi vào Viện đại học St Andrew University.  Ông được cấp học bổng  theo học đại học danh tiếng này,  ông lựa chọn y khoa vì ông  bị các sách giáo khoa anh ông William  đã tốt nghiệp đại học này, thu hút mạnh .
            Nằm 1944 ở một buổi khiêu vũ cho ban cử nhân, ông gặp bà vợ tương lai là  Hillary Vaughan. Sau khi tốt nghiệp, họ lấy nhau năm 1946  và sống với nhau cho đến khi bà vợ mất năm 1986.  Khi Hillaty tốt nghiệp  cử nhân sinh hóa học năm 1947, hai vợ  chồng nợ nần nhiều và ông không kiếm  ra việc làm ở Vương quốc Ạnh . Cho nên ông   đã phải nhận một chức vụ ở đại học y khoa King Edward VII tại Singapore .Ba năm sau,  2 vợ chồng trở về London  “ không có nhà cửa, không có lợi tức và không có tương lai gì cả “ . May mắn là ông gặp lại  một giáo sư cũ, dẫn ông tới trường Thú Y, viện đại học Glasglow , nơi đây ông đã lập ra Khoa Sinh lý học. Tám  năm ở đại học này, theo lời ông , ông đã học hỏi thêm cách nào thành nột nhà thí nghiệm .
            Khi đã công thức hóa ý kiến ông về các chất nhận bêta,  ông   tới gặp hảng Imperial Chemical Industries ICI, mong được tài trợ.  Thay vì tài trợ, hảng  gợi ý mời ông gia nhập các la bô của hảngÔng chấp nhận và khám phá ra Inderal  đã làm cho hảng ICI trở thành  một chánh nhân ngành công nghệ dược phẩm.
            Lo sợ rằng ông sẽ  bị hút dẫn vào các hoạt động đề xướng  doanh vụ cho Inderal ,  thay vì khả năng  phát  triễn các ý kiến về histamines, ông rời bỏ ICI năm 1964, gia nhập  la bô hảng  Smith , Kline & French ; nơi đây ông được tự do  tha hồ theo đuổi các ý kiến mình  và nơi đây ông đã phát triễn cimetidine .
             Khao khát  trở về giáo dục , ông gia nhập viện University College London, năm 1973 , rồi  Welcome Foundation năm 1978. Năm 1984, ông  trở về  University College London , rồi trở thành viện trưởng Viện University of Dundee  năm 1992.
.           Bà  vợ thứ hai Rona Mackie , lấy nhau năm 1994 , vẫn còn sống,  cũng như con gái  ông là Stephanie.

                        ( Irvine,  Ca Li - Hoa Kỳ  31 tháng 3 năm 2010 )     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét