Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2010

Sinh học: Marshall Nirenberg & Edwin G Krebs


Thử nhớ tưỡng công trình vài vĩ nhân khoa học, đã mở lối cho công nghệ sinh hóa học ngày nay: ( G S Tôn ThấtTrình )
                                                            
1-      Nhà đoạt giải Nobel Marshall Nirenberg,
giải mã mã số di truyền, qua đời
                                                                                                  
Nhà đoạt giải Nobel sinh lý học hay y khoa năm 1968,  chia sẽ giải này với hai nhà khoa học khác, Marshal Nirenberg qua đời ngày 15 tháng giêng năm 2010 tại nhà  riêng thành phố New York. Ông năm nay 82 tuổi ( 1927- 2010 ) , chết vì bệnh ung thư . Ông đoạt giải Nobel nhờ giải mã được mã số di truyền - deciphered the genetic code , giúp cho thông tin chứa trong gen ( es ) chuyễn dịch thành protêins . Nirenberg  làm sự nghiệp   suốt đời với   các Viện Y Tế Quốc gia ( HoaKỳ )- NIH  ở Bethesda, bang Maryland , người công chức chánh phủ đầu tiên đoạt giải Nobel theo Francis S. Collins giám đốc NIH , là một trong những vĩ nhân phi thường của ngành sinh học .
Nurenberg là nười ngoại cuộc không được xếp vào   loại các nhà khoa học ưu tú Hoa Kỳ, khi ông bắt đầu sự nghiệp vào thập niên 1950, trong công cuộc có tên là thời đại hoàng kim của khoa sinh học phân tử - molecular biology.  Lúc đó, các nhà khảo cứu mới khởi sự hiểu biết vai trò và chức năng của DNA , vật liệu di truyền làm mã số thông tin cần thiết cho đời sống.
Francis Crick và James Watson đã suy diễn cơ cấu của DNA năm 1953 , chứng minh là cặp đôi vòng xoắn - double helix , nay vang danh, gồm có 4 nuclreotid lập lại ( thời gian này chúng tôi còn đang mài đũng quần tại viện đại học nông nghiệp Ba Lê ). Câu hỏi lớn đặt ra kế tiếp là bao nhiêu nucleotid này và   phối hợp ra sao, cần thiết để ghi rỏ mỗi một amino acids, trong số 20 amino acids tìm thấy ở proteins. Crick kết luận, phần lớn trên căn bản lý thuyết, là cần có 3. Như vậy sẽ có 64 phối hợp có thể có được cho 4 nucleotid. Hợp tác với đồng nghiệp hậu tiến sĩ J. Heinrich Matthaei, Nirenberg thích nghi một hệ thống sạch tế bào - cell-free   có thể tổng hợp protein, bằng cách sử dụng enzymes từ vi khuẩn nghiền nát trong cối  để phá tan các thành tế bào . Ý tưởng của ông là đưa các mảnh RNA ( đã được biết là mang theo thông tin di truyền từ DNA đến máy móc tạo ra protein, thành phần làm sẳn thành một xúp - soup và nhìn xem là protêin nào đã được tạo ra.
Các nhà khảo cứu khác đã nghĩ đến thể thức này , nhưng đã vất bỏ nó đi , vì lúc đó tin tưởng thịnh hành là mỗi protêin sản xuất ra trong một tế bào, đòi hỏi một bộ máy móc sản xuất riêng rẽ. Nurenbetrg thì nghĩ rằng   tiến trình tổng quát hơn .máy móc của tế bào , có khả năng   làm bất cứ một protêin nào , tùy theokhâu mẩu - template đưa ra .
Ngày thứ bảy 27 tháng 5 năm 1961, vào lúc 3 giờ trưa, Matthaei đặt một mảnh RNA chỉ gồm có uracil vào xúp vi khuẩn và tìm thấy là nó chỉ sản xuất một protêin là phenylalanine . Hai người đã thiết lập  chữ cái đầu tiên   của ngữ vững di truyền: một mảnh gồm 3 nucleotid còn có tên là đơn vị mã - codon gồm có U-U-U làm khuôn mẩu cho phenylalanine .
Tháng 8 năm 1961, Nirenberg trình bày các thành quả trong một bài bản tại Hội Nghị Quốc Tế Sinh Hóa Học ở Moscow. Rất ít nhà khoa học ở trong phòng họp  lắng nghe ông báo cáo , ngoai trừ nhà hóa sinh học Matthew Meselson , nhận thức đặc điểm và thuyết phục Crick ghi sao chép, lập lại Nirenberg vào bài thuyết trình của Crick ngày hôm sau, trước một cử tọa đông hơn nhiều. Thời gian này Mattthaei cho biết là họ đã xác định một đơn vị mã thứ hai: phối hợp gồm 3 cytosines C-C-C   khi viết tắt di truyền , sản xuất ra amino acid proline .   Các quan sát viên tại hội nghị nhớ lại rằng rất nhiều nhà khoa học ở cử tọa đã tự trách trong trí nảo là tại sao họ lại không làm các thí nghiệm này, nhìn lui lại thật là đơn giản và hiển nhiên.
Tiếp theo là thời gian chạy đua hầu xác định số 62 đơn vị mã khác . Nhà đoạt giải Nobel Severo Ochoa của trường y khoa viện đại học New York, động viên la bô lớn của ông và được xem là người dẫn đạo lớn nhất cho cuộc chạy đua này . Nirenberg, tài nguyên quá ít không được xem là một nhà thí sinh đáng kể . Thế nhưng một điều khôi hài đã xảy ra. Khi được biết là một giải Nobel đang thành hình , các nhà khảo cứu khác ở NIH bỏ ngay tạm thờicác dự án họ đang làm   và đến la bô phụ giúp những cố gắng của Nirenberg. Hơn 20 nhà khoa học đã góp phần vào công trình ông Và sau đó Ochoa cũng bỏ cuộc đua, khi biết là Nirenberg sẽ thắng cuộc . 
Đến năm 1966 ,  61 đơn vị mã   trong số 64 tiềm năng đã được xác định , vài amino acids có thể do nhiều đơn vị mã hơn là một đơn vị sản xuất ra . Năm 1967, ba đơn vị mã  còn lại là những điểm   định dấu chấm phết cho biết chấm dứt nơi cuối cùng của một gen . Ở những thí nghiệm sau đó, Nirenberg cho thấy là một mã số chung được sử dụng trên một loài khác - thật tế là trên mọi loài ở Trái Đất. Ông nói: bạn có thể nhìn cây cối , hoa , sóc , chim và bạn có thể biết là chúng đều liên hệ nhau.
Năm 1968 , Nirenberg chia sẽ giải Nobel về sinh lý học và y khoa , như đã nói trên , cùng 2 nhà khảo cứu khác, đã giải quyết những khía cạnh khác của vấn đề.
           
Nhờ vinh quang , ông được mời giữ những chức vụ quan trọng khắp thế giới , nhưng ông quyết định ở lại NIH. vì ông cho rằng   nguồn tài trợ ở NIH luôn luôn vững vàng , giúp ông  rời được nhiệm vụ   làm đơn xin tài trợ   và khỏi phải dạy học  và cũng có  thêm thi giờ cho ông khảo cứu. Nhưng ông vẫn dạy những sinh viên  phải khảo cứu qua la bô ông và chính 2 s trong số  sinh viên này cũng đã đoạt giải Nobel sau đó .
           
Tiếp theo , ông chuyễn qua ngành sinh học dây thần kinh - neurobiology , góp  thêm nhiều công lao  khác, kể cả khám phá ra một gen ruồi trái cây cần thiết cho tim phát triễn.
Marshall Warren Nirenberg sinh ngày 10 tháng tư năm 1927 tại Brooklyn , New York, nhưng khôn lón ở thành phố Orlando, bang Florida. Ông theo học đại học Florida, đậu  Cữ nhân Khoa hoc -Bachelor of Science năm 1948 và thạc sĩ sinh học 4 năm sau đó . Ông đậu tiến sĩ sinh hóa học tại viện đại học Michigan năm 1957 và làm hậu tiến sĩ ở NIH. Bà vợ đầu tiên của ỏng Perola Zaltzman Nirenberg, chết năm 2001. Bà vợ thứ hai Myrna Weissman và bà chị ông Joan N. Geiger ở Dallas, còn sống. Ông có 4 con riêng của vợ và 7 cháu nội ngoại.
2- Edwin G Krebs ( 1918- 2009 ) đoạt giải Nobel
nhờ đồng khám phá ra cơ chế then chốt ở tế bào
Bác sĩ Edwin G. Krebs nhà đoạt giải Nobel của đại học Washington,  nhờ đồng khám phá ra cơ chế theo đó một loạt rộng rải tiến trình được tắt - mở   bên trong tế bào, dẫn tới một bùng bổ kiến thức về cách nào tế bào tăng trưởng, thay đổi, phân bào và chết đi . ( Chúng tôi và các giáo sư nông lâm súc như các bác sĩ thú y Vũ Ngoc Tân, Trần văn Du… vẫn thường thảo luận giảng dạy về chu trình Krebs ) Bác sĩ Krebs tạ thế ngày 21 tháng chạp năm 2009, vì bệnh tim ngưng đập nặng dần, thọ 91 tuổi.
 Krebs và người đồng đoạt giải Nobel Edmond H. Fisher là những nhân vật đầu tiên khám phá rằng đa số tiến trình trong tế bào - từ các phản ứng chuyễn hóa căn bản - fundamental metabolic reactions đến  khởi sự ung thư - đều được kích động khi các protêin khẩn thiết được hoạt hóa bằng một tiến trình gọi là sự phosphoryl hóa- phosphorylation , trong đó một phân tử phosphate được thêm vào protein.
Khi thêm vào hay lấy ra phosphat, có thể đóng hay mở hoạt động của enzym. K rebs và Fischer là những người đầu tiên xác định và mô tả tính cách một enzyme đem theo phản ứng này, nêu rỏ đó là căn bản của mọi chức năng sinh học. Tiến trình quan trọng đến nổi 1% hệ gen người dành riêng cho  bản vỗ ( bản sơ đồ - blueprint ) hầu sản xuất   các enzyme làm ra phosphoryl - hóa , theo lời ủy ban cấp giải thưởng Nobel.
Công trình của hai người đã giúp cho các nhà khảo cứu hiểu biết các vấn đề sinh học riêng biệt, tỉ như cách nào dược phẩm cyclosporine ngăn ngừa đào thải các bộ phận cấy ghép vào thân thể, tại sao vài loại ung thư phát triễn , cách nào hormones ảnh hưởng thân thể , cách nào thông tin   di truyền được phiên mã thành protein và cách nào thân thể chuyễn hóa đường- sugar để sản xuất năng lượng .
Khiếm khuyết trong việc điều hòa phosphoryl - hóa là trọng tâm nhiều hổn loạn như ung thư, tiểu đường, bệnh dây thần kinhvà các điều kiện tim cùng một loạt rộng rải khảo cứu dược phẩm cận đại, được nhắm đích khi thao tác tiến trình này .
Hai ông cộng tác bắt đầu từ năm 1955, một thời gian ngắn sau khi Fischer đến đại học Washington từ nước ông sinh trưởng là Thụy Sĩ và biết là cả hai đang cùng khảo sát một vấn đề như nhau, cách nao các cơ bắp ( bắp thịt ) tìm ra năng lượng để co lại. “ Krebs đập mạnh vào lưng tôi và nói : chúng ta hãy làm rạn nứt vấn đề “, theo lời Fischer nhắc lại năm 1992,  khi hai ông đoạt giải Nobel sinh lý học hay y khoa. Thoat tiên, hai ông hoạt động sát cánh đến nổi khi một người phải đi giảng dạy , người kia phải làm làm hết thí nghiệm trong ngày .
Fisher nói thêm : trong lúc tìm kiếm nguồn năng lượng này, ho đã vấp phải một phản ứng điều hòa hoạt động của một enzyme cơ bắp . Chúng tôi không rỏ   là phản ứng này tràn lan đến mức nào … và nó có là một cái gì rất độc đáo hay không có một tí xíu quan trong nào cả.
Các nhà khoa học khác cũng không rỏ và đã phải mấy một chục năm ,  trước khi họ bắt đầu   nhìn thấy ý nghĩa của phản ứng . Rồi thi nó tung lên như một hỏa tiễn  ( teên lữa ) . theo ,lời của một thành viên Ủy Ban Nobel Hans Wigzell năm 1992 . Nay thì   10 % của/ mọi bài  bản sinh học đăng tải mở các tạp chí như Thiên Nhiên hay Khoa Học, đều đã động đến trong lảnh vực mình .
Edwin Gerhard Krebs sinh  ngày 6 tháng 6 năm 1918 . ở thành phố Lansing bang Iowa;  con của một mục sư Tin lành và cũng là giáo sư . Ở tự truyện mình cho giải Nobel , ông nhấn mạnh là ông khoông thích thú nhiều về khoa học khi còn nhỏ , ngoài việc   làm thuốc súng vói  các vật liệu gom góp  từ một tiệm bán thuốc và bộ sách hóa học của anh ông . Ông theo các anh đến đại học Illinois và ghi danh vào một c chương trình “ giảng dạy cá nhân có thể giúp ông theo học một loạt lớp toán và khoa học rộng rải. Lúc thời khủng hoảng mở màn, ông quyết định là hóa học hay y khoa sẽ giúp ông có một đời sống thanh thản . .Ông đã lựa chọn y khoa khi được học bổng vào viện đại học y khoa Washington ở thành phố Saint Louis.
Ông đổ bằng bác sĩ y khoa năm 1943 và làm nội trú - residency 18 tháng trước khi trở thành bác sĩ hải quân. Đó là làn cuối cùng ông thực thi y khoa . Giải ngũ năm 1946 , ông trở về Saint Louis ; nhưng thất vọng vì mọi chức vụ đều đã tuyễn xong bác sĩ , giải ngũ trước ông. Cho nên ông phải làm hậu tiến sĩ ở một la bô hóa sinh học của Carl và Gerty VColi ,  cũng đã đoạt giải Nobel năm 1947 .
  Mê say công trình, hai năm sau Krebs  nhận một chức vụ giảng dạy ở trường đại học Washington nơi ông làm trọn sư nghiệp ông , ngoại trừ 8 năm từ năm 1968 đến năm 1977 , khi ông   làm chủ tịch sáng lập ra ban hóa sinh học tại trường y khoa viện đại học UC Davis, bắc Ca Li.
Ông cũng có môn bài làm bác sĩ y khoa ở Washington , nhưng ông không bao giờ trở lui lại nghề nghiệp này . Ở cả hai viện, ông yêu thich các nhiệm vụ hành chánh, lưu ý là ông thích nhất ở chức vụ là  có trách nhiệm tuyễn chọn thành viên giảng dạy tốt .
. Sau đó ông tiếp tục nghiên cứu phosphoryl hóa và bắt nhánh ngang sang chuyễn hóa carbohydrate và   cách tế bào làm tín hiệu tế. Ngay cả sau khi nghĩ hưu hình thức năm 1991 , ông tiếp tục ngày ngày di bộ từ nhà đến khu học xá để làm thí nghiệm và gặp gỡ các sinh viên hoc tiến sĩ và các nhà làm hậu tiến sĩ .
 Vợ ông cùng chung sống 64 năm, Virginia “ Deedy “ Krebs,   là một y tá ông gặp ở viện đại học Washington, khi ông là bác sĩ y khoa , vẫn còn sống với hai con gái của ông bà là Sally Herman ở Salem , bang Oregon và Martha Abrego ở Shoreline , bang Washington , con trai Robert ở Seattle , 4 cháu và 6 chắt nội ngoại .      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét