Thứ Ba, 16 tháng 8, 2011

Danh nhân


Bác sĩ Baruj Benacerraf, 
nhà đọat giải Nobel 
nghiên cứu hệ thống miễn nhiễm,
qua đời! G S Tôn thất Trình


Bác sĩ Baruj Benacerraf , người chia sẽ giải Nobel 1980  về sinh lý học hay y khoa với công trình tiền phong , giải thích tại sao vài người, lại có khả năng đẩy lui  lây nhiễm và  u ung thư, trong khi  những người khác lại không chống đở được. Ông mất ngày thứ ba mồng hai tháng 8  năm 2011, tại nhà ở TP Boston, thọ 90 tuổi (1920- 2011).

              Benacerraf chết vì  đau viêm phổi, theo  Viện  Ung thư Dana-Farber tại Boston,  nơi ông  làm sự nghiệp gần suốt đời.  Bác sĩ Edward J. Benz JR.  chủ tịch  Dana-Farber nói trong một tuyên bố: những khám phá  gieo mầm của bác sĩ Benacerraf  về kiểm sóat di truyền của hệ thống miễn nhiễm  giúp chúng ta  hiểu biết được  tiến trình căn bản  bệnh tật, tỉ như lây nhiễm, các rối lọan  miễn nhiễm tự động – autoimmune  disorders  và ung thư .   

George D Snell
              Công trình của Benacerraf tạo hình mọi thứ, từ cấy bộ phận  đến chữa trị AIDS, và gần đây nhất đến  phát triễn các vaccines – thuốc chủng chửa trị ung thư.

         Khi Benacerraf  và các bạn đồng lảnh thưởng: George D. Snell của La bô Jackson  tại Bar Harbor - bang Maine và bác sĩ  Jean  Dausset tại  Viện đại học Paris -  Pháp, khởi sự nghiên cứu hệ thống miễn nhiễm sau Thế Chiến Thứ II,  một   thể thức chưa ai biết chức năng là gì cả .  Qua nhiều thập niên, họ đã giải thích căn bản di truyền cách nào  hệ thống miễn nhiễm họat động.

Jean Dausset  
          Snell  mở đầu mối công trình trên chuột nhắt, chứng minh  khả năng các lòai vật gặm nhắm- rodents này,  nhận diện các mô chúng – own tissues  và phân biệt chúng  từ những mô chuột nhắt khác là thành quả  những phức tạp protêin / đường  ở trên mặt các tế bào tên gọi là kháng -gen( kháng nguyên ) – antigens. Ông đặt tên những  cấu tạo này là  kháng -gen  tương hợp mô – histocompatibility , dùng từ Hy Lap  “histo” có nghĩa là mô.
          Snell cũng trinh bày  rằng những kháng -gen này được tạo ra bằng một bộ  gen đặc thù; nay gọi tên là phức tạp chánh tương hợp mô.  Các nhà khảo cứu  biết hiện nay có đến  80 genes  riêng rẽ ở phức tạp trên chuột nhắt .

          Dausset  chứng minh là cũng có một lọai phức tạp tương hợp mô như vậy, trên con người. Thoạt tiên,  Dausset   nghiên cứu các kháng – gen trên các bạch huyết cầu  và gọi chúng là  các kháng – gen  bạch cầu con người- human leukocyte anti -gens ( HLA ).  Phân lọai HLA giúp  cho các việc cấy ( bộ phận )  – transplants thành công, ít khi bị đào thải  hơn là  các mô  lựa chọn ngẩu nhiên. Ông cũng trình bày  là vài lọai kháng- gen HLA   liên hệ  đến khuynh hướng tăng thêm vài lọai bệnh tật.

         Benacerraf , họat động trên chuột lang – guinea pigs , vấp phải  phần ông đóng góp một cách bất ngờ. Ông tiêm vào các động vật mới một  chất ngọai lai đặc thù  tương tự  một kháng – gen, có ý định gây ra một phản ứng miễn nhiễm trên chúng. Tuy nhiên chỉ có 60 % chuột lang phản ứng mà thôi.

          Xuyên qua một lọat thị nghiệm cường tính tuyễn chọn, Benacerraf quyết định là khả năng chuột lang  xây dựng  lên một phản ứng miễn nhiễm cho một chất liệu ngọai lai,    được  các genes đặc thù  của phức tạp tương hợp mô, kiểm sóat.  Sau đó , những genes này cũng được tìm thấy trên  con người và trên động vật có vú – mammals.

           Các nhà khảo cứu biện cứ là các genes  giúp ít nhất cho vài thành viên của một lòai vật,  sống sót  sau một tấn công  của một virus đột biến hay của một vi khuẩn. Tiếc thay, những genes này cũng giúp phát triễn vài lọai  bệnh miễn nhiễm tự động, trong đó hệ thống miễn nhiễm  lại tấn công vài phần thân thể một con người .
          Baruj Benacerraf  sinh  ngày 29 tháng mười năm 1920 tại TP Caracas, xứ Venezuela. Cha ông là dân Ma Rốc thuộc nhóm  Do Thái Sephardic Jew  và mẹ ông là người xứ Al-gê-ri.  Gia đình di chuyễn về Paris khi Baruj lên 5 tuổi,  hầu cha ông có thể mua tơ sợi đem bán ở Venezuela.  Lúc còn là con nít,  Baruj bị  suyễn. Ông nói rằng sau đó bệnh suyễn đã góp phần làm ông thích thú ngành miễn nhiễm học và các bệnh tật miễn nhiễm.

         Gia đình trốn chạy Đức Quốc Xã – Nazis  năm 1939, đầu tiên qua Venezuela, rồi di chuyễn qua New York  năm 1940, để Benacerraf có thể tiếp nhận giáo dục Hoa Kỳ.  Ông tốt nghiệp viện đại học Columbia với  một cấp bằng sinh học năm 1942. Nhưng ông bị  đào thải, không được nhận vào  25 trường y khoa ông nạp đơn , vì lúc đó ông là một dân nguồn gốc Do Thái và  khoông có  quốc tịch Hoa Kỳ.  Cuối cùng, cha một người bạn thân,   bảo đảm cho ông được phỏng vấn  ở trường đại học y khoa Virginia tại TP Richmond và ông vào trường năm 1942. Ông bị động viên một năm sau đó vào Lục quân Hoa Kỳ , song song với các sinh viên  y khoa khác. Sau khi  tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1945, ông đựoc tập sự ở  Bệnh viện Queens General Hospital  ở TP New York City.      

         Năm  1943 ông trở thành công dân Hoa Kỳ, và  gia nhập Quân đòan Y Khoa Lục Quân năm 1946 và tùng sự gần 2 năm ở  Paris và Nancy, Pháp. Sau 2 năm làm việc ở giảng  khoa y khoa, viện đại học Columbia,  ông di chuyễn về Paris năm 1949, để làm doanh vụ  gia đình ông, nhưng  vẫn tiếp tục khảo cứu y khoa.  Vì ông không có quốc tịch Pháp, cơ hội  tiến thân vào Hàn lâm Viện  Pháp rất giới hạn, nên ông trở về Hoa Kỳ.  Ông gia nhập trường Y Khoa  New York  và bắt đầu  công trình về hệ thống miễn nhiễm .
       Trong thời gian này, ông  cũng quản trị một  ngân hàng New York, là Colonial Trust Co.,  gia đình ông  và những nguời liên hệ làm chủ nhân. Rồi thì ông rời khỏi  thế giới doanh nghiệp để làm khảo cứu,  vì ông thấy rằng  thách thức lớn hơn nhiều cho khảo cứu y khoa, ngành ông lựa chọn.

        Năm 1970, ông được mời giữ chức Trưởng ban  bệnh học tại trường y khoa Harvard , trước đây đã không  chấp nhận cho ông vào học. Một chục năm sau, ông biến  thành Viện ( hiệu trưởng , chủ tịch ) Trưỡng  Dana –Farber,  cũng đã  được kết nạp  vào đại học Harvard. Lúc này trường phát triễn đồ sộ, nhờ ông tuyễn  các bác sĩ  lâm sàng và nhà khảo cứu chóp bu- đầu sọ , cũng cứu xét , theo dõi xây dựng hai cơ sở  khảo cứu chánh.

       Ông thôi giữ chức viện trưởng năm 1992,  nhưng vẫn tiếp tục  công trình khảo cứu của mình,  mãi đến quá tuổi bát tuần.  Vợ trong 68 năm của ông, bà Annette Dreyfus,  chết tháng 6 năm 2011. Con gái , bà bác sĩ  Beryl Banacerraf  ở Boston , 2 cháu ngọai   và em ông,  Paul,  ở Princeton, còn sống.
                
                 ( Irvine,  ngày 11 tháng 8 năm 2011 )            

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét