Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2010

hải đường - trà mi


Bàn thêm về lòai thứ giống, hải đường - trà mi “ Mặt trời – Dương nhật “

G S Tôn Thất Trình

Trà mi “ Mặt trời – Dương nhật “ Camellia sasanqua Thunb. ở nước ta hay được gọi là trà mai , vì nở hoa trời nắng ban mai hay là cây Sở hay cây dầu Sở ,vì nhiều thứ giống được trồng trước đây lấy hột làm dầu sở , tuơng tự cây Du trà, cây Sở lòai Camellia oleifera C. Abel. (C. oleosa Lour. , C. drupifera Lour. ) ở Cà ná – Ninh Thuận , dùng trái bắt cá . Không phải là trà hoa Nhật lòai Camellia japonica L. , thường gặp ở Hà Nội , ở Đà Lạt, thứ giống không lai tuyễn , cây nhỏ hơn sasanqua nhiều, nhưng hoa to, màu hoa đỏ chói .

Lòai C. sasanqua được gọi tên là “Trà mi Mặt Trời – Sun Camellia” , vì ở khí hậu bán ôn đới như ở bang Ca Li , Hoa Kỳ , nở vào lúc có nhiều nắng , nhiều ánh dương quang . Đa số thứ giống lòai cây này, cũng nở hoa vào mùa thu, thay vì vào mùa đông, như một thi sĩ đã tả “ … Tuyết xuống nơi nào lạnh lắm không ?... Thỏang gió trà mi động mây bông . “. Theo Julius Nuccio , một trong 3 con cái dòng họ điều khiển vườn ươm trà mi nổi tiếng Nuccio nurseries , ở Altadena , thành phố Los Angeles , ít hơn nữa ngày nắng trong mùa hoa , cây sẽ không nở hoa .Phải có “ … Bóng dương lồng bóng đồ ( trà ) mi trập trùng… Cung Óan Ngâm khúc “ hay “ ..Tiếc thay một đóa trà mi, con ong ( chỉ họat động ban ngày ) đã tỏ đường đi lối về… Kim Vân Kiều “ Các giống trà hoa khác nhất là của lòai C. Japonica thường mọc tốt hơn ở bóng râm ; đặc biệt giống Như chúng ta đã biết lòai trà mi – hải đường thuộc họ thực vật Trà Theaceae, cây trà trồng lấy lá chế biến uống nước trà ( Chè ), nhờ lá chứa cafêin , teophilin v.v… thuộc lòai Camellia sinensis O. ktze., thường trồng ở vùng cao mát mẽ trà mới ngon . Hiện thế giới đã liệt kê trên 3000 thứ giống lòai trà C. sinensis , chia ra nhiều nhóm phụ như bohea, assammica , viridis , cantonensis , latifolia , macrophylla , strata … Trong số 23 lòai camellia mang tên trà hoa ở Việt Nam , chỉ có hai lòai được trồng trọt thưởng thức hoa : đó là Trà hoa Nhật C. japonica và Trà hoa lá ôm C. amplexicaulis ( ? ) Coh. – Swart , các cụ ta xưa trồng ở các vườn Thừa Thiên – Huế ( ? ). Lạ lùng thay , cây Trà hoa Việt Nam lòai C. vietnamensis Huang ex Hu. lại đưa từ Việt Nam về trồng ở tỉnh Qủang Tây ,Trung Quốc. Ba lòai trà hoa hoa vàng, nguồn gốc Việt Nam , hoa vàng đậm C. chrysantha Tuyama ( Cúc Phuơng Ninh Bình – Thanh Hóa ? ), hoa vàng C. flava Sealy ( ở Hòa Bình ) , hoa vàng lợt C. lutescens Dyer ( ở Vĩnh Yên ) chỉ mới kiểm kê , nước nhà chưa phổ biến hay dùng lai tuyễn chọn trà mi lai - hybrids .

Âu Mỹ, trước đây, lai các lòai C. japonica với C. saluensis ( không kiểm kê được ở nước ta ) loài cây đầy hoa, mùa xuân đến , chịu lạnh gắt và dáng đẹp ( xem hình mô tả các dạng hoa trà mi – hải đường đính kèm ). Nhưng nay thường lai tuyễn các thứ giống C. Japonica với C. reticulata, ( cũng không kiểm kê đượcở Việt Nam ) là lòai cây mảnh khảnh , nhưng có hoa to nhất, trong các hoa trà mi, cánh hoa lại hay cong vòng . và với “lọai trà mi mặt trời” C. sasanqua như đã nói trên. Chúng tôi đã trồng chậu đặt sau vườn nhỏ bé nhà chúng tôi ở Irvine , Ca li , giống C. japonica Charles Cobb,thích hợp nhất cho khí hậu ấm áp, lá sum soe , hoa to màu đỏ đậm , dạng nữa kép hay dạng mẩu đơn . Và giống tuyễn chọn, lai giữa C . japonica vàC . reticulata là Knudsen, hoa rất to, màu lan hồng , cánh hoa dạng nữa kép hay dạng mẩu đơn , cây dày dặc , nhưng thẳng đứng .

Thật ra, những lòai trà mi thích ánh nắng mặt trời không chỉ dành riêng cho các thứ giống C. Sasanqua , mà còn áp dụng cho các lòai lai C.xhiemalis và C. xvernalis . Từ lâu , sasanquas đã nổi tiếng nhờ hột chứa nhiều dầu và gỗ cứng. Nhưng các nhà vườn khi trồng khi đốn bỏ chúng, kể cả ở Nhật, từ thế kỷ thứ 14. Những giống sasanquas đầu tiên đưa vào Âu Châu năm 1869 , phần lớn chết vì tuyết đông giá . Đầu thập niên 1900 , sasanqua được du nhập vào miền Nam bang Ca li , Hoa Kỳ . Tuy nhiên các nhà vườn vẫn tránh trồng sesanquas hoa , cây có vẽ mảnh khảnh , lựa chọn các giống lá rộng hơn thuộc C. japonica và C. reticulata , hoa đã to hơn nhiều, mà lại không rụng bớt cánh khi cắt cành . Nhưng thời trang thay đổi và ngày nay dân Ca Li lại thích những dạng hoa nhỏ và đơn giản , dễ trồng hơn và thích hợp cho vườn bé nhỏ hơn .Tỉ như giống đầy hoa, cánh hồng điểm trắng Shibori Egao , giống Shishigashira , cánh hoa bù xù như “Đầu Sư tử- Lion Head “ , hoa màu hồng , chỉ rộng 6-7 cm , cây lùn mọc chậm nhưng dày dặc , cần 12 năm mới cao được 1,50m . Hay giống Cleopatra, mọc mau hơn, giống “ Dwarf Shishis “, màu hồng lợt , nhụy vàng dài như lông mi vàng kim . .

Tại sinh thái nguyên thủy miền bán nhiệt đới Nam Nhật bổn, Trà mai C. sasanqua là một lòai biến dạng nhiều, lai tự nhiên dễ dàng với các lòai , giống trà mi thích hợp di truyền khác . Cây trà mai có thể mọc thẳng . mọc ngang , dày dặc hay lỏng lẻo , lưa thưa. Trà mi sasanqua hoang dại điển hình có hoa đơn chiếc , màu trắng , đôi khi ửng hồng như hoa mận ( tây – plum ) , cho nên Nhật mới gọi là sazanka hay là “ trà hoa mận – plum flowered tea “ .
Suốt mấy thế kỷ trồng trọt, hiên nay đã có hơn 200 lọai sasanquas . Hoa ít cánh, hoa nhiều cánh . . Hình chén như hoa hồng , dẹp như các lọai cúc, cúc đồng tiền , cúc Dị Nha … trắng tinh , hồng dịu dàng hay đôi khi đỏ tươi .

Tiến trình lai tuyễn chọn chầm chậm đáng yêu . Tiến triễn từ thể hôt đến thể hoa có thể cần 5 năm trời , có khi dài 14- 20 năm . Chỉ 1 trong số 1000 cây con tuyễn chọn là đủ phẩm gíá, để tuyễn chọn, đặt tên , đăng ký và phổ biến trong dân gian . Dù vậy , rất nhiều dân Nam Ca li đã trồng sasanqua nhiều năm rồi, mà không biết . Các cây con sasanqua dùng làm cây gốc ,kháng bệnh thối rễ , cho tháp cành những giống loài trà mi khác . Các giống hoa trà mi - hải đường nhất là các giống lùn nguyên lòai hay lai tuyễn trồng chậu rất tốt , nhất là trong thùng gỗ hay thùng cất rượu cắt đôi . Nhiều thứ giống mọc chậm còn dùng làm bonsai nữa .




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét